Khảo sát các đặc điểm dịch tễ học, lâm sàng, bệnh học và điều trị ở bệnh nhân bướu sắc bào thượng thận và bướu cận hạch giao cảm
Mục tiêu: Khảo sát các đặc điểm lâm sàng, bệnh học và các phương pháp điều trị bệnh nhân bướu sắc
bào thượng thận và bướu cận hạch giao cảm.
Phương pháp: Báo cáo trường hợp ca những bệnh nhân bướu sắc bào thượng thận và bướu cận hạch
giao cảm điều trị tại BVUB TP.HCM trong năm 2018.
Kết quả: Có 03 trường hợp bệnh nhân bướu sắc bào thượng thận và 1 trường hợp bướu cận hạch
giao cảm được khảo sát. Thời gian có triệu chứng là 1-10 tuần. Không có trường hợp nào có tiền căn gia đình.
Cả 3 trường hợp có nhiễm viêm gan siêu vi B. Có 3 trường hợp có cao huyết áp tại thời điểm chẩn đoán. 100%
bệnh nhân đến khám vì có bướu ở bụng. Kích thước bướu là 7-11cm. Cả 3 trường hợp có tăng catecholamine
trong nước tiểu 24 giờ. Không có trường hợp nào có tăng cortisol trong máu. Đặc điểm giải phẫu bệnh bao gồm
3 trường hợp là bướu sắc bào thượng thận, 1 trường hợp là bướu cận hạch giao cảm. Hình ảnh CT scan
3 trường hợp có bướu thượng thận, 1 trường hợp hạch sau phúc mạc. 2/3 trường hợp có xuất huyết trong
bướu, 3 trường hợp có gieo rắc ổ bụng-hạch ổ bụng, 1 trường hợp có di căn ngoài ổ bụng.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Khảo sát các đặc điểm dịch tễ học, lâm sàng, bệnh học và điều trị ở bệnh nhân bướu sắc bào thượng thận và bướu cận hạch giao cảm
HUYẾT HỌC - TỔNG QUÁT TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 157 KHẢO SÁT CÁC ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ HỌC, LÂM SÀNG, BỆNH HỌC VÀ ĐIỀU TRỊ Ở BỆNH NHÂN BƯỚU SẮC BÀO THƯỢNG THẬN VÀ BƯỚU CẬN HẠCH GIAO CẢM TRẦN NGUYÊN HÀ1, PHAN THỊ HỒNG ĐỨC2 Mục tiêu: Khảo sát các đặc điểm lâm sàng, bệnh học và các phương pháp điều trị bệnh nhân bướu sắc bào thượng thận và bướu cận hạch giao cảm. Phương pháp: Báo cáo trường hợp ca những bệnh nhân bướu sắc bào thượng thận và bướu cận hạch giao cảm điều trị tại BVUB TP.HCM trong nĕm 2018. Kết quả: Có 03 trường hợp bệnh nhân bướu sắc bào thượng thận và 1 trường hợp bướu cận hạch giao cảm được khảo sát. Thời gian có triệu chứng là 1-10 tuần. Không có trường hợp nào có tiền cĕn gia đình. Cả 3 trường hợp có nhiễm viêm gan siêu vi B. Có 3 trường hợp có cao huyết áp tại thời điểm chẩn đoán. 100% bệnh nhân đến khám vì có bướu ở bụng. Kích thước bướu là 7-11cm. Cả 3 trường hợp có tĕng catecholamine trong nước tiểu 24 giờ. Không có trường hợp nào có tĕng cortisol trong máu. Đặc điểm giải phẫu bệnh bao gồm 3 trường hợp là bướu sắc bào thượng thận, 1 trường hợp là bướu cận hạch giao cảm. Hình ảnh CT scan 3 trường hợp có bướu thượng thận, 1 trường hợp hạch sau phúc mạc. 2/3 trường hợp có xuất huyết trong bướu, 3 trường hợp có gieo rắc ổ bụng-hạch ổ bụng, 1 trường hợp có di cĕn ngoài ổ bụng. 100% được phẫu trị trước, trong đó 2/4 được cắt bướu, 2 trường hợp chỉ mổ thám sát, sinh thiết. Trường hợp mổ được có tái phát lại sau 3-6 tháng và được phẫu thuật lần 2. Chỉ có 1/2 trường hợp cắt được bướu, sau 4 tháng bệnh gieo rắc ổ bụng. Hóa trị với phác đồ CVD chiếm 100% trường hợp. Có 1 trường hợp bệnh tiến triển sau 3 chu kỳ hóa trị CVD và tái kích hoạt viêm gan siêu vi B dù đã có điều trị dự phòng bằng Lamivudine, được hội chẩn chĕm sóc giảm nhẹ. Do giới hạn về thời gian nghiên cứu nên chúng tôi chưa đánh giá được sống còn cho toàn bộ nhóm bệnh nhân. Kết luận: Bướu sắc bào thượng thận và bướu cận hạch giao cảm là một tình trạng hiếm gặp. Bướu thường được phát hiện trễ, đi kèm các triệu chứng cao huyết áp, xuất huyết trong bướu, tĕng catecholamine trong nước tiểu. Các nguyên tắc điều trị chính ở bệnh lý này gồm kiểm soát các triệu chứng do tĕng catecholamine, phẫu thuật và hóa trị khi bệnh tiến xa. Các nghiên cứu về điều trị đích và 131I-MIBG hiện tại chưa được phổ biến, tuy nhiên cần phát triển của điều trị ứng hợp cho nhóm này. ABSTRACT Pheochromocytoma and paraganglioma: epidemic, clinicopathological features and treatment Purpose: To evaluate the clinical and pathologic features and treatment of pheochromocytoma and paraganglioma. Patients and method: This is a case series study on 03 patients diagnosed with pheochromocytoma and paraganglioma treated in 2018 at HCMC Oncology Hospital. Results: The duration of disease awareness before hospitalization was 1 - 10 weeks. None of patients had family history of pheochromocytoma and paraganglioma. 3 patients had hypertension, 3 of them had hepatitis B. 100% of cases presented with mass in the abdominal cavity. 2 cases had 2 lesions in the breast. Tumor size at hospitalization was 7 - 11cm). 3 cases had high level of catecholamine in the urine. None of them had high level of cortisol in the serum. On pathological examination, 3 cases were pheochromocytoma and 1 case was paraganglioma. CT scan had tumor of the adrenal in 3 cases and 1 case was paraganglioma. 2/3 cases had hemorrhage inside tumor, 1 case had peritoneum metastasis and 1 case had extra-abdominal metastasis. 1BSCKII. Trưởng Khoa Nội 4 - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM 2 TS.BS. Phó Trưởng Bộ môn Ung Bướu ĐHYK Phạm Ngọc Thạch - BSĐT Khoa Nội 4- Bệnh viện Ung Bướu TP.HCM HUYẾT HỌC - TỔNG QUÁT TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 158 100% of cases undergone surgegy. 2/4 cases had tumor excision, 2 cases had biopsy. 2 cases had tuomor excision relapsed after 3-6 months, and undergone 2nd surgery. Only 1/2 case had tumor excision and relapsed after 4 months. Chemotherapy with CVD regimen in 100% cases. 1 case relapsed after 3 cycles and re-activated hepatitis B and had changed into best supportive care. We couldn’t evaluate overall survival of the whole group because of the limitation of time. Conclusion: The incidence of pheochromocytoma and paraganglioma is very rare. The biological nature of invasive breast cancer of this group is very aggressive. Late diagnostic time with symptoms such as hypertension, hemorrhage inside tumor, high level of catecholamine in the urine. In general, the treatment for this group of patients is surgery, control catecholamine secretion and a hypertensive crisis, chemotherapy in progressive disease. Patients of this group need to be indicated targeted therapy if possible. Keywords: Pheochromocytomas, paragangliomas, chromaffin. ĐẶT VẤN ĐỀ Pheochromocytomas và paragangliomas là các bướu thần kinh nội tiết chế tiết catecholamin phát sinh từ các tế bào chromaffin của tủy thượng thận (trong trường hợp pheochromocytoma) và từ các tế bào thần kinh nội tiết của cận hạch giao cảm ngoài tuyến thượng thận (trong trường hợp paraganglioma). Pheochromocytomas/paragangliomas chia sẻ các đặc tính chồng chéo về mô bệnh học, dịch tễ học và ngay cả sinh bệnh học phân tử; chúng cũng có nhiều khác biệt về đặc điểm lâm sàng, sự tiến triển và di cĕn, các dấu hiệu hóa sinh và liên quan với các hội chứng di truyền bẩm sinh. Hầu hết pheochromocytomas/paragangliomas lành tính. Ít nhất 10% pheochromocytomas ác tính (được định nghĩa khi có di cĕn xa), trong khi phần lớn paragangliomas (lên đến 25%) là ác tính. Paragangliomas và pheochromocytomas không thể phân biệt được ở mức độ tế bào. Các paragangliomas tiết catecholamine thường hiện diện trên lâm sàng như pheochromocytoma với cao huyết áp, nhức đầu cách hồi, đổ mồ hôi, rung, tim đập nhanh. Tuy nhiên, sự khác biệt giữa pheochromocytoma và paraganglioma là quan trọng vì liên quan đến điều trị, xét nghiệm di truyền và phân nhóm nguy cơ. Mục đích của nghiên cứu này là khảo sát các đặc trưng bệnh học và điều trị của 3 bệnh nhân bướu sắc bào thượng thận tại Bệnh viện Ung Bướu TP.HCM. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Thiết kế nghiên cứu Báo cáo trường hợp ca. Đối tượng nghiên cứu 3 bệnh nhân bướu sắc bào thượng thận và 1 trường hợp bướu cận hạch giao cảm tại thời điểm chẩn đoán được nhập viện điều trị tại BVUB TP.HCM trong nĕm 2018 với giải phẫu bệnh là pheochromocytoma và paraganglioma. Các bước thực hiện nghiên cứu Sau khi chọn bệnh nhân đủ tiêu chuẩn nhận bệnh, chúng tôi sẽ ghi nhận các biến số: - Các biến số về dịch tễ học: tuổi, nghề nghiệp, nơi cư trú. - Tiền cĕn cá nhân, gia đình. - Các biến số về lâm sàng và hình ảnh học: thời gian khởi bệnh, lý do nhập viện, điều trị trước đó, giai đoạn TNM, siêu âm, CT scan. - Các biến số về mô bệnh học: giải phẫu bệnh, hóa mô miễn dịch. - Điều trị: phẫu trị, hóa trị, xạ trị. - Chấm dứt theo dõi: 30/9/2018. Tiêu chuẩn xếp loại phân tử theo kết quả hóa mô miễn dịch. Xử lý số liệu Dùng phần mềm SPSS 17.0 để xử lý số liệu. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Đặc điểm nhóm khảo sát Trong nĕm 2018, có 03 bệnh nhân bướu sắc bào thượng thận và 1 trường hợp bướu cận hạch giao cảm tại thời điểm chẩn đoán được điều trị tại khoa Nội 4 Bệnh viện Ung Bướu TP.HCM. Tất cả các bệnh nhân này được ghi nhận về tình huống lâm sàng, các kết quả chẩn đoán hình ảnh, mô bệnh học. HUYẾT HỌC - TỔNG QUÁT TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 159 Thời gian có triệu chứng từ 2-10 tuần. Tuổi: 38, 45 và 51 tuổi. 100% bệnh nhân đến khám vì có bướu ở bụng. Có 2 trường hợp có tiền cĕn bướu thương thận đã mổ (tại Bệnh viện Chợ Rẫy và bệnh viện Nhân dân Gia Định. 1 trường hợp bướu cận hạch giao cảm được mổ thám sát sinh thiết tại Bệnh viện Xuyên Á. Kích thước bướu (7-11cm). Bảng 1. Các đặc điểm dịch tễ học Biến số n (%) Tiền cĕn nội khoa Cao huyết áp Viêm gan siêu vi B 4 () 3 () Tiền cĕn bướu thượng thận đã mổ 2 () Tiền cĕn gia đình Không có 0 Bệnh khác: phù chân(1). Bảng 2. Các đặc điểm lâm sàng Biến số Trường hợp Kích thước bướu 7cm 8cm 11cm 2 1 1 Tình trạng bướu (số trường hợp) Có xuất huyết trong bướu Không có xuất huyết trong bướu 2 2 Có 1 trường hợp bướu > 10cm lúc chẩn đoán. 2/3 trường hợp có xuất huyết trong bướu Bảng 3. Các đặc điểm bệnh học Biến số n (%) Giải phẫu bệnh Bướu sắc bào thượng thận Bướu cận hạch giao cảm 3 1 Có 1 trường hợp bướu cận hạch giao cảm được làm hóa mô miễn dịch với các dấu ấn vimentin, chromogranin, CD56, synaptophysin (+++). Bảng 4. Xét nghiệm cortisol/ máu Chỉ số Số trường hợp có tĕng Cortisol/ máu (6,20 -19,40 µg/dL) 2 Bảng 5. Xét nghiệm catecholamine/ nước tiểu 24 giờ Chỉ số Số trường hợp có tĕng Adrenaline (< 20 µg/24h) 4 Noradrenaline (< 90 µg/24h) 4 Dopamine (< 600 µg/24h) 4 Bảng 6. Hình ảnh CT scan Đặc điểm Số trường hợp Bướu thượng thận 3 Hạch sau phúc mạc 1 Có xuất huyết 2 Có gieo rắc ổ bụng - hạch ổ bụng 3 Di cĕn ngoài ổ bụng 1 Điều trị Bảng 7. Điều trị Biến số n (%) Điều trị lúc đầu Phẫu trị Hóa trị 4 (100) 0 (0) Số lần phẫu trị 1 2 2 2 Phương pháp phẫu thuật lần 1 Mổ thám sát - sinh thiết Lấy bướu 2 2 Phương pháp phẫu thuật lần 2 Mổ thám sát - sinh thiết Lấy bướu 1 1 Hóa trị Có Không 4 (100) 0 (0) Phác đổ hóa trị CVD* Xạ trị Có Không 0 (0) 4 (100) HUYẾT HỌC - TỔNG QUÁT TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 160 *: Cyclophosphamide 750mg/m2 N1, Vincristine 1,4mg/m2 N1, Dacarbazine 600mg/m2 N1-2 chu kỳ 21-28 ngày. 100% được phẫu trị lúc đầu; trong đó 2 trường hợp mổ thám sát-sinh thiết bướu, 2 trường hợp còn lại cắt bướu. Sau 3-6 tháng 2 trường hợp này tái phát và được phẫu thuật lần 2. Chỉ có 1/2 trường hợp cắt được bướu, sau 4 tháng bệnh gieo rắc ổ bụng. Phác đồ CVD chiếm 100% trường hợp. Có 1 trường hợp bệnh tiến triển sau 3 chu kỳ hóa trị CVD và tái kích hoạt viêm gan siêu vi B dù đã có điều trị dự phòng bằng Lamivudine, được hội chẩn chĕm sóc giảm nhẹ. BÀN LUẬN Sinh bệnh học phân tử Nghiên cứu hội chứng pheochromocytoma gia đình rất quan trọng để hiểu các cơ chế sinh bệnh học ảnh hưởng cả thể bệnh gia đình và đơn lẻ. Nhiều gen nhạy cảm được cho là có vai trò trung tâm trong sinh bệnh học của cả pheochromocytomas và paragangliomas. Nhiều gen trong số đó đại diện cho các tình trạng di truyền (đột biến gen ức chế bướu von Hippel-Lindau [VHL], tái sắp xếp trong quá trình chuyển nạp proto-oncogene [RET], gen ức chế bướu neurofibromatosis type 1 [NF1], genes mã hóa 4 tiểu đơn vị [A,B,C,D] của phức hợp succinate dehydrogenase [SDH] và gene mã hóa enzyme chịu trách nhiệm cho việc flavination tiểu đơn vị SDHA [SDHAF2]), trong khi các đột biến tự thân khác không được chứng minh có liên quan đến hội chứng di truyền (đột biến genes TMEM127 và MAX, and HIF2A). Từ 1990 đến nay, đã có gần 20 gen nhạy cảm pheochromocytoma/ paraganglioma khác nhau được báo cáo. Đột biến trong pheochromocytoma và paraganglioma có 2 dấu ấn sao chép chung: cluster 1, gene mã hóa các protein; và cluster 2, gene mã hóa các protein hoạt hóa tín hiệu kinase. Bướu cluster 1 thường ở bướu paraganglioma ngoài thượng thận nhất (ngoại trừ trong VHL hầu hết các bướu ở tuyến thượng thận) và gần như toàn bộ có kiểu hình hóa sinh noradrenergic. Trong khi đó bướu cluster 2 thường là pheochromocytoma thượng thận với kiểu hình hóa sinh adrenergic. Đột biến cluster 1 germline gồm: NF1, RET, VHL, SDHD, SDHC, SDHB, SDHAF2,SDHA EGLN1 (PHD2), KIF1, SDHAF2, IDH1, TMEM127, SDHA, VHL, MAX, HIF2, FH gene mã hóa fumarate hydratase, EGLN1 (PHD2), EGLN2 (PHD1), và KIF1B. Đột biến cluster 2 germline gồm: RET, NF1, MAX, and TMEM127. Các nghiên cứu di truyền đang tiến hành cho thấy các gen khác có thể bị ảnh hưởng trong sinh bệnh học của các bướu này. Nguy cơ ác tính và ý nghĩa của điều trị lúc đầu Định nghĩa ác tính trong pheochromocytoma/ paraganglioma khá phức tạp. Không có sự kết hợp giữa các đặc tính lâm sàng, mô bệnh học, hóa sinh, các đánh giá bệnh học thường khó khĕn để tiên đoán nguy cơ tái phát hoặc di cĕn. Chẩn đoán ác tính có thể chỉ do xác định bướu nằm ở các mô mà bình thường không có các tế bào chromaffin (ví dụ hạch lympho, gan, xương, phổi và các vị trí di cĕn khác). Ở bệnh nhân pheochromocytoma/ paraganglioma, cần theo dõi lâu dài để đánh giá ác tính. Xuất độ ác tính tùy thuộc vị trí giải phẫu và nền tảng di truyền Khoảng 10% pheochromocytomas là ác tính so với 20-25 % paraganglioma ngoài thượng thận bụng/chậu và trung thất. Ở nền sọ và cổ, ác tính ít gặp ở bướu cuộn cảnh (ugulotympanic) (2-4%), cao hơn nhẹ ở bướu thể cảnh (4-6%), và cao nhất ở bướu thần kinh phế vị (10-19%). Có sự khác biệt lớn giữa các hội chứng di truyền và nguy cơ ác tính Tỉ lệ ác tính cao nhất ở paragangliomas đi kèm với các đột biến di truyền ở tiểu đơn vị B của succinate dehydrogenase (SDHB) gene, thường có ở bụng và chế tiết. Những bệnh nhân này cần cảnh báo tầm soát di cĕn xa trước mổ. Chỉ 3-5% pheochromocytomas/ paragangliomas liên quan đến MEN2 là ác tính. Trong các bệnh nhân có paragangliomas nền sọ và cổ, di cĕn xa thường thấy ở hạch cổ. Các dữ liệu này hướng đến khuyến cáo nạo hạch cổ chọn lọc ở thời điểm cắt bướu nguyên phát. Mặc dù kết quả bệnh nhân có hạch vùng tốt hơn bệnh nhân có di cĕn xa (sống còn 5 nĕm 77% sv 12%, National Cancer Database thường khuyến cáo xạ trị bổ túc. Ngược lại, bệnh nhân paragangliomas dưới nền sọ và vùng cổ thường có di cĕn xa, hầu hết ở xương, gan, phổi. Mặc dù sự hiện diện của di cĕn xa có tác động xấu lên tiên lượng, nhưng không phải là chống chỉ định can thiệp tại chỗ. Các can thiệp như phẫu thuật giảm tổng khối bướu, đốt, xạ trị dịnh vị là các chọn lựa hiệu quả cho xử trí bướu tái phát hoặc di cĕn. Ngay cả nếu can thiệp phẫu thuật không thể lấy bướu hoàn toàn, có thể cân nhắc với mục đích giảm nhẹ để giảm áp lực bướu lên mô xung quanh hoặc đến tổng khối bướu. Gánh nặng bướu giảm có thể HUYẾT HỌC - TỔNG QUÁT TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 161 làm giảm đáng kể tiết catecholamine (với bướu đang có chức nĕng) cũng như giảm nhẹ liều sử dụng các tác nhân kháng adrenergic. Nó có thể tĕng đáp ứng với các tiếp cận điều trị khác. Tuy nhiên, lợi ích sống còn của phẫu thuật giảm tổng khối bướu không được thể hiện. Với những bệnh nhân không đồng ý phẫu thuật hoặc những người cần phải điều trị bổ túc sau mổ, một số các chọn lựa giảm nhẹ có sẵn, gồm liệu pháp 131-iodine-labeled meta- iodobenzylguanidine (131I-MIBG), hóa trị, xạ trị, áp lạnh, RFA, chích cồn, tắc mạch bướu, liệu pháp peptide receptor radionuclide. Tiên lượng Quá trình di cĕn của pheochromocytoma/ paraganglioma thay đổi nhiều, với tỉ lệ sống còn 5 nĕm báo cáo thay đổi nhiều từ 12 - 84%. Những khác biệt này do các định nghĩa ác tính khác nh ... thần kinh nội tiết khác, gồm bướu thần kinh nội tiết tụy dạ dày ruột. Như với các bướu thần kinh nội tiết khác, bệnh nhân có pheochromocytoma/ paraganglioma tái phát hoặc di cĕn có biểu lộ thụ thể somatostatin (được xác định bằng hấp thu (+) với 111In-pentetreotide. Hình ảnh PETsử dụng gallium-68-labeled somatostatin analogs như 68-Ga-DOTATATE có thể có lợi ích từ việc điều trị sử dụng radiolabeled somatostatin analogs. Radionuclides thường sử dụng nhất là Yttrium- 90-labeled DOTA0-Tyr3-octreotide (90Y-edotreotide, 90Y-dotatoc) và lutetium Lu-177 dotatate (177Lu-dotatate). Các báo cáo trường hợp đơn độc và loạt ca nhỏ cho thấy có hiệu quả của 90Y-dotatoc và 177Lu-dotatate cho paraganglioma/ pheochromocytoma ác tính. Trong một báo cáo lớn hơn, 28 bệnh nhân pheochromocytoma/ paraganglioma tiến triển không thể phẫu thuật chữa khỏi nhận 90Y-dotatoc đơn độc hoặc với 177Lu- dotatate sau đó. Đáp ứng tốt nhất có 2 ca thóai triển một phần, 5 ca đáp ứng tối thiểu, 13 ca bệnh ổn định (tỉ lệ kiểm soát bệnh 71%). Ở thời điểm trung vị theo dõi 19 tháng, 10/20 bệnh nhân có đáp ứng khách quan hoặc bệnh ổn định hãy còn không tiến triển, và chỉ có 2 ca có độc tính tủy nhẹ và không suy giảm chức nĕng thận. Các tác dụng phụ lâu dài có thể của radiolabeled somatostatin analogs gồm suy thận, giảm ba dòng tế bào máu ngoại vi, hội chứng rối loạn sinh tủy/ bạch cầu cấp. 1/2018, Lutetium Lu-177 dotatate (177Lu-dotatate) được FDA Mỹ đồng thuận cho điều trị bướu thần kinh nội tiết tụy dạ dày ruột biều lộ thụ thể somatostatin; đồng thuận này không mở rộng cho paraganglioma/ pheochromocytoma. Sử dụng cho nhóm này hãy còn đang nghiên cứu, và nên chỉ được cân nhắc nếu bướu có biểu lộ thụ thể somatostatin. Octreotide Hiệu quả điều trị của pheochromocytoma/ paraganglioma di cĕn với somatostatin analog octreotide được phân tích trong một vài nghiên cứu với số lượng ít bệnh nhân, và kết quả còn hỗn tạp: Các báo báo trường hợp gợi ý lợi ích octreotide có đáp ứng khách quan ở số lượng ít bệnh nhân có paraganglioma di cĕn tiến triển và giảm tiết catecholamine thời gian ngắn ở bệnh nhân pheochromocytoma. Nói cách khác, những ca thất bại trong việc có lợi ích điều trị octreotide thời gian ngắn để kiểm soát tiết catecholamine hoặc cho việc giảm kích thước bướu trước mổ. Không có nghiên cứu nào báo cáo tỉ lệ ổn định bướu; ít nhất trong nhóm bướu thần kinh nội tiết tụy dạ dày ruột, nhóm lợi ích chính của somatostatin analogs trong việc ổn định bướu hơn là tiến triển bướu. Dựa trên các thông tín giới hạn trên, lợi ích của liệu pháp somatostatin analog cho việc kiểm soát bướu hoặc giảm nhẹ triệu chứng ở bệnh nhân pheochromocytoma/ paraganglioma ác tính hãy còn chưa rõ ràng. Tuy nhiên, một nghiên cứu điều trị octreotide nên được cân nhắc cho bệnh nhân nào chưa thích hợp cho các lựa chọn điều trị độc tế bào ngay. Hóa trị độc tế bào Hóa trị toàn thân nên được cân nhắc cho các bệnh nhân pheochromocytoma/ paraganglioma không cắt được hoặc diễn tiến nhanh với tổng khối bướu lớn hoặc số di cĕn xương nhiều. Hầu hết các báo cáo đánh giá hóa trị độc tế bào cho paraganglioma di cĕn tiến triển bao gồm các bệnh nhân ưu thế ở bướu tiết catecholamine giao cảm sau phúc mạc. Hầu hết các dữ liệu rộng rãi từ các nghiên cứu sử dụng nhiều kết hợp thuốc cyclophosphamide, dacarbazine, vincristine, và doxorubicin. Nghiên cứu đầu tiên sử dụng CVD (cyclophosphamide [750mg/m2 ngày 1], vincristine [1.4mg/m2 ngày 1], và dacarbazine [600mg/m2 ngày 1 và 2] chu kỳ 21-28 ngày) báo cáo tỉ lệ đáp ứng cao và cải thiện triệu chứng với phác đồ này ở 14 bệnh nhân. Nhìn chung, 10/18 bệnh nhân (56%) có đáp ứng một phần hoặc hoàn toàn, và 3 ca có đáp ứng tối thiểu. Đáp ứng hóa sinh có ở 13 ca (72%). Bệnh nhân có bướu được ghi nhận đáp ứng một phần hoặc hoàn toàn nhận trung bình 27, 4 chu kỳ CVD trung vị 23 chu kỳ). Trung vị thời gian đáp ứng là 20 tháng (7-126 tháng), và trung vị sống còn cho tất cả các bệnh nhân là 3,3 nĕm từ lúc bắt đầu hóa trị. Điều trị có dung nạp tốt, với hầu hết các tác dụng HUYẾT HỌC - TỔNG QUÁT TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 165 phụ là ức chế tủy nhẹ, bệnh lý thần kinh ngoại biên, độc tính tiêu hóa. Loạt nghiên cứu hồi cứu lớn nhất gồm 52 bệnh nhân pheochromocytoma hoặc paraganglioma giao cảm ngoài thượng thận di cĕn tiến triển điều trị nhiều phác đồ phối hợp, gồm cyclophosphamide, vincristine, doxorubicin, và dacarbazine (CyVADIC, n=19); cyclophosphamide, doxorubicin, và dacarbazine (CyADIC, n=12); cyclophosphamide, vincristine, và dacarbazine (CyVDic, n=10); hoặc nhiều phác đồ khác (n=11). Ở 52 bệnh nhân đánh giá được, 17 (33%) đáp ứng với hóa trị trước, bao gồm 13 ca có đáp ứng khách quan (25%), và 4 ca ổn định huyết áp. Ở 2 ca có bướu không cắt được lúc đầu, đáp ứng hóa trị đủ để cho phép phẫu thuật cắt bỏ sau đó. Những ca đáp ứng, tất cả nhận phác đồ có dacarbazine và cyclophosphamide, sống còn kéo dài hơn những ca không đáp ứng (trung vị 6.4 so với 3.7 nĕm). Tuy nhiên, những ca không đáp ứng cũng có bướu lớn hơn có ý nghĩa (10 so với 5cm) và % bướu nguyên phát ngoài thượng thận cao hơn, 2 yếu tố đó có liên quan với giảm sống còn toàn bộ ở pheochromocytoma/paraganglioma. Tỉ lệ sống còn toàn bộ của nghiên cứu tại thời điểm 5 nĕm là 51%. Các báo cáo ca đơn độc và loạt ca nhỏ gợi ý các bướu này cũng có thể đáp ứng với temozolomide đơn chất, đặc biệt ở những người có đột biến SDHB, trong đó có liên quan với tĕng methyl hóa đoạn mồi của O6-methylguanine-DNA methyltransferase [MGMT]; temozolomide kết hợp thalidomide hoặc capecitabine; gemcitabine đơn chất; gemcitabine kết hợp docetaxel hoặc paclitaxel; doxorubicin kết hợp streptozocin; hoặc paclitaxel đơn chất. Liệu pháp nhắm đích Sunitinib là thuốc ức chế đa tyrosine kinase receptors, gồm VEGFRs 1 và 2, PDGFR beta, KIT, FLT3, và RET. Các báo cáo ban đầu cho thấy lợi ích của sunitinib ở bệnh nhân có pheochromocytoma/ paraganglioma ác tính: Trong một báo cáo 3 bệnh nhân paraganglioma di cĕn điều trị sunitinib (50mg mỗi ngày, 4 tuần uống, 2 tuần nghỉ), 1 ca đạt đáp ứng gần hoàn toàn, 2 ca đáp ứng một phần, 2 ca tiếp tục có lợi ích sau 40 tuần. Loạt ca hồi cứu lớn nhất gồm 17 bệnh nhân pheochromocytoma/ paraganglioma giao cảm di cĕn tiến triển điều trị sunitinib đơn chất. 4 ca có di cĕn giới hạn tại xương, đánh giá đáp ứng trong nhóm này chỉ gồm (18)F-fluorodeoxyglucose PET (FDG-PET)/(CT). Trong 14 bệnh nhân đánh giá được, có 3 ca đáp ứng một phần (21%), 5 ca bệnh ổn định (36%). Trung vị sống còn không tiến triển là 4,1 tháng. Trong 14 ca cao huyết áp thứ phát do tiết catecholamine quá mức, 6 ca cuối cùng có cải thiện và điều này liên quan với giảm liều và hoặc số thuốc hạ áp; tuy nhiên, huyết áp lúc đầu xấu hơn trong 3 tháng sau khi bắt đầu sunitinib ở 5 ca. Bên cạnh cao huyết áp, tác dụng phụ thường gặp nhất là tiêu chảy, hội chứng bàn tay-chân, đau miệng và mệt mỏi. Trung vị sống còn toàn bộ là 27 tháng. Thông tin khác về lợi ích của sunitinib có trong nghiên cứu nhãn mở sử dụng sunitinib ở bệnh nhân pheochromocytoma/ paraganglioma ác tính tiến triển (nghiên cứu SNIPP) thực hiện do phối hợp của Đại học Toronto ở 3 trung tâm Canada và 1 ở Hà Lan (NCT00843037), và 1 nghiên cứu ngẫu nhiên có nhóm chứng tại châu Âu phase II sử dụng sunitinib (FIRST-MAPPP trial). Mặc dù cao huyết áp là một tác dụng phụ thường gặp nhất của sunitinib, thuốc có thể được sử dụng an toàn ở bệnh nhân pheochromocytoma và paragangliomas kèm với theo dõi sát và điều chỉnh liều thuốc hạ áp. Sunitinib nên được bắt đầu chỉ sau khi huyết áp bình thường hoặc gần hình thường đạt được với kết hợp chẹn alpha- và beta-adrenergic. Sau khi bắt đầu điều trị, cần thêm các thuốc hạ áp hoặc tĕng liều. Pazopanib, ức chế VEGFRs 1, 2, và 3 khác, cũng như KIT và PDGFR, cũng đang được nghiên cứu ở bệnh nhân pheochromocytoma/ paraganglioma ác tính (NCT01340794). Cabozantinib, ức chế đa kinase đích VEGFR2 và c-MET, được chấp thuận sử dụng ở bệnh nhân carcinom tế bào thận tiến xa, và đang được nghiên cứu ở bệnh nhân pheochromocytoma/ paraganglioma ác tính (NCT02302833). Các nghiên cứu cũng đang xem xét lợi ích của các điều trị nhắm đích khác everolimus, ức chế đường dẫn truyền mammalian target of rapamycin (mTOR). Trong một nghiên cứu ban đầu, 5/7 bệnh nhân pheochromocytoma/ paraganglioma có bệnh ổn định, mặc dù không có đáp ứng khách quan. Tóm tắt và khuyến cáo Pheochromocytomas và paragangliomas là bướu thần kinh nội tiết chế tiết catecholamine-bắt nguồn từ tế bào chromaffin của tủy thượng thận (trong trường hợp pheochromocytomas) và cận hạch tự động ngoài thượng thận (trong trường hợp paragangliomas). Paragangliomas có thể từ nền sọ và vùng cổ (nơi phần lớn không chế tiết), hoặc bên dưới vùng cổ trong ngực hoặc bụng (nơi phần lớn có chế tiết). HUYẾT HỌC - TỔNG QUÁT TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 166 Ở bệnh nhân pheochromocytoma/ paraganglioma, các khảo sát lâu dài nên được tiến hành để đánh giá ác tính. Hầu hết pheochromocytomas/ paragangliomas lành tính. Gần 10% pheochromocytomas là ác tính (được định nghĩa khi có di cĕn) so với 20-25% paragangliomas ngoài thượng thận trong khoang bụng và trung thất có chế tiết. Ở nền sọ và vùng cổ, ác tính ít gặp nhất ở bướu cuộn cảnh (jugulotympanic) (2-4%), cao hơn nhẹ cho bướu thể cảnh (4-6%), và cao nhất cho bướu thần kinh phế vị (10-19%). Trong số các bệnh nhân paragangliomas nền sọ và vùng cổ, di cĕn hầu hết giới hạn ở hạch vùng. Ngược lại, paragangliomas dưới nền sọ và vùng cổ hầu hết thường có di cĕn xa, thường nhất đến xương, gan, phổi. Trong khi sự hiện diện của di cĕn xa có tác động xấu lên tiên lượng, di cĕn không cần thiết là chống chỉ định cho phẫu thuật cắt bỏ bướu nguyên phát, đặc biệt nếu di cĕn có thể cắt được. Tiên lượng của pheochromocytoma/ paraganglioma di cĕn thay đổi. Sống còn lâu dài có thể có ngay cả khi có di cĕn, nhưng tỉ lệ sống còn 5 nĕm ≤50 percent. Điều trị Các triệu chứng do thừa catecholamine nên được kiểm soát bằng sử dụng kết hợp chẹn alpha- và beta-adrenergic. Chúng tôi đề nghị cắt bỏ cả sang thương nguyên phát và di cĕn, nếu có thể (Grade 2C). Ngay cả nếu việc lấy đi hoàn toàn không thể đạt được, phẫu thuật giảm tổng khối bướu không hoàn toàn có thể cải thiện triệu chứng, giảm tiết hormone, ngĕn ngừa các biến chứng liên quan đến bướu tại vị trí giải phẫu khủng hoảng, và cải thiện đáp ứng với các điều trị sau đó. Tuy nhiên, không có bằng chứng phẫu thuật giảm tổng khối bướu kéo dài sống còn ở bệnh nhân có di cĕn xa. Kiểm soát trước mổ tác động của kích thích do thừa adrenergic là cần thiết sử dụng kết hợp chẹn alpha- và beta. Ngoài ra, điều trị trước và trong lúc mổ với khối bướu lan rộng đòi hỏi phòng ngừa cao huyết áp trong lúc mổ. Nhiều loại điều trị tại chỗ có sẵn nếu phẫu thuật không thuận lợi Với bệnh nhân không phù hợp cho phẫu thuật, kiểm soát tại chỗ triệu chứng khối bướu, đặc biệt di cĕn xương gây đau, có thể đạt được với xạ ngoài (EBRT). Đốt xuyên qua da sang thương di cĕn tại nhiều vị trí, bao gồm mô mềm, xương và gan, có thể thực hiện an toàn sử dụng đốt bằng sóng cao tần, áp lạnh, chích cồn nếu chú ý cẩn thận việc kiểm soát quanh thủ thuật. Chọn lựa khác để kiểm soát tại chỗ cho bệnh nhân chỉ di cĕn gan đa nốt không thích hợp phẫu thuật hoặc các phương pháp đốt là hóa nghẽn mạch qua đường động mạch (TACE). Bất kỳ loại điều trị tại chỗ có thể gây ra tiết ồ ạt catecholamine và cơn khủng hoảng cao huyết áp, chuẩn bị quanh thủ thuật là cần thiết. Gần 60% bệnh nhân pheochromocytomas/ paragangliomas hấp thu meta-iodobenzylguanidine (MIBG) xác định bằng xạ hình 123I-MIBG. Với bệnh nhân có bướu MIBG+ không cắt được, bệnh tiến triển không thể can thiệp kiểm soát tại chỗ tại vùng, hoặc có gánh nặng bướu lớn với di cĕn xương ít vị trí, chúng tôi đề xuất 131I-MIBG hơn là hóa trị trong điều trị bước một. (Grade 2C). Không có đồng thuận về hiệu quả của 131I-MIBG phân liều cao so với trung bình, và các khuyến cáo đặc biệt về liều và kế hoạch điều trị tốt nhất chưa có. Đối với bệnh nhân có bướu tiến triển nhanh hoặc ưu thế khu trú ở xương, hóa trị được chọn lựa nhiều hơn ngay khi xạ hình 123I-MIBG (+). Mặc dù phác đồ tối ưu không có, chúng tôi gợi ý kết hợp cyclophosphamide, vincristine, và dacarbazine (Grade 2C). Các báo cáo ban đầu cho thấy sunitinib có thể có hiệu quả, cần có các nghiên cứu khác cung cấp thông tin về tính khả dụng của nó cũng như các ức chế đa kinase khác; cao huyết áp là tác dụng phụ chiếm ưu thế. Sunitinib có thể được sử dụng an toàn, ngay cả với bệnh nhân có triệu chứng do thừa catecholamine cần theo dõi sát và điều chỉnh cao huyết áp. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Young WF Jr. Adrenal causes of hypertension: pheochromocytoma and primary aldosteronism. Rev Endocr Metab Disord 2007; 8:309. 2. Pacak K, Linehan WM, Eisenhofer G, et al. Recent advances in genetics, diagnosis, localization, and treatment of pheochromocytoma. Ann Intern Med 2001; 134:315. 3. Baguet JP, Hammer L, Mazzuco TL, et al. Circumstances of discovery of phaeochromocytoma: a retrospective study of 41 consecutive patients. Eur J Endocrinol 2004; 150:681. 4. Bravo EL. Pheochromocytoma: new concepts and future trends. Kidney Int 1991; 40:544. HUYẾT HỌC - TỔNG QUÁT TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 167 5. Fogarty J, Engel C, Russo J, et al. Hypertension and pheochromocytoma testing: The association with anxiety disorders. Arch Fam Med 1994; 3:55. 6. Lenders JW, Duh QY, Eisenhofer G, et al. Pheochromocytoma and paraganglioma: an endocrine society clinical practice guideline. J Clin Endocrinol Metab 2014; 99:1915. 7. Butz JJ, Weingarten TN, Cavalcante AN, et al. Perioperative hemodynamics and outcomes of patients on metyrosine undergoing resection of pheochromocytoma or paraganglioma. Int J Surg 2017; 46:1. 8. Combemale F, Carnaille B, Tavernier B, et al. [Exclusive use of calcium channel blockers and cardioselective beta-blockers in the pre- and per- operative management of pheochromocytomas. 70 cases]. Ann Chir 1998; 52:341. 9. Steinsapir J, Carr AA, Prisant LM, Bransome ED Jr. Metyrosine and pheochromocytoma. Arch Intern Med 1997; 157:901. 10. McBride JF, Atwell TD, Charboneau WJ, et al. Minimally invasive treatment of metastatic pheochromocytoma and paraganglioma: efficacy and safety of radiofrequency ablation and cryoablation therapy. J Vasc Interv Radiol 2011; 22:1263. 11. Power AH, Bower TC, Kasperbauer J, et al. Impact of preoperative embolization on outcomes of carotid body tumor resections. J Vasc Surg 2012; 56:979. 12. Pacak K, Eisenhofer G, Ilias I. Diagnosis of pheochromocytoma with special emphasis on MEN2 syndrome. Hormones (Athens) 2009; 8:111.
File đính kèm:
khao_sat_cac_dac_diem_dich_te_hoc_lam_sang_benh_hoc_va_dieu.pdf

