Khảo sát các đặc điểm dịch tễ học, lâm sàng, bệnh học và điều trị ung thư vú ở bệnh nhân nam giới
Mục tiêu: Khảo sát các đặc điểm lâm sàng, bệnh học và các phương pháp điều trị bệnh nhân carcinôm vú
nam.
Phương pháp: Báo cáo loạt ca những bệnh nhân nam với chẩn đoán carcinôm vú (ống tuyến hoặc tiểu
thùy) điều trị tại BVUB TP. HCM từ 01/01/2018 đến tháng 31/08/2019.
Kết quả: Có 07 trường hợp bệnh nhân ung thư vú nam được khảo sát. Trung vị thời gian có triệu chứng là
17,7 tuần (khoảng từ 1-60 tuần). Chỉ có 1 bệnh nhân có mẹ bị ung thư vú. 100% bệnh nhân đến khám vì có
bướu ở vú. Trung bình kích thước bướu là 4,14cm (3 - 5cm). Đặc điểm giải phẫu bệnh bao gồm 71,4% các
trường hợp là carcinôm ống tuyến vú, 57,1% trường hợp có độ mô học là grad 2. Phân nhóm sinh học của
nhóm bệnh nhân nghiên cứu gồm: 28,6% có Luminal B Her2 dương tính và 85,1% có Ki67< 10%.="" 100%="">
trường hợp có chỉ định phẫu thuật được phẫu thuật đoạn nhũ nạo hạch. Các trường hợp có chỉ định điều trị hỗ
trợ thì hoá trị với phác đồ có taxanes chiếm 60% và không có trường hợp nào sử dụng thuốc trastuzumab, có 2
trường hợp chỉ sử dụng Tamoxifen do bệnh nhân không muốn hóa trị. Có 2 trường hợp bệnh di căn ngay từ
đầu được hóa trị, trong đó 1 trường hợp có sử dụng phác đồ Docetaxel - Trastuzumab. Do giới hạn về thời gian
nghiên cứu nên chúng tôi chưa đánh giá được sống còn cho toàn bộ nhóm bệnh nhân.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Khảo sát các đặc điểm dịch tễ học, lâm sàng, bệnh học và điều trị ung thư vú ở bệnh nhân nam giới
VÚ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 388 KHẢO SÁT CÁC ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ HỌC, LÂM SÀNG, BỆNH HỌC VÀ ĐIỀU TRỊ UNG THƯ VÚ Ở BỆNH NHÂN NAM GIỚI TRẦN NGUYÊN HÀ1, PHAN THỊ HỒNG ĐỨC2 Mục tiêu: Khảo sát các đặc điểm lâm sàng, bệnh học và các phương pháp điều trị bệnh nhân carcinôm vú nam. Phương pháp: Báo cáo loạt ca những bệnh nhân nam với chẩn đoán carcinôm vú (ống tuyến hoặc tiểu thùy) điều trị tại BVUB TP. HCM từ 01/01/2018 đến tháng 31/08/2019. Kết quả: Có 07 trường hợp bệnh nhân ung thư vú nam được khảo sát. Trung vị thời gian có triệu chứng là 17,7 tuần (khoảng từ 1-60 tuần). Chỉ có 1 bệnh nhân có mẹ bị ung thư vú. 100% bệnh nhân đến khám vì có bướu ở vú. Trung bình kích thước bướu là 4,14cm (3 - 5cm). Đặc điểm giải phẫu bệnh bao gồm 71,4% các trường hợp là carcinôm ống tuyến vú, 57,1% trường hợp có độ mô học là grad 2. Phân nhóm sinh học của nhóm bệnh nhân nghiên cứu gồm: 28,6% có Luminal B Her2 dương tính và 85,1% có Ki67< 10%. 100% các trường hợp có chỉ định phẫu thuật được phẫu thuật đoạn nhũ nạo hạch. Các trường hợp có chỉ định điều trị hỗ trợ thì hoá trị với phác đồ có taxanes chiếm 60% và không có trường hợp nào sử dụng thuốc trastuzumab, có 2 trường hợp chỉ sử dụng Tamoxifen do bệnh nhân không muốn hóa trị. Có 2 trường hợp bệnh di cĕn ngay từ đầu được hóa trị, trong đó 1 trường hợp có sử dụng phác đồ Docetaxel - Trastuzumab. Do giới hạn về thời gian nghiên cứu nên chúng tôi chưa đánh giá được sống còn cho toàn bộ nhóm bệnh nhân. Kết luận: Ung thư vú là một tình trạng hiếm gặp ở nam. Ung thư vú nam thường có các đặc tính sinh học ít ác tính hơn. Các nguyên tắc điều trị chính ở nhóm tuổi này không khác biệt so với ung thư vú nữ trong các nghiên cứu hiện tại, tuy nhiên cần phát triển của điều trị ứng hợp cho nhóm này. Từ khóa: ung thư vú nam ABSTRACT Breast cancer in male: Epidemic, clinicopathological features and treatment Purpose: To evaluate the clinical and pathologic features and treatment of breast cancer male patients Patients and method: This is a case series study on 7 male patients diagnosed with breast ductal or lobular carcinoma and treated from 1/1/2018 to 31/08/2019 at HCMC Oncology Hospital. Results: The median duration of disease awareness before hospitalization was 17,7 weeks (range 1 - 60 weeks). Only 1 patient has family history of breast cancer (her mother). 100% of cases presented with a palpable mass of the breast. Mean tumor size at hospitalization was 4,14cm (range 3 - 5cm). On apthological examination, 71,4% of cases were ductal carcinoma and 57,1% of cases were grad 2. On biological subgroup analysis, we found that 28,6% of cases were Luminal B Her2 positive and 85,1% of patients had low Ki67 levels (<10%). 71,4% of patients received surgery initially. Mastectomy was the only procedure (100% of cases). In 5 patients had indicated adjuvant therapy, Taxane-based adjuvant indicated for 60% of patients, but 2 of them only received tamoxifen because they didn’t want chemotherapy. 2 cases had metastasis disease had chemotherapy, and one patient had trastuzumab - docetaxel. We couldn’t evaluate overall survival of the whole group because of the limitation of time. Conclusion: The incidence of breast cancer in the men is very rare. The biological nature of invasive breast cancer of this group is not very aggressive. In general, the treatment for this group of patients is not different from those applying on breast cancer in women. Patients of this group of age need to be indicated targeted therapy if possible. Key words: Male breast cancer. 1 BSCKII. Trưởng Khoa Nội 4 - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM 2 TS.BS. Phó Trưởng Bộ môn Ung Bướu - Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch, Bác sĩ Điều trị Khoa Nội 4 - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM VÚ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 389 ĐẶT VẤN ĐỀ Ung thư vú nam là bệnh hiếm gặp. Tại các nước phương Tây, ung thư vú nam chiếm khoảng < 1% trong tất cả các bệnh lý ở vú và <1% trong tất cả các loại ung thư ở nam. Xuất độ ung thư vú nam khoảng/100.000 ca bệnh nam hàng nĕm. Các nghiên cứu dịch tễ học gần đây cho thấy tần suất ung thư vú nam đang gia tĕng đến 1,1% mỗi nĕm. Tần suất ung thư vú nam thay đổi giữa các nước. Tỉ lệ ung thư vú cao nhất ở Israel (1,08/100.000 người/ nĕm), thấp nhất tại Đông Nam Á, đặc biệt ở Thái lan (0,14/100.000 người/ nĕm). Trong hai thập niên vừa qua, đã có nhiều cải thiện trong hiểu biết và điều trị ung thư vú. Tuy nhiên, bệnh lý này thường được chẩn đoán trễ ở nam, ngược lại so với nữ, do tần suất hiếm gặp cũng như thiếu nhận thức ở nam đưa đến phát hiện ở giai đoạn muộn. Các nghiên cứu ngẫu nhiên không thể thực hiện do tần suất thấp và chỉ có một số ít các nghiên cứu tiền cứu trong y vĕn. Các khuyến cáo điều trị chủ yếu dựa trên các nghiên cứu từ ung thư vú ở nữ. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Thiết kế nghiên cứu Báo cáo loạt ca. Đối tượng nghiên cứu Tất cả các bệnh nhân ung thư vú nam được nhập viện điều trị tại BVUB TP. HCM từ 01/01/2018 đến tháng 31/08/2019 với giải phẫu bệnh là carcinôm ống tuyến vú hoặc tiểu thùy. Các bước thực hiện nghiên cứu Sau khi chọn bệnh nhân đủ tiêu chuẩn nhận bệnh, chúng tôi sẽ ghi nhận các biến số: Các biến số về dịch tễ học: Tuổi, nghề nghiệp, nơi cư trú. Tiền cĕn cá nhân, gia đình. Các biến số về lâm sàng: Thời gian khởi bệnh, lý do nhập viện, điều trị trước đó, giai đoạn TNM. Các biến số về mô bệnh học: Giải phẫu bệnh, ER, PR, Her2, Ki67, FISH, grad mô học, phân nhóm phân tử. Điều trị: Phẫu trị, hóa trị, xạ trị. Chấm dứt theo dõi: 30/9/2019. Tiêu chuẩn xếp loại phân tử theo kết quả hóa mô miễn dịch Bảng 1. Phân nhóm phân tử theo kết quả hóa mô miễn dịch Phân nhóm phân tử Hóa mô miễn dịch ER và/ hoặc PR Her2 Ki67 Luminal A + - < 10% Luminal B/Her2 - + - >10% Luminal B/ Her2 + + + Bất kỳ Her2 + - + Bất kỳ Tripple negative - - Bất kỳ Xử lý số liệu Dùng phần mềm SPSS 17.0 để xử lý số liệu. Khảo sát sống còn bằng phương pháp Kaplan - Meier. Phân tích tương quan bằng phép kiểm Log - rank. Phân tích đa biến bằng phương pháp hồi quy Cox. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Đặc điểm nhóm khảo sát Trong thời gian từ 2018 - 2019, có 07 bệnh nhân ung thư vú nam tại thời điểm chẩn đoán được điều trị tại khoa Nội 4 Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM. Tất cả các bệnh nhân này được ghi nhận về tình huống lâm sàng, các kết quả chẩn đoán hình ảnh, mô bệnh học. Trung vị thời gian có triệu chứng là 17,7 tuần (khoảng từ 1 - 60 tuần). Chỉ có 1 bệnh nhân (14,3%) có mẹ bị ung thư vú. Không có bệnh nhân nào được ghi nhận có tiền cĕn ung thư vú trước đó. 100% bệnh nhân đến khám vì có bướu ở vú. Trung bình kích thước bướu là 4,14cm (3 - 5cm). Bảng 2. Các đặc điểm dịch tễ học Biến số n (%) Tuổi Lớn nhất Nhỏ nhất Trung bình 67 46 55 Tiền cĕn ung thư vú trước đó Có Không 0 (0) 7 (100) Tiền cĕn ung thư khác 1 (14,3) (K giáp) Tiền cĕn ung thư vú gia đình Ung thư vú ở mẹ hoặc chị em gái Ung thư vú thành viên khác Không có 1 (5) 0 19 (95) VÚ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 390 Bệnh khác: Cao huyết áp, lao hạch đang điều trị tháng thứ 4. Bảng 3. Các đặc điểm lâm sàng Biến số n (%) Vị trí bướu P T 3(42,9) 4(57,1) Kích thước bướu 3cm 4cm 5cm 2(28,6) 2(28,6) 3(42,8) Kích thước bướu (cm) Lớn nhất Nhỏ nhất Trung bình 5 3 4,14 pT pT2 pT4 3(42,9) 4(57,1) Tình trạng hạch Có di cĕn Không di cĕn 4(57,1) 3(42,9) pN 0 1 2 3(42,8) 2(28,6) 2(28,6) M 0 1 5(71,4) 2(28,6) Có 42,9% các trường hợp bướu 5cm lúc chẩn đoán. 2 trường hợp có di cĕn xa lúc chẩn đoán. Vị trí di cĕn xa: phổi, màng phổi, hạch trung thất, hạch rốn phổi, xương. Bảng 4. Các đặc điểm bệnh học Biến số n (%) Phân nhóm bệnh học: Carcinôm ống tuyến xâm lấn Carcinôm tiểu thùy xâm lấn Các carcinôm xâm lấn khác 5 (71,4) 1 (14,3) 1 (14,3) (dạng nhày) Độ mô học I II III 2 (28,6) 4 (57,1) 1 (14,3) Phân nhóm phân tử Luminal A Luminal B/Her2 – Luminal B/ Her2 + Her2 + Tripple negative 3 (42,8) 2 (28,6) 2 (28,6) 0 (0) 0 (0) ER + - 7 (100) 0 (0) PR + - 5 (71,4) 2 (28,6) Her2 +++/ FISH + - 2 (28,6) 5 (71,4) Ki67 < 10% > 10% 6 (85,1) 1 (14,3) 71,4% các trường hợp là carcinôm ống tuyến vú, 57,1% grad 2, 42,8% luminal A, 28,6% có Her2 +++ và 85,1% có Ki67< 10%. Điều trị Bảng 5. Điều trị Biến số n (%) Điều trị lúc đầu Phẫu trị Điều trị toàn thân 5 (71,4) 2 (28,6) Phẫu trị Đoạn nhũ nạo hạch Không PT 5 (71,4) 2 (28,6) Hóa trị hỗ trợ Có Không 3 (60) 2 (40) Hóa trị/ di cĕn Có Không 2 (100) 0 (0) Hóa trị tân hỗ trợ Có Không 0 (100) 7 (100) Phác đồ ĐTHT TC 2 (40) VÚ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 391 AC-T Chỉ TAM 1 (20) 2 (40) Xạ trị Có Không 2 (60) 3 (40) Điều trị di cĕn Cap-BPPs Doc-Tras 1 (50) 20 (50) 71,4% được phẫu trị lúc đầu; trong đó 100% được phẫu thuật đoạn nhũ - nạo hạch. Có 3/5 trường hợp được hóa trị hỗ trợ sau mổ với phác đồ AC-T hoặc TC. Có 2 trường hợp không muốn hóa trị sau mổ, được sử dụng Tamoxifen hỗ trợ. Không có trường hợp nào sử dụng thuốc Trastuzumab điều trị hỗ trợ sau mổ. Có 2 trường hợp bệnh di cĕn ngay từ đầu, được sử dụng phác đồ Capecitabine-BPPs hoặc Docetaxel-Trastuzumab. Bảng 6. Đặc điểm lâm sàng và bệnh học của các bệnh nhân di cĕn từ đầu Kích thước bướu (cm) Thời gian có triệu chứng Grad N ĐT bước đầu ER/PR Her2 Vị trí tái phát/ di cĕn 5 24 3 1 Hóa trị +/- + Xương, màng phổi 5 60 3 1 Hóa trị +/- - Phổi, hạch trung thất, xương Tương quan giữa các yếu tố tiên lượng với nhóm phân tử Bảng 7. Tương quan giữa kích thướu bướu và thời gian của triệu chứng Giai đoạn bướu Trung vị thời gian có triệu chứng (tuần) Khoảng (tuần) T2 T4 12 30 1 - 52 8 - 60 p = 0,136 Các trường hợp có trung vị thời gian có triệu chứng 30 tháng có giai đoạn bướu trễ (T4). Bảng 8. Tương quan giữa kích thước bướu và nhóm phân tử Luminal Tổng A B Her2 - B Her2 + Kích thước bướu (cm) 3 1 0 1 2 4 1 1 0 2 5 1 1 1 3 Tổng 3 2 2 7 p = 0,746. 3 bệnh nhân kích thước bướu 5cm chia đều cho 3 phân nhóm luminal A, luminal B Her2- và luminal B Her2+++. Bảng 9. Tương quan giữa độ mô học và nhóm phân tử Luminal Tổng A B Her2 - B Her2 + Độ mô học 1 1 0 1 2 2 2 1 1 4 3 0 1 0 1 Tổng 3 2 2 7 p = 0,478 1 bệnh nhân grad 3 có phân nhóm luminal B Her2 +++. BÀN LUẬN Dịch tễ học và các yếu tố nguy cơ Tại Mỹ và Anh, ung thư vú nam chiếm khoảng 0,5 - 1% trong tất cả ung thư vú được chẩn đoán mỗi nĕm. Ngược lại, tại Tanzania và nhiều vùng khác của trung tâm châu Phi, ung thư vú nam lên đến 6% trong toàn bộ ung thư vú. Tỉ lệ ung thư vú nam cao hơn tại trung tâm và Đông Phi có thể liên quan đến các bệnh nhiễm ở gan địa phương đưa đến sự cường estrogen hóa. Cũng như phụ nữ, xuất độ ung thư vú nam tĕng theo tuổi, và nam có khuynh hướng gần 5 - 10 nĕm lớn hơn phụ nữ vào thời điểm chẩn đoán. Xuất độ hàng nĕm của ung thư vú nam có vẻ đang gia tĕng; một báo cáo cho thấy xuất độ tĕng 26% trong 25 nĕm qua. Ung thư vú nam có vẻ chia sẻ các yếu tố nguy cơ đi kèm với ung thư vú hậu mãn kinh ở nữ. Các VÚ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 392 thống kê hệ thống của y vĕn đã tóm tắt các yếu tố nguy cơ đi kèm với ung thư vú nam, và được liệt kê ở bảng 1. Mặc dù đi kèm với các báo cáo này, phần lớn bệnh nhân ung thư vú nam không có các yếu tố nguy cơ xác định. (bảng 1). Bệnh sử gia đình và di truyền Như với ung thư vú nữ, bệnh sử gia đình họ hàng hàng thứ nhất có liên quan với nguy cơ ung thư vú nam gia tĕng. Gần 15 - 20% ung thư vú nam có bệnh sử gia đình so với chỉ 7% trong quần thể nam nói chung. Như với trường hợp ung thư vú nữ, 2 gen ung thư vú và ung thư buồng trứng BRCA1 và BRCA2, di truyền nhiễm sắc thể trội, làm gia tĕng phần lớn các trường hợp ung thư vú di truyền. Nguy cơ ung thư vú nam dường như cao hơn với đột biến BRCA2 hơn là BRCA1. Nam di truyền các đột biến tự thân BRCA2 ước lượng có khoảng 6% nguy cơ tương đối mắc ung thư vú trong suốt đời sống; điều này đại diện nguy cơ gấp 100 lần hơn trong quần thể nam nói chung. Xuất độ đột biến BRCA thay đổi dựa trên chủng tộc và độ mạnh của bệnh sử gia đình. Ở bệnh nhân ung thư vú nam, lên đến 14% có đột biến BRCA2 phát hiện được; đột biến BRCA1 rất hiếm gặp, ngoại trừ chủng tộc Ashkenazi Jewish. Một nghiên cứu tìm thấy 4,5% nam Ashkenazi Jewish có ung thư vú có đột biến BRCA1. Bởi vì điều này, tất cả bệnh nhân nam được chẩn đoán ung thư vú nên được tư vấn di truyền và xét nghiệm BRCA (bảng 3). Các gen khác ngoài BRCA có thể liên quan đến ung thư vú nam: đột biến gen ức chế bướu PTEN (hội chứng Cowden), TP53 (hội chứng Li-Fraumeni), PALB2, và gen sửa chữa ghép cặp sai (hội chứng Lynch) tất cả có liên quan đến nguy cơ ung thư vú nam. Tuy nhiên, trong khi các dấu hiệu như vậy có thể làm gia tĕng nguy cơ tương đối mắc ung thư vú ở nam ở đột biến xác định (so với nam không có đột biến), nguy cơ tương đối của ung thư vú nam hãy còn thấp. Do đó, không khuyến cáo nhũ ảnh tầm soát hoặc đoạn nhũ dự phòng ở những cá nhân có ảnh hưởng. Các thay đổi của tỉ lệ estrogen - androgen Kích thích của estrogen thừa có thể do các liệu pháp nội tiết (như các hợp chất có chứa estrogen hoặc testosterone), suy chức nĕng gan, béo phì, sử dụng thuốc phiện, bệnh tuyến giáp, hoặc một tình trạng di truyền như hội chứng Klinefelter. Hội chứng Klinefelter là một tình trạng hiếm gặp từ sự di truyền của thêm một nhiễm sắc thể X. Hội chứng Klinefelter gồm thiểu sản 2 tinh hoàn, nữ hóa tuyến vú, nồng độ gonadotropins trong máu cao (follicle-stimulating hormone, luteinizing hormone), và nồng độ testosterone thấp; hậu quả thực là tỉ lệ estrogen - testosterone cao. Một vài nghiên cứu dịch tễ thực hiện tập trung vào mối liên quan này do tính hiếm gặp của cả hội chứng Klinefelter và ung thư vú nam. Nghiên cứu cohort lớn nhất trên 3518 nam có tế bao học di truyền được chẩn đoán có hội chứng Klinefelter cho thấy tĕng gấp 19 - 58 lần xuất độ và tử vong do ung thư vú một cách tương đối, so với quần thể chung. Các nghiên cứu bổ sung là cần thiết để làm rõ bệnh nhân nam nào có hội chứng Klinefelter có nguy cơ cao mắc ung thư vú và xác đinh các yếu tố nguy cơ tiên đoán có thể, bao gồm các nội tiết nội sinh thay đổi. Vai trò của tầm soát ung thư vú nam ở bệnh nhân có hội chứng Klinefelter chưa rõ. Mặc dù nhũ ảnh thường quy không được chủ trương cho tất cả bệnh nhân nam có ảnh hưởng, tầm quan trọng của việc giáo dục bệnh nhân, tự khám tuyến vú và thĕm khám định kỳ với bác sĩ được nhấn mạnh. Tình trạng tinh hoàn nguyên phát Các tình trạng tinh hoàn có liên quan với việc gia tĕng nguy cơ ung thư vú nam gồm viêm tinh hoàn, tinh hoàn ẩn, chấn thương tinh hoàn. Trong k ... cao dựa trên các đặc tính của bướu (như grad mô học, pN và kích thước bướu) và với những người dung nạp điều trị là những ứng viên thích hợp cho việc điều trị tamoxifen mở rộng. Với tất cả những người khác, một quyết định có hay không tiếp tục điều trị sau 5 nĕm nên dựa trên việc cân nhắc từng cá thể về các tác dụng phụ (như bốc hỏa, rối loạn chức nĕng tình dục). Mặc dù có thể có lợi ích sống còn từ tamoxifen, nhiều nghiên cứu cho thấy phần lớn các bệnh nhân nam ngưng điều trị trước 5 nĕm, điều này đi kèm với tiên lượng xấu. Trong một nghiên cứu trên 116 bệnh nhân nam, tỉ lệ tuân thủ giảm từ 65% tại thời điểm 1 nĕm đến còn 18% trước 5 nĕm. So với nam còn tuân thủ tamoxifen, tuân thủ thấp đi kèm với tỉ lệ sống còn không bệnh 10 nĕm thấp hơn (42 so với 73%; p = 0.007) và sống còn toàn bộ (50 so với 80%; p = 0.008). Các yếu tố đi kèm với tuân thủ thấp bao gồm: Tuổi ≤60 (HR 1.10, 95% CI 1.01-1.21). Thiếu sự trợ giúp xã hội HR 2.45, 95% CI 1.32-4.55). Khởi đầu các tác dụng phụ (HR 2.19, 95% CI 1.57-3.04), bao gồm mệt mỏi (1%), lo lắng (20%), rối loạn giấc ngủ (19%), giảm ham muốn (11%), tĕng cân (10%). Dựa trên các kết quả này, các can thiệp là cần thiết để tĕng sự tuân thủ điều trị của bệnh nhân ung thư vú nam để hoàn tất đầy đủ quá trình điều trị tamoxifen. Tiên lượng Mặc dù bệnh nhân ung thư vú nam đi kèm với tiên lượng xấu hơn đáng kể so với nữ, hầu hết các báo cáo tạm thời ở cả bệnh nhân ung thư vú nam và nữ được ghép cặp cẩn thận về tuổi lúc chẩn đoán, giai đoạn và grade thì không chứng minh sống còn xấu hơn có ý nghĩa ở nam. Các nghiên cứu đánh giá sống còn ở bệnh nhân ung thư vú nam: Trong một phân tích kết hợp toàn cầu trên 1500 bệnh nhân ung thư vú nam, tại trung vị thời VÚ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 397 gian theo dõi 8,2 nĕm, tử vong 5 nĕm liên quan ung thư vú cải thiện đều đặn từ 15,1% (1990 - 1995) còn 7,6% (2006- 2010). Ngoài ra, với bệnh nhân ung thư vú thể luminal A, trung vị sống còn toàn bộ là 9,5 so với 8,8 nĕm ở nhóm luminal B-like/HER2-và 10 nĕm với nhóm luminal B-like/HER2+. Trong một phân tích từ dữ liệu của SEER trên bệnh nhân ung thư vú nam chẩn đoán từ 2005 - 2009, bệnh nhân ung thư vú nam có tiên lượng xấu hơn so với nữ, với nguy cơ tử vong là 41% cao hơn nữ trong cùng thời gian. Tương tự, tỉ lệ sống còn 5 và 10 nĕm ở bệnh nhân nam (85,1và 72,9% tương ứng) là thấp hơn bệnh nhân nữ (90,2 và 84,6%). Các phát hiện này là tương tự theo phân nhóm chủng tộc và giai đoạn. Một phân tích riêng biệt từ dữ liệu của SEER cũng gợi ý sống còn toàn bộ và sống còn liên quan ung thư vú xấu hơn ở nam so với nữ. Như với nữ, kích thước bướu và có hạch di cĕn cũng như số lượng hạch là các yếu tố tiên lượng quan trọng với ung thư vú nam. Hai báo cáo gồm 335 và 397 ca ung thư vú nam, tỉ lệ sống còn liên quan bệnh như sau: pN-: 77 và 84%. 1-3 hạch +: 50 và 44%. ≥ 4 hạch+: 24 và 14%. RS là yếu tố tiên lượng ở nam có thụ thể nội tiết dương, HER2- như ở nữ. Trong một phân tích hồi cứu gồm 3800 bệnh nhân nam ung thư vú có thụ thể nội tiết dương, tỉ lệ sống còn đặc trưng ung thư vú là 99% ở bệnh nhân có RS ≤17, 96% khi RS 18 - 30, 81% khi RS ≥31. Sự khác biệt về chủng tộc Như ở nữ, bệnh nhân nam ung thư vú da màu có tiên lượng xấu hơn so với nam da trắng. Điều này được minh họa trong một báo cáo trên 510 bệnh nhân ≥ 65 tuổi (456 da trắng, 34 da màu) với ung thư vú giai đoạn I - III từ dữ liệu liên kết Medicare/SEER. Điều trị bao gồm đoạn nhũ, hóa trị và xạ trị trong 94, 28, và 29% nam tương ứng. So với nam da trắng, nam da màu có khuynh hướng bệnh ở giai đoạn tiến xa có ý nghĩa (24 so với 9% ở giai đoạn III) và kích thước bướu lớn hơn. Hơn nữa, có một khuynh hướng không có ý nghĩa thống kê ở nam da màu có N+ (45 so với 34%) và bướu biệt hóa kém (44 so với 32%), HR+ ít hơn (56 v so với 72%), và các điểm bệnh đi kèm nhiều hơn 0 (53 so với 38%). Bệnh nhân nam da màu có gần 50% ít có khuynh hướng đi khám bác sĩ nội khoa ung thư và nhận hóa trị, nhưng các khác biệt này không có ý nghĩa thống kê. Sau khi hiệu chỉnh với các yếu tố lâm sàng, dịch tễ học, các yếu tố liên quan điều trị, bệnh nhân nam da màu có nguy cơ tử vong tĕng gấp 3 lần so với nam da trắng. Tỉ lệ sống còn 5 nĕm là 66 và 90% tương ứng. Các vấn đề với bệnh nhân sống sót Theo dõi sau điều trị Nhìn chung, nam điều trị ung thư vú nên được theo dõi sau điều trị như ở nữ. Tuy nhiên, có hay không có vai trò của nhũ ảnh thì không rõ. Trong khi các dữ liệu giới hạn cho thấy những bệnh nhân này có nguy cơ ung thư vú đối bên gia tĕng. Do đó, vai trò của tầm soát ở nam có tiền cĕn ung thư vú thì không chắc chắn, và việc quyết định nên dựa trên sự tham khảo ý kiến bệnh nhân và các giá trị. Như ở nữ, những bênh nhân này cũng có nguy cơ có các bệnh lý ác tính khác. Điều này được thấy trong một nghiên cứu gồm dữ liệu trên 3400 bệnh nhân nam ung thư vú còn sống sót, trong đó 12,5% phát triển ung thư thứ hai. Loại bệnh thường gặp nhất là đường tiêu hóa, tụy, ung thư da không phải melanôm, ung thư tiền liệt tuyến. Các tác dụng phụ về thể chất và tâm lý Các nghiên cứu nhỏ cho thấy các độc tính là thường gặp ở nam khi sử dụng tamoxifen, và đây là một trong các lý do chính cho tỉ lệ ngưng điều trị nội tiết ở nam cao. Quản lý các tác dụng phụ của liệu pháp nội tiết như bốc hỏa và rối loạn chức nĕng tình dục thì không rõ ở nam, do đó các chiến lược thường được ngoại suy từ những gì đã được chứng minh có hiệu quả trên các bệnh nhân ung vú nữ sống sót sau điều trị (như bốc hỏa) và quần thể nam nói chung (cho rối loạn chức nĕng tình dục). Các chọn lựa cho bốc hỏa gồm các chọn lựa không nội tiết tương tự được cung cấp cho bệnh nhân nữ có tiền cĕn ung thư vú, như các ức chế tái hấp thu serotonin chọn lọc SSRIs (selective serotonin reuptake inhibitors) mà không ảnh hưởng đến chuyển hóa của tamoxifen (như venlafaxine). Nhìn chung, rối loạn chức nĕng tình dục ở bệnh nhân ung thư vú nam được điều trị tương tự như ở nam không bị ung thư vú, mặc dù tránh dùng testosterone, vì cơ chế chuyển hóa của testosterone thành estrogen có thể kích thích mô vú. Phosphodiesterase-5 inhibitors có thể được sử dụng cho bệnh nhân nam có rối loạn chức nĕng cường dương. Ít có kinh nghiệm của nam sau ung thư vú. Tuy nhiên vấn đề liên quan liệt dương và các rối loạn tâm lý dường như trở thành chủ đề thường gặp. Trong một nghiên cứu trên 160 bệnh nhân nam ung thư vú có trung vị 2,9 nĕm từ khi chẩn đoán, các vấn đề tâm lý gồm: VÚ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 398 Trầm cảm và lo âu có ý nghĩa (đo lường với Hospitalized Anxiety and Depression Scale) có ở 1 và 6%. Rối loạn tâm lý có ý nghĩa cao hơn ở nam có đoạn nhũ, những người này trải nghiệm các triệu chứng đồng thời và không lập gia đình. Các rối loạn liên quan đến ung thư có liên quan có ý nghĩa với tuổi trẻ hơn, hình ảnh bản thân thay đổi, tiếp nhận các kích ứng cao hơn do việc giảm khả nĕng sinh lý, đau, sợ hãi, và không chắc chắn về tương lai. Bệnh di cĕn Tiếp cận Tiếp cận với bệnh nhân ung thư vú nam di cĕn hoặc tiến xa là tương tư với nữ. Hóa trị ở nam với cách tương tự như ở nữ, cho các ứng viên phù hợp. Với nam có HER2+, kết hợp với các tác nhân kháng HER2 trong chiến lược điều trị được khuyến cáo như ở nữ. Với những bệnh nhân di cĕn, HR+, HER2-, liệu pháp nội tiết thường được thực hiện. Tuy nhiên, khi bệnh tiến triển nhanh hoặc di cĕn tạng lan rộng, hóa trị được ưa thích hơn. Mặc dù các dữ liệu là hỗn hợp liên quan đến lợi ích sống còn cho các điều trị tại chỗ ở ung thư vú di cĕn, chúng có thể thích hợp cho một số bệnh nhân nam, trong các tình huống lâm sàng tương tự như nữ. Các cân nhắc đặc biệt cho bệnh có HR+ Với nam có HR+, ung thư vú tiến xa, gợi ý liệu pháp nội tiết nội khoa. Mặc dù cắt 2 tinh hoàn đem lại tỉ lệ đáp ứng là 32 và 67%, người ta ưa thích các chọn lựa nội khoa đem lại tác động sinh lý và tâm lý hơn cắt tinh hoàn 2 bên. Các khác biệt so với tiếp cận bệnh nhân nữ hậu mãn kinh như sau: Tamoxifen là tác nhân được ưa thích ban đầu cho nam có ung thư vú di cĕn, HR+ hơn là ức chế aromatase (AIs), là tác nhân thường được lựa chọn hơn ở nữ hậu mãn kinh. Với bệnh nhân nam tiến triển khi hoặc trong 12 tháng hỗ trợ tamoxifen, người ta đề nghị AI kết hợp với GnRHa, có hay không có liệu pháp nhắm trúng đích, như cyclin-dependent kinase (CDK) 4/6 inhibitors. Tiếp cận này được tiến hành trên nữ hậu mãn kinh, trong đó GnRHa không được thực hiện điển hình. Trên 80% bệnh nhân ung thư vú nam có HR+ sẽ đáp ứng với tamoxifen; tuy nhiên, nam có HR-sẽ không có lợi ích điều trị. Bất kỳ các điều trị dưới đây là những lựa chọn hợp lý cho nhưng bệnh nhân tiến triển hoặc có chống chỉ định với tamoxifen, như là một phần của một thử nghiệm lâm sàng. AIs với GnRHa - Vì AIs không giảm sản xuất estrogens từ tinh hoàn, nên sử dụng GnRHa đồng thời với AI. Nghiên cứu trường hợp ca về đáp ứng với AI kết hợp GnRHa đã được báo cáo, một trong số đó là một bệnh nhân có bệnh di cĕn tiến triển sau cả AI đơn trị và GnRHa đơn trị trước đó có đáp ứng với phối hợp 2 thuốc. Một báo cáo tổng hợp khác về điều trị AI đơn chất hoặc kết hợp với GnRHa ở 23 bệnh nhân nam cho thấy có đáp ứng một phần ở 26,1% và bệnh ổn định ở 56,5%. Đáp ứng với AIs đơn chất đã có báo báo, mặc dù người ta vẫn ưa chuộng việc tránh AI đơn trị vì các lý do nêu trên. Thêm tác nhân nhắm trúng đích: - Ức chế CDK 4/6 và everolimus được chứng minh có hoạt tính ở bệnh nhân nữ khi phối hợp với liệu pháp nội tiết, nhưng việc sử dụng ở bệnh nhân nam thì chưa được nghiên cứu nhiều. Một báo cáo trường hợp ca điều trị bước 4 với letrozole và palbociclib ở nam ung thư vú di cĕn có ER+, HER2-có bệnh ổn định tại thời điểm 4 tháng sau điều trị. Hai báo cáo trường hợp ca bệnh nhân nam đã điều trị nhiều trước đó, sử dụng everolimus cho thấy có đáp ứng đáng kể với điều trị, mặc dù 1 bệnh nhân phải ngưng điều trị sau 4 tháng do viêm niêm mạc. Người ta sử dụng ức chế CDK 4/6 kết hợp với AI và GnRHa ở bệnh nhân nam tiến triển sau tamoxifen hoặc có chống chỉ định với tamoxifen. Hơn nữa, đó là lý do hợp lý cân nhắc sau đó everolimus kết hợp với AI và GnRHa ở bệnh nhân nam. Fulvestrant - Dữ liệu liên quan vai trò của fulvestrant hạn chế. 2 báo cáo trường hợp có tổng cộng 7 bệnh nhân nam có đáp ứng một phần và bệnh ổn định trong 3 ca (một ca kéo dài 22 tháng. Một báo cáo tổng hợp trên 23 bệnh nhân nam sử dụng fulvestrant điều trị bước 1, 2, 3 cho bệnh di cĕn có tỉ lệ đáp ứng một phần là 26%, và 48% có bệnh ổn định. Các bước điều trị nội tiết sau đó: Nam đáp ứng với một loại điều trị nội tiết có khả nĕng đáp ứng với việc sử dụng các nội tiết sau đó. Nhiều liệu pháp nội tiết (như aminoglutethimide, megestrol acetate, androgens, antiandrogens, corticosteroids, cyproterone acetate, estrogens) có tỉ lệ đáp ứng 50 - 70% ở bệnh nhân có ER+. Tuy nhiên, các tác dụng phụ có khuynh hướng ít hơn so với tamoxifen, và VÚ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 399 hầu hết ít được nghiên cứu ở nam. Do đó, chúng được để dành cho các bước sau đó. KẾT LUẬN Ung thư vú ít gặp ở nam hơn nữ. Nam có khuynh hướng bệnh ở tuổi lớn hơn nữ. Sinh thiết là cần thiết để xác định chẩn đoán và xét nghiệm HR và Her2, cần thiết để chọn lựa điều trị. Hầu hết nam ung thư vú giai đoạn sớm được phẫu thuật đoạn nhũ hơn là cắt tuyến vú một phần do mô vú giới hạn. Tuy nhiên, với nam có mô vú đủ là ứng viên cho phẫu thuật bảo tồn vú, hoặc đoạn nhũ hoặc phẫu thuật bảo tồn vú là các chọn lựa thích hợp. Với nam có phẫu thuật bảo tồn vú, khuyến cáo xạ trị bổ túc. (grad IB) Như với nữ, đánh giá việc nạo hạch nách là cần thiết: Với các bệnh nhân không có hạch nách trên lâm sàng, cần sinh thiết hạch lính gác thay vì tấtt cả đều nạo hạch nách. (Grade 2B). Với nam có hạch nách trên lâm sàng và có bằng chứng hạch lính gác trên đại thể, khuyến cáo nạo hạch nách toàn bộ. (Grade 1B). Với nam đã được sinh thiết hạch lính gác và có hạch di cĕn vi thể, khuyến cáo tiếp cận tương tự như ở nữ. Như với nữ, nam có bệnh tiến xa (T3 hoặc T4) và/hoặc ≥ 4 hạch nách, khuyến cáo xạ trị sau mổ thành ngực và hạch vùng (Grade 1B). Với nam có 1- 3 hạch nách, quyết định xạ trị tương tự như ở nữ. Bất kể trường hợp nào, nam có bất kỳ hạch nách di cĕn nên được gặp bác sĩ xạ trị để thảo luận nguy cơ và lợi ích của xạ trị. Tiếp cận điều trị toàn thân (như hóa trị và/hoặc kháng Her2) cho nam với ung thư vú mới chẩn đoán tương tự như ở nữ. (Grade 2C), đem lại bằng chứng không đầy đủ trợ giúp cho việc sử dụng AI đơn trị ở nam. Khuyến cáo sử dụng tamoxifen hỗ trợ hơn là một AI với gonadotropin-releasing hormone agonists (GnRHa) (Grade 2C), có dung nạp tốt hơn. Tuy nhiên, với những bệnh nhân có chống chỉ định với tamoxifen (như tình trạng tĕng đông), một AI với GnRHa là một thay thế hợp lý. Với nam có bệnh di cĕn, khuyến cáo sử dụng tamoxifen hơn là một AI có hay không có GnRHa (Grade 2C), có dung nạp và kinh nghiệm nhiều hơn với tamoxifen trong ung thư vú nam. Tuy nhiên, có thể cân nhắc AI với GnRHa là thay thế hợp lý cho tamoxifen hoặc các bước kế tiếp sau khi bệnh tiến triển với tamoxifen. Mặc dù bằng chứng cho cyclin-dependent kinase (CDK) 4/6 inhibitors, fulvestrant, và everolimus có hạn chế ở nam, người ta phối hợp các tác nhân này sau khi tiến triển với tamoxifen, sử dụng cách tiếp cận tương tự như ở nữ. Khi sử dụng một AI (với có hoặc không có tác nhân nhắm đích), sử dụng một GnRHa để ức chế sản xuất estrogen của tinh hoàn. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Siegel RL, Miller KD, Jemal A. Cancer statistics, 2018. CA Cancer J Clin 2018; 68:7. 2. White J, Kearins O, Dodwell D, et al. Male breast carcinoma: increased awareness needed. Breast Cancer Res 2011; 13:219. 3. Giordano SH. Breast Cancer in Men. N Engl J Med 2018; 378:2311. 4. Anderson WF, Althuis MD, Brinton LA, Devesa SS. Is male breast cancer similar or different than female breast cancer? Breast Cancer Res Treat 2004; 83:77. 5. Siegel RL, Miller KD, Jemal A. Cancer Statistics, 2017. CA Cancer J Clin 2017; 67:7. 6. Sasco AJ, Lowenfels AB, Pasker-de Jong P. Review article: epidemiology of male breast cancer. A meta-analysis of published case- control studies and discussion of selected aetiological factors. Int J Cancer 1993; 53:538. 7. Agrawal A, Ayantunde AA, Rampaul R, Robertson JF. Male breast cancer: a review of clinical management. Breast Cancer Res Treat 2007; 103:11. 8. Rudlowski C. Male Breast Cancer. Breast Care (Basel) 2008; 3:183. 9. Thomas DB. Breast cancer in men. Epidemiol Rev 1993; 15:220. 10. O'Malley CD, Prehn AW, Shema SJ, Glaser SL. Racial/ethnic differences in survival rates in a population-based series of men with breast carcinoma. Cancer 2002; 94:2836.
File đính kèm:
khao_sat_cac_dac_diem_dich_te_hoc_lam_sang_benh_hoc_va_dieu.pdf

