Khảo sát các đặc điểm dịch tễ học, lâm sàng, bệnh học và điều trị ung thư vú ở bệnh nhân nam giới

Mục tiêu: Khảo sát các đặc điểm lâm sàng, bệnh học và các phương pháp điều trị bệnh nhân carcinôm vú

nam.

Phương pháp: Báo cáo loạt ca những bệnh nhân nam với chẩn đoán carcinôm vú (ống tuyến hoặc tiểu

thùy) điều trị tại BVUB TP. HCM từ 01/01/2018 đến tháng 31/08/2019.

Kết quả: Có 07 trường hợp bệnh nhân ung thư vú nam được khảo sát. Trung vị thời gian có triệu chứng là

17,7 tuần (khoảng từ 1-60 tuần). Chỉ có 1 bệnh nhân có mẹ bị ung thư vú. 100% bệnh nhân đến khám vì có

bướu ở vú. Trung bình kích thước bướu là 4,14cm (3 - 5cm). Đặc điểm giải phẫu bệnh bao gồm 71,4% các

trường hợp là carcinôm ống tuyến vú, 57,1% trường hợp có độ mô học là grad 2. Phân nhóm sinh học của

nhóm bệnh nhân nghiên cứu gồm: 28,6% có Luminal B Her2 dương tính và 85,1% có Ki67< 10%.="" 100%="">

trường hợp có chỉ định phẫu thuật được phẫu thuật đoạn nhũ nạo hạch. Các trường hợp có chỉ định điều trị hỗ

trợ thì hoá trị với phác đồ có taxanes chiếm 60% và không có trường hợp nào sử dụng thuốc trastuzumab, có 2

trường hợp chỉ sử dụng Tamoxifen do bệnh nhân không muốn hóa trị. Có 2 trường hợp bệnh di căn ngay từ

đầu được hóa trị, trong đó 1 trường hợp có sử dụng phác đồ Docetaxel - Trastuzumab. Do giới hạn về thời gian

nghiên cứu nên chúng tôi chưa đánh giá được sống còn cho toàn bộ nhóm bệnh nhân.

pdf 12 trang phuongnguyen 160
Bạn đang xem tài liệu "Khảo sát các đặc điểm dịch tễ học, lâm sàng, bệnh học và điều trị ung thư vú ở bệnh nhân nam giới", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Khảo sát các đặc điểm dịch tễ học, lâm sàng, bệnh học và điều trị ung thư vú ở bệnh nhân nam giới

Khảo sát các đặc điểm dịch tễ học, lâm sàng, bệnh học và điều trị ung thư vú ở bệnh nhân nam giới
VÚ 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
388 
KHẢO SÁT CÁC ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ HỌC, LÂM SÀNG, 
BỆNH HỌC VÀ ĐIỀU TRỊ UNG THƯ VÚ Ở BỆNH NHÂN NAM GIỚI 
TRẦN NGUYÊN HÀ1, PHAN THỊ HỒNG ĐỨC2 
Mục tiêu: Khảo sát các đặc điểm lâm sàng, bệnh học và các phương pháp điều trị bệnh nhân carcinôm vú 
nam. 
Phương pháp: Báo cáo loạt ca những bệnh nhân nam với chẩn đoán carcinôm vú (ống tuyến hoặc tiểu 
thùy) điều trị tại BVUB TP. HCM từ 01/01/2018 đến tháng 31/08/2019. 
Kết quả: Có 07 trường hợp bệnh nhân ung thư vú nam được khảo sát. Trung vị thời gian có triệu chứng là 
17,7 tuần (khoảng từ 1-60 tuần). Chỉ có 1 bệnh nhân có mẹ bị ung thư vú. 100% bệnh nhân đến khám vì có 
bướu ở vú. Trung bình kích thước bướu là 4,14cm (3 - 5cm). Đặc điểm giải phẫu bệnh bao gồm 71,4% các 
trường hợp là carcinôm ống tuyến vú, 57,1% trường hợp có độ mô học là grad 2. Phân nhóm sinh học của 
nhóm bệnh nhân nghiên cứu gồm: 28,6% có Luminal B Her2 dương tính và 85,1% có Ki67< 10%. 100% các 
trường hợp có chỉ định phẫu thuật được phẫu thuật đoạn nhũ nạo hạch. Các trường hợp có chỉ định điều trị hỗ 
trợ thì hoá trị với phác đồ có taxanes chiếm 60% và không có trường hợp nào sử dụng thuốc trastuzumab, có 2 
trường hợp chỉ sử dụng Tamoxifen do bệnh nhân không muốn hóa trị. Có 2 trường hợp bệnh di cĕn ngay từ 
đầu được hóa trị, trong đó 1 trường hợp có sử dụng phác đồ Docetaxel - Trastuzumab. Do giới hạn về thời gian 
nghiên cứu nên chúng tôi chưa đánh giá được sống còn cho toàn bộ nhóm bệnh nhân. 
Kết luận: Ung thư vú là một tình trạng hiếm gặp ở nam. Ung thư vú nam thường có các đặc tính sinh học ít 
ác tính hơn. Các nguyên tắc điều trị chính ở nhóm tuổi này không khác biệt so với ung thư vú nữ trong các 
nghiên cứu hiện tại, tuy nhiên cần phát triển của điều trị ứng hợp cho nhóm này. 
Từ khóa: ung thư vú nam 
ABSTRACT 
Breast cancer in male: Epidemic, clinicopathological features and treatment 
Purpose: To evaluate the clinical and pathologic features and treatment of breast cancer male patients 
Patients and method: This is a case series study on 7 male patients diagnosed with breast ductal or 
lobular carcinoma and treated from 1/1/2018 to 31/08/2019 at HCMC Oncology Hospital. 
Results: The median duration of disease awareness before hospitalization was 17,7 weeks (range 1 - 60 
weeks). Only 1 patient has family history of breast cancer (her mother). 100% of cases presented with a 
palpable mass of the breast. Mean tumor size at hospitalization was 4,14cm (range 3 - 5cm). On apthological 
examination, 71,4% of cases were ductal carcinoma and 57,1% of cases were grad 2. On biological subgroup 
analysis, we found that 28,6% of cases were Luminal B Her2 positive and 85,1% of patients had low Ki67 
levels (<10%). 71,4% of patients received surgery initially. Mastectomy was the only procedure (100% of 
cases). In 5 patients had indicated adjuvant therapy, Taxane-based adjuvant indicated for 60% of patients, but 
2 of them only received tamoxifen because they didn’t want chemotherapy. 2 cases had metastasis disease 
had chemotherapy, and one patient had trastuzumab - docetaxel. We couldn’t evaluate overall survival of the 
whole group because of the limitation of time. 
Conclusion: The incidence of breast cancer in the men is very rare. The biological nature of invasive 
breast cancer of this group is not very aggressive. In general, the treatment for this group of patients is not 
different from those applying on breast cancer in women. Patients of this group of age need to be indicated 
targeted therapy if possible. 
Key words: Male breast cancer. 
1
 BSCKII. Trưởng Khoa Nội 4 - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM 
2
 TS.BS. Phó Trưởng Bộ môn Ung Bướu - Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch, 
 Bác sĩ Điều trị Khoa Nội 4 - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM 
VÚ 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
389 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Ung thư vú nam là bệnh hiếm gặp. Tại các 
nước phương Tây, ung thư vú nam chiếm khoảng 
< 1% trong tất cả các bệnh lý ở vú và <1% trong 
tất cả các loại ung thư ở nam. Xuất độ ung thư vú 
nam khoảng/100.000 ca bệnh nam hàng nĕm. Các 
nghiên cứu dịch tễ học gần đây cho thấy tần suất 
ung thư vú nam đang gia tĕng đến 1,1% mỗi nĕm. 
Tần suất ung thư vú nam thay đổi giữa các nước. 
Tỉ lệ ung thư vú cao nhất ở Israel (1,08/100.000 
người/ nĕm), thấp nhất tại Đông Nam Á, đặc biệt ở 
Thái lan (0,14/100.000 người/ nĕm). Trong hai thập 
niên vừa qua, đã có nhiều cải thiện trong hiểu biết và 
điều trị ung thư vú. Tuy nhiên, bệnh lý này thường 
được chẩn đoán trễ ở nam, ngược lại so với nữ, do 
tần suất hiếm gặp cũng như thiếu nhận thức ở nam 
đưa đến phát hiện ở giai đoạn muộn. Các nghiên 
cứu ngẫu nhiên không thể thực hiện do tần suất thấp 
và chỉ có một số ít các nghiên cứu tiền cứu trong y 
vĕn. Các khuyến cáo điều trị chủ yếu dựa trên các 
nghiên cứu từ ung thư vú ở nữ. 
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Thiết kế nghiên cứu 
Báo cáo loạt ca. 
Đối tượng nghiên cứu 
Tất cả các bệnh nhân ung thư vú nam được 
nhập viện điều trị tại BVUB TP. HCM từ 01/01/2018 
đến tháng 31/08/2019 với giải phẫu bệnh là 
carcinôm ống tuyến vú hoặc tiểu thùy. 
Các bước thực hiện nghiên cứu 
Sau khi chọn bệnh nhân đủ tiêu chuẩn nhận 
bệnh, chúng tôi sẽ ghi nhận các biến số: 
Các biến số về dịch tễ học: Tuổi, nghề nghiệp, 
nơi cư trú. 
Tiền cĕn cá nhân, gia đình. 
Các biến số về lâm sàng: Thời gian khởi bệnh, 
lý do nhập viện, điều trị trước đó, giai đoạn TNM. 
Các biến số về mô bệnh học: Giải phẫu bệnh, 
ER, PR, Her2, Ki67, FISH, grad mô học, phân nhóm 
phân tử. 
Điều trị: Phẫu trị, hóa trị, xạ trị. 
Chấm dứt theo dõi: 30/9/2019. 
Tiêu chuẩn xếp loại phân tử theo kết quả hóa mô 
miễn dịch 
Bảng 1. Phân nhóm phân tử theo kết quả hóa mô 
miễn dịch 
Phân nhóm phân tử Hóa mô miễn dịch ER và/ hoặc PR Her2 Ki67 
Luminal A + - < 10% 
Luminal B/Her2 - + - >10% 
Luminal B/ Her2 + + + Bất kỳ 
Her2 + - + Bất kỳ 
Tripple negative - - Bất kỳ 
Xử lý số liệu 
Dùng phần mềm SPSS 17.0 để xử lý số liệu. 
Khảo sát sống còn bằng phương pháp Kaplan - 
Meier. Phân tích tương quan bằng phép kiểm Log - 
rank. Phân tích đa biến bằng phương pháp hồi quy 
Cox. 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Đặc điểm nhóm khảo sát 
Trong thời gian từ 2018 - 2019, có 07 bệnh 
nhân ung thư vú nam tại thời điểm chẩn đoán được 
điều trị tại khoa Nội 4 Bệnh viện Ung Bướu 
TP. HCM. Tất cả các bệnh nhân này được ghi nhận 
về tình huống lâm sàng, các kết quả chẩn đoán hình 
ảnh, mô bệnh học. 
Trung vị thời gian có triệu chứng là 17,7 tuần 
(khoảng từ 1 - 60 tuần). Chỉ có 1 bệnh nhân (14,3%) 
có mẹ bị ung thư vú. Không có bệnh nhân nào được 
ghi nhận có tiền cĕn ung thư vú trước đó. 
100% bệnh nhân đến khám vì có bướu ở vú. 
Trung bình kích thước bướu là 4,14cm (3 - 5cm). 
Bảng 2. Các đặc điểm dịch tễ học 
Biến số n (%) 
Tuổi 
Lớn nhất 
Nhỏ nhất 
Trung bình 
67 
46 
55 
Tiền cĕn ung thư vú trước đó 
Có 
Không 
0 (0) 
7 (100) 
Tiền cĕn ung thư khác 1 (14,3) (K giáp) 
Tiền cĕn ung thư vú gia đình 
Ung thư vú ở mẹ hoặc chị em gái 
Ung thư vú thành viên khác 
Không có 
1 (5) 
0 
19 (95) 
VÚ 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
390 
Bệnh khác: Cao huyết áp, lao hạch đang điều trị 
tháng thứ 4. 
Bảng 3. Các đặc điểm lâm sàng 
Biến số n (%) 
Vị trí bướu 
P 
T 
3(42,9) 
4(57,1) 
Kích thước bướu 
3cm 
4cm 
5cm 
2(28,6) 
2(28,6) 
3(42,8) 
Kích thước bướu (cm) 
Lớn nhất 
Nhỏ nhất 
Trung bình 
5 
3 
4,14 
pT 
pT2 
pT4 
3(42,9) 
4(57,1) 
Tình trạng hạch 
Có di cĕn 
Không di cĕn 
4(57,1) 
3(42,9) 
pN 
0 
1 
2 
3(42,8) 
2(28,6) 
2(28,6) 
M 
0 
1 
5(71,4) 
2(28,6) 
Có 42,9% các trường hợp bướu 5cm lúc chẩn 
đoán. 2 trường hợp có di cĕn xa lúc chẩn đoán. Vị trí 
di cĕn xa: phổi, màng phổi, hạch trung thất, hạch rốn 
phổi, xương. 
Bảng 4. Các đặc điểm bệnh học 
Biến số n (%) 
Phân nhóm bệnh học: 
Carcinôm ống tuyến xâm lấn 
Carcinôm tiểu thùy xâm lấn 
Các carcinôm xâm lấn khác 
5 (71,4) 
1 (14,3) 
1 (14,3) (dạng nhày) 
Độ mô học 
I 
II 
III 
2 (28,6) 
4 (57,1) 
1 (14,3) 
Phân nhóm phân tử 
Luminal A 
Luminal B/Her2 – 
Luminal B/ Her2 + 
Her2 + 
Tripple negative 
3 (42,8) 
2 (28,6) 
2 (28,6) 
0 (0) 
0 (0) 
ER 
+ 
- 
7 (100) 
0 (0) 
PR 
+ 
- 
5 (71,4) 
2 (28,6) 
Her2 
+++/ FISH + 
- 
2 (28,6) 
5 (71,4) 
Ki67 
< 10% 
> 10% 
6 (85,1) 
1 (14,3) 
71,4% các trường hợp là carcinôm ống tuyến 
vú, 57,1% grad 2, 42,8% luminal A, 28,6% có Her2 
+++ và 85,1% có Ki67< 10%. 
Điều trị 
Bảng 5. Điều trị 
Biến số n (%) 
Điều trị lúc đầu 
Phẫu trị 
Điều trị toàn thân 
5 (71,4) 
2 (28,6) 
Phẫu trị 
Đoạn nhũ nạo hạch 
Không PT 
5 (71,4) 
2 (28,6) 
Hóa trị hỗ trợ 
Có 
Không 
3 (60) 
2 (40) 
Hóa trị/ di cĕn 
Có 
Không 
2 (100) 
0 (0) 
Hóa trị tân hỗ trợ 
Có 
Không 
0 (100) 
7 (100) 
Phác đồ ĐTHT 
TC 
2 (40) 
VÚ 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
391 
AC-T 
Chỉ TAM 
1 (20) 
2 (40) 
Xạ trị 
Có 
Không 
2 (60) 
3 (40) 
Điều trị di cĕn 
Cap-BPPs 
Doc-Tras 
1 (50) 
20 (50) 
71,4% được phẫu trị lúc đầu; trong đó 100% 
được phẫu thuật đoạn nhũ - nạo hạch. Có 3/5 
trường hợp được hóa trị hỗ trợ sau mổ với phác đồ 
AC-T hoặc TC. Có 2 trường hợp không muốn hóa trị 
sau mổ, được sử dụng Tamoxifen hỗ trợ. Không có 
trường hợp nào sử dụng thuốc Trastuzumab điều trị 
hỗ trợ sau mổ. 
Có 2 trường hợp bệnh di cĕn ngay từ đầu, 
được sử dụng phác đồ Capecitabine-BPPs hoặc 
Docetaxel-Trastuzumab. 
Bảng 6. Đặc điểm lâm sàng và bệnh học của các bệnh nhân di cĕn từ đầu 
Kích thước bướu 
(cm) 
Thời gian có triệu chứng Grad N ĐT bước đầu ER/PR Her2 Vị trí tái phát/ di cĕn 
5 24 3 1 Hóa trị +/- + Xương, màng phổi 
5 60 3 1 Hóa trị +/- - Phổi, hạch trung thất, xương 
Tương quan giữa các yếu tố tiên lượng với 
nhóm phân tử 
Bảng 7. Tương quan giữa kích thướu bướu và thời 
gian của triệu chứng 
Giai đoạn 
bướu 
Trung vị thời gian có triệu 
chứng (tuần) 
Khoảng 
(tuần) 
T2 
T4 
12 
30 
1 - 52 
8 - 60 
p = 0,136 
Các trường hợp có trung vị thời gian có triệu 
chứng 30 tháng có giai đoạn bướu trễ (T4). 
Bảng 8. Tương quan giữa kích thước bướu và 
nhóm phân tử 
 Luminal Tổng 
A B Her2 - B Her2 + 
Kích thước bướu (cm) 
3 1 0 1 2 
4 1 1 0 2 
5 1 1 1 3 
Tổng 3 2 2 7 
p = 0,746. 
3 bệnh nhân kích thước bướu 5cm chia đều 
cho 3 phân nhóm luminal A, luminal B Her2- và 
luminal B Her2+++. 
Bảng 9. Tương quan giữa độ mô học 
và nhóm phân tử 
 Luminal 
Tổng 
A B Her2 - B Her2 + 
Độ mô học 
1 1 0 1 2 
2 2 1 1 4 
3 0 1 0 1 
Tổng 3 2 2 7 
p = 0,478 
1 bệnh nhân grad 3 có phân nhóm luminal B 
Her2 +++. 
BÀN LUẬN 
Dịch tễ học và các yếu tố nguy cơ 
Tại Mỹ và Anh, ung thư vú nam chiếm khoảng 
0,5 - 1% trong tất cả ung thư vú được chẩn đoán 
mỗi nĕm. Ngược lại, tại Tanzania và nhiều vùng 
khác của trung tâm châu Phi, ung thư vú nam lên 
đến 6% trong toàn bộ ung thư vú. Tỉ lệ ung thư vú 
nam cao hơn tại trung tâm và Đông Phi có thể liên 
quan đến các bệnh nhiễm ở gan địa phương đưa 
đến sự cường estrogen hóa. 
Cũng như phụ nữ, xuất độ ung thư vú nam tĕng 
theo tuổi, và nam có khuynh hướng gần 5 - 10 nĕm 
lớn hơn phụ nữ vào thời điểm chẩn đoán. Xuất độ 
hàng nĕm của ung thư vú nam có vẻ đang gia tĕng; 
một báo cáo cho thấy xuất độ tĕng 26% trong 25 
nĕm qua. 
Ung thư vú nam có vẻ chia sẻ các yếu tố nguy 
cơ đi kèm với ung thư vú hậu mãn kinh ở nữ. Các 
VÚ 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
392 
thống kê hệ thống của y vĕn đã tóm tắt các yếu tố 
nguy cơ đi kèm với ung thư vú nam, và được liệt kê 
ở bảng 1. Mặc dù đi kèm với các báo cáo này, phần 
lớn bệnh nhân ung thư vú nam không có các yếu tố 
nguy cơ xác định. (bảng 1). 
Bệnh sử gia đình và di truyền 
Như với ung thư vú nữ, bệnh sử gia đình họ 
hàng hàng thứ nhất có liên quan với nguy cơ ung 
thư vú nam gia tĕng. Gần 15 - 20% ung thư vú nam 
có bệnh sử gia đình so với chỉ 7% trong quần thể 
nam nói chung. Như với trường hợp ung thư vú nữ, 
2 gen ung thư vú và ung thư buồng trứng BRCA1 và 
BRCA2, di truyền nhiễm sắc thể trội, làm gia tĕng 
phần lớn các trường hợp ung thư vú di truyền. 
Nguy cơ ung thư vú nam dường như cao hơn 
với đột biến BRCA2 hơn là BRCA1. Nam di truyền 
các đột biến tự thân BRCA2 ước lượng có khoảng 
6% nguy cơ tương đối mắc ung thư vú trong suốt 
đời sống; điều này đại diện nguy cơ gấp 100 lần hơn 
trong quần thể nam nói chung. 
Xuất độ đột biến BRCA thay đổi dựa trên chủng 
tộc và độ mạnh của bệnh sử gia đình. Ở bệnh nhân 
ung thư vú nam, lên đến 14% có đột biến BRCA2 
phát hiện được; đột biến BRCA1 rất hiếm gặp, ngoại 
trừ chủng tộc Ashkenazi Jewish. Một nghiên cứu tìm 
thấy 4,5% nam Ashkenazi Jewish có ung thư vú có 
đột biến BRCA1. Bởi vì điều này, tất cả bệnh nhân 
nam được chẩn đoán ung thư vú nên được tư vấn di 
truyền và xét nghiệm BRCA (bảng 3). 
Các gen khác ngoài BRCA có thể liên quan đến 
ung thư vú nam: đột biến gen ức chế bướu PTEN 
(hội chứng Cowden), TP53 (hội chứng Li-Fraumeni), 
PALB2, và gen sửa chữa ghép cặp sai (hội chứng 
Lynch) tất cả có liên quan đến nguy cơ ung thư vú 
nam. Tuy nhiên, trong khi các dấu hiệu như vậy có 
thể làm gia tĕng nguy cơ tương đối mắc ung thư vú 
ở nam ở đột biến xác định (so với nam không có đột 
biến), nguy cơ tương đối của ung thư vú nam hãy 
còn thấp. Do đó, không khuyến cáo nhũ ảnh tầm 
soát hoặc đoạn nhũ dự phòng ở những cá nhân có 
ảnh hưởng. 
Các thay đổi của tỉ lệ estrogen - androgen 
Kích thích của estrogen thừa có thể do các liệu 
pháp nội tiết (như các hợp chất có chứa estrogen 
hoặc testosterone), suy chức nĕng gan, béo phì, sử 
dụng thuốc phiện, bệnh tuyến giáp, hoặc một tình 
trạng di truyền như hội chứng Klinefelter. 
Hội chứng Klinefelter là một tình trạng hiếm gặp 
từ sự di truyền của thêm một nhiễm sắc thể X. Hội 
chứng Klinefelter gồm thiểu sản 2 tinh hoàn, nữ hóa 
tuyến vú, nồng độ gonadotropins trong máu cao 
(follicle-stimulating hormone, luteinizing hormone), 
và nồng độ testosterone thấp; hậu quả thực là tỉ lệ 
estrogen - testosterone cao. 
Một vài nghiên cứu dịch tễ thực hiện tập trung 
vào mối liên quan này do tính hiếm gặp của cả 
hội chứng Klinefelter và ung thư vú nam. Nghiên cứu 
cohort lớn nhất trên 3518 nam có tế bao học 
di truyền được chẩn đoán có hội chứng Klinefelter 
cho thấy tĕng gấp 19 - 58 lần xuất độ và tử vong do 
ung thư vú một cách tương đối, so với quần thể 
chung. Các nghiên cứu bổ sung là cần thiết để làm 
rõ bệnh nhân nam nào có hội chứng Klinefelter có 
nguy cơ cao mắc ung thư vú và xác đinh các yếu tố 
nguy cơ tiên đoán có thể, bao gồm các nội tiết 
nội sinh thay đổi. 
Vai trò của tầm soát ung thư vú nam ở bệnh 
nhân có hội chứng Klinefelter chưa rõ. Mặc dù nhũ 
ảnh thường quy không được chủ trương cho tất cả 
bệnh nhân nam có ảnh hưởng, tầm quan trọng của 
việc giáo dục bệnh nhân, tự khám tuyến vú và thĕm 
khám định kỳ với bác sĩ được nhấn mạnh. 
Tình trạng tinh hoàn nguyên phát 
Các tình trạng tinh hoàn có liên quan với việc 
gia tĕng nguy cơ ung thư vú nam gồm viêm tinh 
hoàn, tinh hoàn ẩn, chấn thương tinh hoàn. Trong 
k ...  cao dựa trên 
các đặc tính của bướu (như grad mô học, pN và kích 
thước bướu) và với những người dung nạp điều trị 
là những ứng viên thích hợp cho việc điều trị 
tamoxifen mở rộng. Với tất cả những người khác, 
một quyết định có hay không tiếp tục điều trị sau 
5 nĕm nên dựa trên việc cân nhắc từng cá thể về 
các tác dụng phụ (như bốc hỏa, rối loạn chức nĕng 
tình dục). 
Mặc dù có thể có lợi ích sống còn từ tamoxifen, 
nhiều nghiên cứu cho thấy phần lớn các bệnh nhân 
nam ngưng điều trị trước 5 nĕm, điều này đi kèm với 
tiên lượng xấu. Trong một nghiên cứu trên 116 bệnh 
nhân nam, tỉ lệ tuân thủ giảm từ 65% tại thời điểm 
1 nĕm đến còn 18% trước 5 nĕm. So với nam còn 
tuân thủ tamoxifen, tuân thủ thấp đi kèm với tỉ lệ 
sống còn không bệnh 10 nĕm thấp hơn (42 so với 
73%; p = 0.007) và sống còn toàn bộ (50 so với 
80%; p = 0.008). Các yếu tố đi kèm với tuân thủ thấp 
bao gồm: 
 Tuổi ≤60 (HR 1.10, 95% CI 1.01-1.21). 
 Thiếu sự trợ giúp xã hội HR 2.45, 95% CI 
1.32-4.55). 
 Khởi đầu các tác dụng phụ (HR 2.19, 95% 
CI 1.57-3.04), bao gồm mệt mỏi (1%), lo lắng (20%), 
rối loạn giấc ngủ (19%), giảm ham muốn (11%), tĕng 
cân (10%). 
Dựa trên các kết quả này, các can thiệp là cần 
thiết để tĕng sự tuân thủ điều trị của bệnh nhân ung 
thư vú nam để hoàn tất đầy đủ quá trình điều trị 
tamoxifen. 
Tiên lượng 
Mặc dù bệnh nhân ung thư vú nam đi kèm với 
tiên lượng xấu hơn đáng kể so với nữ, hầu hết các 
báo cáo tạm thời ở cả bệnh nhân ung thư vú nam và 
nữ được ghép cặp cẩn thận về tuổi lúc chẩn đoán, 
giai đoạn và grade thì không chứng minh sống còn 
xấu hơn có ý nghĩa ở nam. 
Các nghiên cứu đánh giá sống còn ở bệnh 
nhân ung thư vú nam: 
 Trong một phân tích kết hợp toàn cầu trên 
1500 bệnh nhân ung thư vú nam, tại trung vị thời 
VÚ 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
397 
gian theo dõi 8,2 nĕm, tử vong 5 nĕm liên quan ung 
thư vú cải thiện đều đặn từ 15,1% (1990 - 1995) còn 
7,6% (2006- 2010). Ngoài ra, với bệnh nhân ung thư 
vú thể luminal A, trung vị sống còn toàn bộ là 9,5 so 
với 8,8 nĕm ở nhóm luminal B-like/HER2-và 10 nĕm 
với nhóm luminal B-like/HER2+. 
 Trong một phân tích từ dữ liệu của SEER 
trên bệnh nhân ung thư vú nam chẩn đoán từ 2005 - 
2009, bệnh nhân ung thư vú nam có tiên lượng xấu 
hơn so với nữ, với nguy cơ tử vong là 41% cao hơn 
nữ trong cùng thời gian. Tương tự, tỉ lệ sống còn 5 
và 10 nĕm ở bệnh nhân nam (85,1và 72,9% tương 
ứng) là thấp hơn bệnh nhân nữ (90,2 và 84,6%). 
Các phát hiện này là tương tự theo phân nhóm 
chủng tộc và giai đoạn. Một phân tích riêng biệt từ 
dữ liệu của SEER cũng gợi ý sống còn toàn bộ và 
sống còn liên quan ung thư vú xấu hơn ở nam so 
với nữ. Như với nữ, kích thước bướu và có hạch di 
cĕn cũng như số lượng hạch là các yếu tố tiên 
lượng quan trọng với ung thư vú nam. Hai báo cáo 
gồm 335 và 397 ca ung thư vú nam, tỉ lệ sống còn 
liên quan bệnh như sau: 
 pN-: 77 và 84%. 
 1-3 hạch +: 50 và 44%. 
 ≥ 4 hạch+: 24 và 14%. 
RS là yếu tố tiên lượng ở nam có thụ thể nội tiết 
dương, HER2- như ở nữ. Trong một phân tích hồi 
cứu gồm 3800 bệnh nhân nam ung thư vú có thụ thể 
nội tiết dương, tỉ lệ sống còn đặc trưng ung thư vú là 
99% ở bệnh nhân có RS ≤17, 96% khi RS 18 - 30, 
81% khi RS ≥31. 
Sự khác biệt về chủng tộc 
Như ở nữ, bệnh nhân nam ung thư vú da màu 
có tiên lượng xấu hơn so với nam da trắng. 
Điều này được minh họa trong một báo cáo trên 
510 bệnh nhân ≥ 65 tuổi (456 da trắng, 34 da màu) 
với ung thư vú giai đoạn I - III từ dữ liệu liên kết 
Medicare/SEER. Điều trị bao gồm đoạn nhũ, hóa trị 
và xạ trị trong 94, 28, và 29% nam tương ứng. 
So với nam da trắng, nam da màu có khuynh 
hướng bệnh ở giai đoạn tiến xa có ý nghĩa (24 so 
với 9% ở giai đoạn III) và kích thước bướu lớn hơn. 
Hơn nữa, có một khuynh hướng không có ý nghĩa 
thống kê ở nam da màu có N+ (45 so với 34%) và 
bướu biệt hóa kém (44 so với 32%), HR+ ít hơn (56 
v so với 72%), và các điểm bệnh đi kèm nhiều hơn 0 
(53 so với 38%). Bệnh nhân nam da màu có gần 
50% ít có khuynh hướng đi khám bác sĩ nội khoa 
ung thư và nhận hóa trị, nhưng các khác biệt này 
không có ý nghĩa thống kê. Sau khi hiệu chỉnh với 
các yếu tố lâm sàng, dịch tễ học, các yếu tố liên 
quan điều trị, bệnh nhân nam da màu có nguy cơ tử 
vong tĕng gấp 3 lần so với nam da trắng. Tỉ lệ sống 
còn 5 nĕm là 66 và 90% tương ứng. 
Các vấn đề với bệnh nhân sống sót 
Theo dõi sau điều trị 
Nhìn chung, nam điều trị ung thư vú nên được 
theo dõi sau điều trị như ở nữ. Tuy nhiên, có hay 
không có vai trò của nhũ ảnh thì không rõ. Trong khi 
các dữ liệu giới hạn cho thấy những bệnh nhân này 
có nguy cơ ung thư vú đối bên gia tĕng. Do đó, vai 
trò của tầm soát ở nam có tiền cĕn ung thư vú thì 
không chắc chắn, và việc quyết định nên dựa trên 
sự tham khảo ý kiến bệnh nhân và các giá trị. 
Như ở nữ, những bênh nhân này cũng có nguy 
cơ có các bệnh lý ác tính khác. Điều này được thấy 
trong một nghiên cứu gồm dữ liệu trên 3400 bệnh 
nhân nam ung thư vú còn sống sót, trong đó 12,5% 
phát triển ung thư thứ hai. Loại bệnh thường gặp 
nhất là đường tiêu hóa, tụy, ung thư da không phải 
melanôm, ung thư tiền liệt tuyến. 
Các tác dụng phụ về thể chất và tâm lý 
Các nghiên cứu nhỏ cho thấy các độc tính là 
thường gặp ở nam khi sử dụng tamoxifen, và đây là 
một trong các lý do chính cho tỉ lệ ngưng điều trị nội 
tiết ở nam cao. 
Quản lý các tác dụng phụ của liệu pháp nội tiết 
như bốc hỏa và rối loạn chức nĕng tình dục thì 
không rõ ở nam, do đó các chiến lược thường được 
ngoại suy từ những gì đã được chứng minh có hiệu 
quả trên các bệnh nhân ung vú nữ sống sót sau điều 
trị (như bốc hỏa) và quần thể nam nói chung (cho rối 
loạn chức nĕng tình dục). 
 Các chọn lựa cho bốc hỏa gồm các chọn lựa 
không nội tiết tương tự được cung cấp cho bệnh 
nhân nữ có tiền cĕn ung thư vú, như các ức chế tái 
hấp thu serotonin chọn lọc SSRIs (selective 
serotonin reuptake inhibitors) mà không ảnh hưởng 
đến chuyển hóa của tamoxifen (như venlafaxine). 
 Nhìn chung, rối loạn chức nĕng tình dục ở 
bệnh nhân ung thư vú nam được điều trị tương tự 
như ở nam không bị ung thư vú, mặc dù tránh dùng 
testosterone, vì cơ chế chuyển hóa của testosterone 
thành estrogen có thể kích thích mô vú. 
Phosphodiesterase-5 inhibitors có thể được sử dụng 
cho bệnh nhân nam có rối loạn chức nĕng cường 
dương. 
Ít có kinh nghiệm của nam sau ung thư vú. Tuy 
nhiên vấn đề liên quan liệt dương và các rối loạn 
tâm lý dường như trở thành chủ đề thường gặp. 
Trong một nghiên cứu trên 160 bệnh nhân nam ung 
thư vú có trung vị 2,9 nĕm từ khi chẩn đoán, các vấn 
đề tâm lý gồm: 
VÚ 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
398 
 Trầm cảm và lo âu có ý nghĩa (đo lường với 
Hospitalized Anxiety and Depression Scale) có ở 1 
và 6%. 
 Rối loạn tâm lý có ý nghĩa cao hơn ở nam có 
đoạn nhũ, những người này trải nghiệm các triệu 
chứng đồng thời và không lập gia đình. 
 Các rối loạn liên quan đến ung thư có liên 
quan có ý nghĩa với tuổi trẻ hơn, hình ảnh bản thân 
thay đổi, tiếp nhận các kích ứng cao hơn do việc 
giảm khả nĕng sinh lý, đau, sợ hãi, và không chắc 
chắn về tương lai. 
Bệnh di cĕn 
Tiếp cận 
Tiếp cận với bệnh nhân ung thư vú nam di cĕn 
hoặc tiến xa là tương tư với nữ. 
 Hóa trị ở nam với cách tương tự như ở nữ, 
cho các ứng viên phù hợp. 
 Với nam có HER2+, kết hợp với các tác 
nhân kháng HER2 trong chiến lược điều trị được 
khuyến cáo như ở nữ. 
 Với những bệnh nhân di cĕn, HR+, HER2-, 
liệu pháp nội tiết thường được thực hiện. Tuy nhiên, 
khi bệnh tiến triển nhanh hoặc di cĕn tạng lan rộng, 
hóa trị được ưa thích hơn. 
 Mặc dù các dữ liệu là hỗn hợp liên quan đến 
lợi ích sống còn cho các điều trị tại chỗ ở ung thư vú 
di cĕn, chúng có thể thích hợp cho một số bệnh 
nhân nam, trong các tình huống lâm sàng tương tự 
như nữ. 
Các cân nhắc đặc biệt cho bệnh có HR+ 
Với nam có HR+, ung thư vú tiến xa, gợi ý liệu 
pháp nội tiết nội khoa. Mặc dù cắt 2 tinh hoàn đem 
lại tỉ lệ đáp ứng là 32 và 67%, người ta ưa thích các 
chọn lựa nội khoa đem lại tác động sinh lý và tâm lý 
hơn cắt tinh hoàn 2 bên. 
Các khác biệt so với tiếp cận bệnh nhân nữ hậu 
mãn kinh như sau: 
 Tamoxifen là tác nhân được ưa thích ban 
đầu cho nam có ung thư vú di cĕn, HR+ hơn là ức 
chế aromatase (AIs), là tác nhân thường được lựa 
chọn hơn ở nữ hậu mãn kinh. 
 Với bệnh nhân nam tiến triển khi hoặc trong 
12 tháng hỗ trợ tamoxifen, người ta đề nghị AI kết 
hợp với GnRHa, có hay không có liệu pháp nhắm 
trúng đích, như cyclin-dependent kinase 
(CDK) 4/6 inhibitors. Tiếp cận này được tiến hành 
trên nữ hậu mãn kinh, trong đó GnRHa không được 
thực hiện điển hình. 
Trên 80% bệnh nhân ung thư vú nam có HR+ 
sẽ đáp ứng với tamoxifen; tuy nhiên, nam có HR-sẽ 
không có lợi ích điều trị. 
Bất kỳ các điều trị dưới đây là những lựa chọn 
hợp lý cho nhưng bệnh nhân tiến triển hoặc có 
chống chỉ định với tamoxifen, như là một phần của 
một thử nghiệm lâm sàng. 
 AIs với GnRHa - Vì AIs không giảm sản 
xuất estrogens từ tinh hoàn, nên sử dụng GnRHa 
đồng thời với AI. Nghiên cứu trường hợp ca về đáp 
ứng với AI kết hợp GnRHa đã được báo cáo, một 
trong số đó là một bệnh nhân có bệnh di cĕn tiến 
triển sau cả AI đơn trị và GnRHa đơn trị trước đó có 
đáp ứng với phối hợp 2 thuốc. Một báo cáo tổng hợp 
khác về điều trị AI đơn chất hoặc kết hợp với 
GnRHa ở 23 bệnh nhân nam cho thấy có đáp ứng 
một phần ở 26,1% và bệnh ổn định ở 56,5%. 
Đáp ứng với AIs đơn chất đã có báo báo, mặc 
dù người ta vẫn ưa chuộng việc tránh AI đơn trị vì 
các lý do nêu trên. 
 Thêm tác nhân nhắm trúng đích: - Ức chế 
CDK 4/6 và everolimus được chứng minh có hoạt 
tính ở bệnh nhân nữ khi phối hợp với liệu pháp nội 
tiết, nhưng việc sử dụng ở bệnh nhân nam thì chưa 
được nghiên cứu nhiều. Một báo cáo trường hợp ca 
điều trị bước 4 với letrozole và palbociclib ở nam 
ung thư vú di cĕn có ER+, HER2-có bệnh ổn định tại 
thời điểm 4 tháng sau điều trị. Hai báo cáo trường 
hợp ca bệnh nhân nam đã điều trị nhiều trước đó, 
sử dụng everolimus cho thấy có đáp ứng đáng kể 
với điều trị, mặc dù 1 bệnh nhân phải ngưng điều trị 
sau 4 tháng do viêm niêm mạc. Người ta sử dụng ức 
chế CDK 4/6 kết hợp với AI và GnRHa ở bệnh nhân 
nam tiến triển sau tamoxifen hoặc có chống chỉ định 
với tamoxifen. Hơn nữa, đó là lý do hợp lý cân nhắc 
sau đó everolimus kết hợp với AI và GnRHa ở bệnh 
nhân nam. 
 Fulvestrant - Dữ liệu liên quan vai trò của 
fulvestrant hạn chế. 2 báo cáo trường hợp có tổng 
cộng 7 bệnh nhân nam có đáp ứng một phần và 
bệnh ổn định trong 3 ca (một ca kéo dài 22 tháng. 
Một báo cáo tổng hợp trên 23 bệnh nhân nam sử 
dụng fulvestrant điều trị bước 1, 2, 3 cho bệnh di cĕn 
có tỉ lệ đáp ứng một phần là 26%, và 48% có bệnh 
ổn định. 
 Các bước điều trị nội tiết sau đó: Nam 
đáp ứng với một loại điều trị nội tiết có khả nĕng đáp 
ứng với việc sử dụng các nội tiết sau đó. Nhiều liệu 
pháp nội tiết (như aminoglutethimide, megestrol 
acetate, androgens, antiandrogens, corticosteroids, 
cyproterone acetate, estrogens) có tỉ lệ đáp ứng 50 - 
70% ở bệnh nhân có ER+. Tuy nhiên, các tác dụng 
phụ có khuynh hướng ít hơn so với tamoxifen, và 
VÚ 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
399 
hầu hết ít được nghiên cứu ở nam. Do đó, chúng 
được để dành cho các bước sau đó. 
KẾT LUẬN 
Ung thư vú ít gặp ở nam hơn nữ. Nam có 
khuynh hướng bệnh ở tuổi lớn hơn nữ. 
Sinh thiết là cần thiết để xác định chẩn đoán và 
xét nghiệm HR và Her2, cần thiết để chọn lựa điều 
trị. 
Hầu hết nam ung thư vú giai đoạn sớm được 
phẫu thuật đoạn nhũ hơn là cắt tuyến vú một phần 
do mô vú giới hạn. Tuy nhiên, với nam có mô vú đủ 
là ứng viên cho phẫu thuật bảo tồn vú, hoặc đoạn 
nhũ hoặc phẫu thuật bảo tồn vú là các chọn lựa 
thích hợp. Với nam có phẫu thuật bảo tồn vú, 
khuyến cáo xạ trị bổ túc. (grad IB) 
Như với nữ, đánh giá việc nạo hạch nách là cần 
thiết: 
 Với các bệnh nhân không có hạch nách trên 
lâm sàng, cần sinh thiết hạch lính gác thay vì tấtt cả 
đều nạo hạch nách. (Grade 2B). 
 Với nam có hạch nách trên lâm sàng và có 
bằng chứng hạch lính gác trên đại thể, khuyến cáo 
nạo hạch nách toàn bộ. (Grade 1B). 
 Với nam đã được sinh thiết hạch lính gác và 
có hạch di cĕn vi thể, khuyến cáo tiếp cận tương tự 
như ở nữ. 
Như với nữ, nam có bệnh tiến xa (T3 hoặc 
T4) và/hoặc ≥ 4 hạch nách, khuyến cáo xạ trị sau mổ 
thành ngực và hạch vùng (Grade 1B). Với nam có 1-
3 hạch nách, quyết định xạ trị tương tự như ở nữ. 
Bất kể trường hợp nào, nam có bất kỳ hạch nách di 
cĕn nên được gặp bác sĩ xạ trị để thảo luận nguy cơ 
và lợi ích của xạ trị. 
Tiếp cận điều trị toàn thân (như hóa trị và/hoặc 
kháng Her2) cho nam với ung thư vú mới chẩn đoán 
tương tự như ở nữ. 
(Grade 2C), đem lại bằng chứng không đầy đủ 
trợ giúp cho việc sử dụng AI đơn trị ở nam. Khuyến 
cáo sử dụng tamoxifen hỗ trợ hơn là một AI với 
gonadotropin-releasing hormone agonists (GnRHa) 
(Grade 2C), có dung nạp tốt hơn. Tuy nhiên, với 
những bệnh nhân có chống chỉ định với tamoxifen 
(như tình trạng tĕng đông), một AI với GnRHa là một 
thay thế hợp lý. 
Với nam có bệnh di cĕn, khuyến cáo sử dụng 
tamoxifen hơn là một AI có hay không có GnRHa 
(Grade 2C), có dung nạp và kinh nghiệm nhiều hơn 
với tamoxifen trong ung thư vú nam. Tuy nhiên, có 
thể cân nhắc AI với GnRHa là thay thế hợp lý cho 
tamoxifen hoặc các bước kế tiếp sau khi bệnh tiến 
triển với tamoxifen. 
Mặc dù bằng chứng cho cyclin-dependent 
kinase (CDK) 4/6 inhibitors, fulvestrant, và 
everolimus có hạn chế ở nam, người ta phối hợp 
các tác nhân này sau khi tiến triển với tamoxifen, sử 
dụng cách tiếp cận tương tự như ở nữ. Khi sử dụng 
một AI (với có hoặc không có tác nhân nhắm đích), 
sử dụng một GnRHa để ức chế sản xuất estrogen 
của tinh hoàn. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Siegel RL, Miller KD, Jemal A. Cancer statistics, 
2018. CA Cancer J Clin 2018; 68:7. 
2. White J, Kearins O, Dodwell D, et al. Male breast 
carcinoma: increased awareness needed. Breast 
Cancer Res 2011; 13:219. 
3. Giordano SH. Breast Cancer in Men. N Engl J 
Med 2018; 378:2311. 
4. Anderson WF, Althuis MD, Brinton LA, Devesa 
SS. Is male breast cancer similar or different 
than female breast cancer? Breast Cancer Res 
Treat 2004; 83:77. 
5. Siegel RL, Miller KD, Jemal A. Cancer Statistics, 
2017. CA Cancer J Clin 2017; 67:7. 
6. Sasco AJ, Lowenfels AB, Pasker-de Jong P. 
Review article: epidemiology of male breast 
cancer. A meta-analysis of published case-
control studies and discussion of selected 
aetiological factors. Int J Cancer 1993; 53:538. 
7. Agrawal A, Ayantunde AA, Rampaul R, 
Robertson JF. Male breast cancer: a review of 
clinical management. Breast Cancer Res Treat 
2007; 103:11. 
8. Rudlowski C. Male Breast Cancer. Breast Care 
(Basel) 2008; 3:183. 
9. Thomas DB. Breast cancer in men. Epidemiol 
Rev 1993; 15:220. 
10. O'Malley CD, Prehn AW, Shema SJ, Glaser SL. 
Racial/ethnic differences in survival rates in a 
population-based series of men with breast 
carcinoma. Cancer 2002; 94:2836. 

File đính kèm:

  • pdfkhao_sat_cac_dac_diem_dich_te_hoc_lam_sang_benh_hoc_va_dieu.pdf