Kháng sinh trong đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính: từ dữ liệu nghiên cứu tới các hướng dẫn chẩn đoán và điều trị

ĐẠI CƯƠNG VỀ ĐỢT CẤP COPD VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN CHỈ ĐỊNH ĐIỀU TRỊ KHÁNG SINH

Đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD) là nguyên nhân hàng đầu khiến bệnh nhân nhập viện điều trị. Tỷ lệ tử vong của các bệnh nhân COPD tăng rõ rệt mỗi khi có đợt cấp. Các nghiên cứu đều cho thấy mỗi khi có đợt cấp, tình trạng sức khỏe chung của bệnh nhân xấu đi rõ rệt, nguy cơ xuất hiện các đợt cấp tiếp theo gia tăng, và điểm chất lượng cuộc sống của các bệnh nhân xấu đi.

Có nhiều cách định nghĩa về đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (1-3), tuy nhiên, tất cả các định nghĩa này đều thống nhất ở hai điểm: (1) Tình trạng nặng lên của các triệu chứng hàng ngày của bệnh nhân (như khó thở tăng, ho tăng, khạc đờm tăng và/ hoặc thay đổi màu sắc của đờm); (2) Cần sự thay đổi điều trị thông thường (như việc gia tăng số lần dùng, liều dùng, hoặc bổ sung thêm thuốc giãn phế quản, kháng sinh, và/ hoặc corticoid)

pdf 6 trang phuongnguyen 160
Bạn đang xem tài liệu "Kháng sinh trong đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính: từ dữ liệu nghiên cứu tới các hướng dẫn chẩn đoán và điều trị", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Kháng sinh trong đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính: từ dữ liệu nghiên cứu tới các hướng dẫn chẩn đoán và điều trị

Kháng sinh trong đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính: từ dữ liệu nghiên cứu tới các hướng dẫn chẩn đoán và điều trị
 Tổng quan
37
Hô hấp số 16/2018
ĐẠI CƯƠNG VỀ ĐỢT CẤP COPD VÀ MỘT 
SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN CHỈ ĐỊNH ĐIỀU 
TRỊ KHÁNG SINH
Đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD) là 
nguyên nhân hàng đầu khiến bệnh nhân nhập viện 
điều trị. Tỷ lệ tử vong của các bệnh nhân COPD 
tăng rõ rệt mỗi khi có đợt cấp. Các nghiên cứu 
đều cho thấy mỗi khi có đợt cấp, tình trạng sức 
khỏe chung của bệnh nhân xấu đi rõ rệt, nguy cơ 
xuất hiện các đợt cấp tiếp theo gia tăng, và điểm 
chất lượng cuộc sống của các bệnh nhân xấu đi. 
Có nhiều cách định nghĩa về đợt cấp bệnh 
phổi tắc nghẽn mạn tính (1-3), tuy nhiên, tất cả 
các định nghĩa này đều thống nhất ở hai điểm: 
(1) Tình trạng nặng lên của các triệu chứng hàng 
ngày của bệnh nhân (như khó thở tăng, ho tăng, 
khạc đờm tăng và/ hoặc thay đổi màu sắc của 
đờm); (2) Cần sự thay đổi điều trị thông thường 
(như việc gia tăng số lần dùng, liều dùng, hoặc bổ 
sung thêm thuốc giãn phế quản, kháng sinh, và/ 
hoặc corticoid). 
Các đợt cấp COPD thường do nhiễm vi-rút, vi 
khuẩn, ô nhiễm không khí (khói thuốc lá, khói bụi 
), hoặc bệnh có thể nặng lên do các bệnh đồng 
mắc như suy tim... Tỷ lệ tử vong trong các đợt cấp 
COPD nhập viện vào khoảng 2,5%, khoảng 10% 
bệnh nhân đợt cấp có tăng CO
2
 máu. Khi bệnh 
nhân đã có chẩn đoán COPD tỷ lệ tử vong chung 
do tất cả các nguyên nhân khoảng 49% (4).
Nhiều nghiên cứu cho thấy tỷ lệ có đợt cấp 
COPD tăng dần theo mức độ nặng. Hurst JR và cs 
nghiên cứu trên 2.138 bệnh nhân COPD giai đoạn 
II đến IV, theo dõi trong 3 năm, nhận thấy tỷ lệ xuất 
hiện đợt cấp chung theo từng năm là 1,21/ đợt cấp/ 
bệnh nhân/ năm. Bệnh nhân COPD giai đoạn II có 
0,85 đợt cấp/ năm; Bệnh nhân COPD giai đoạn III 
có 1,34 đợt cấp/ năm; Và bệnh nhân COPD giai 
đoạn IV có trung bình 2 đợt cấp/ năm (5). 
Nguyên nhân gây đợt cấp COPD: 
+ Không tìm thấy nguyên nhân: 33% (2,3).
+ Các nguyên nhân thường gặp gây đợt cấp 
gồm:
- Nhiễm trùng cây khí phế quản.
- Ô nhiễm không khí (khói thuốc, tiếp xúc 
khói, bụi nghề nghiệp)
Theo Ko FW (2007), nghiên cứu trên 643 đợt 
cấp trên 373 bệnh nhân COPD, với 530 mẫu đờm 
được cấy nhận thấy (5): 13% mọc H.influenzae; 
6% mọc P.aeruginosa; 5.5% mọc S.pneumoniae.
Trong số 505 mẫu ngoáy dịch tỵ hầu kết quả 
vi khuẩn ghi nhận: 5.7% có kết quả dương tính 
với influenza A; 2.3% có kết quả dương tính với 
vi-rút hợp bào hô hấp (RSV); 0.8% influenza B; 
0.8% parainfluenza.
Một số kết quả nghiên cứu chứng minh những 
bệnh nhân đã từng có đợt cấp do P.aeruginosa 
có nguy cơ cao hơn mắc các đợt cấp tiếp theo 
(6). Một phân tích tổng hợp dữ liệu từ 6 nghiên 
cứu, với 337 đối tượng cho thấy vi khuẩn phát 
hiện được trên 29% bệnh nhân COPD ổn định 
và 54% các bệnh nhân đợt cấp COPD. Các 
chủng vi khuẩn thường gặp là: H.influenzae và 
P.aeruginosa. Những bệnh nhân có kết quả cấy 
mọc P.aeruginosa nguy cơ mắc đợt cấp COPD 
KHÁNG SINH TRONG ĐỢT CẤP BỆNH PHỔI TẮC NGHẼN MẠN 
TÍNH: TỪ DỮ LIỆU NGHIÊN CỨU TỚI CÁC HƯỚNG DẪN CHẨN 
ĐOÁN VÀ ĐIỀU TRỊ
PGS.TS. NGUYỄN THANH HỒI
 Tổng quan
38
Hô hấp số 16/2018
cao hơn rõ rệt (OR: 11,1; 95% CI: 1,17-105,82). 
Như vậy, bên cạnh tần suất các đợt cấp, rối loạn 
thông khí tắc nghẽn mức độ nặng và rất nặng, tiền 
sử nhiễm P.aeruginosa cũng là yếu tố làm tăng 
tần suất các đợt cấp COPD.
Việc phân lập được các chủng vi khuẩn mới 
có liên quan nhiều hơn tới sự xuất hiện các đợt 
cấp COPD (7). Vi khuẩn là nguyên nhân hàng đầu 
gây các đợt cấp COPD. Khi có bằng chứng gợi ý 
căn nguyên gây đợt cấp do vi khuẩn bệnh nhân 
thường được chỉ định dùng kháng sinh. Việc sử 
dụng lặp lại các đợt kháng sinh cho điều trị đợt 
cấp có thể dẫn đến việc chọn lọc xuất hiện các 
chủng vi khuẩn mới trên các bệnh nhân COPD 
mỗi khi có đợt cấp. Một nghiên cứu tiến hành trên 
81 bệnh nhân COPD. Trong nghiên cứu này bệnh 
nhân được khám lại hàng tháng, trong 56 tháng, 
hoặc bất cứ khi nào có triệu chứng gợi ý đợt cấp 
COPD. Các đợt khám đều được lấy đờm để làm 
xét nghiệm vi sinh. Các chủng vi khuẩn được chia 
thành nhóm đã được phát hiện trước đây (374 đợt 
cấp, trong tổng số 1.975 lần khám), và chủng vi 
khuẩn mới được phát hiện (302 đợt cấp trong tổng 
số 1.655 lần khám). Kết quả cho thấy: 
- Tần suất đợt cấp ở nhóm phân lập được 
vi khuẩn cao hơn nhóm không phân lập được vi 
khuẩn (23,6% so với 18%; P < 0,001, RR: 1,44);
- Những bệnh nhân có kết quả phân lập vi 
khuẩn mới có tần suất đợt cấp cao hơn so với 
nhóm phân lập được vi khuẩn đã từng phát hiện 
(33% so với 15,4%; p < 0,001; RR: 2,15);
Như vậy có thể nhận thấy bệnh nhân đợt cấp 
COPD có tần suất xuất hiện đợt cấp cao hơn nếu 
trước đây đã phân lập được vi khuẩn gây bệnh, 
hoặc khi ghi nhận chủng vi khuẩn mới.
Đờm có mầu, vàng, hoặc xanh, có liên quan 
tới việc phân lập được vi khuẩn ở các bệnh nhân 
đợt cấp COPD (8). Đờm màu xanh, vàng, đờm mủ 
là dấu hiệu góp phần quan trọng trong chỉ định 
kháng sinh ở các bệnh nhân có đợt cấp COPD 
(1-3). Một nghiên cứu hồi cứu (8), phân tích dữ liệu 
của các thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên, với tổng 
số 4.089 bệnh nhân có đợt cấp COPD. Các bệnh 
nhân đều được cấy đờm, nhuộm Gram và cấy. Kết 
quả nhận thấy:
- 46,4% bệnh nhân có kết quả vi khuẩn dương 
tính;
- 58,9% bệnh nhân đờm màu xanh có kết quả 
vi khuẩn dương tính;
- 45,5% bệnh nhân đờm màu vàng có kết quả 
vi khuẩn dương tính;
- 39% bệnh nhân đờm đục có kết quả vi khuẩn 
dương tính;
Trong khi đó, chỉ 18% bệnh nhân có đờm 
màu trắng có kết quả vi khuẩn dương tính. So với 
đờm màu trắng, đờm màu xanh, vàng có độ nhạy 
phát hiện vi khuẩn đạt 94,7%, nhưng độ đặc hiệu 
trong phát hiện vi khuẩn chỉ đạt 15%; 
Bên cạnh việc đánh giá mầu đàm trong đợt 
cấp, xét nghiệm procalcitonin máu cũng giúp 
giảm chỉ định kháng sinh so với sử dụng hướng 
dẫn thường quy (9). Trong một nghiên cứu đánh 
giá vai trò hướng dẫn điều trị kháng sinh của 
procalcitonin (9) cho kết quả trên 226 bệnh nhân 
nhập viện vì đợt cấp COPD, được chia ngẫu 
nhiên thành nhóm chỉ định kháng sinh dựa trên 
procalcitonin, so với nhóm chỉ định kháng sinh 
dựa theo khuyến cáo chuẩn hiện nay. Việc chỉ 
định kháng sinh dựa theo procalcitonin được chia 
nhóm như sau: 
- Không chỉ định kháng sinh khi procalcitonin 
< 0,1mcg/L;
- Chỉ định dùng kháng sinh khi procalcitonin 
> 0,25 mcg/L (ng/mL);
- Trường hợp procalcitonin từ 0,1 - 0,25mcg/L: 
Chỉ định kháng sinh hay không còn dựa thêm vào 
tình trạng lâm sàng của bệnh nhân. 
Trường hợp không dùng kháng sinh sẽ được 
xét nghiệm lại procalcitonin sau 6-24 giờ. Kết 
quả cho thấy, kháng sinh được chỉ định chỉ 40% 
khi dựa theo khuyến cáo dùng kháng sinh theo 
procalcitonin. Trong khi tỷ lệ dùng kháng sinh 
 Tổng quan
39
Hô hấp số 16/2018
là 72% khi chỉ định kháng sinh theo khuyến cáo 
chuẩn hiện nay. Ở cả hai nhóm này không thấy 
có sự khác biệt về tỷ lệ thành công trên lâm sàng, 
thời gian nằm viện trung bình và nguy cơ nhập 
khoa hồi sức tích cực.
CÁC DỮ LIỆU VỀ KHÁNG SINH TRONG 
ĐỢT CẤP COPD
Chọn đường dùng kháng sinh: 
Kháng sinh đường tĩnh mạch giúp giảm thất bại 
điều trị, giảm tỷ lệ tử vong ở các bệnh nhân có 
đợt cấp COPD điều trị tại khoa hồi sức, nhưng 
không khác biệt so với kháng sinh đường uống 
trên những bệnh nhân đợt cấp COPD điều trị tại 
các khoa nội (10-12).
Một phân tích tiến hành trên 2.068 bệnh 
nhân có đợt cấp COPD, dữ liệu thu thập từ 6 thử 
nghiệm, tiến hành trên các bệnh nhân điều trị nội 
trú, một thử nghiệm trên các bệnh nhân điều trị tại 
khoa hồi sức và 9 nghiên cứu tại cộng đồng (10). 
Kết quả cho thấy: 
- Tại khoa Hồi sức cấp cứu: kháng sinh đường 
tĩnh mạch giúp giảm thất bại điều trị trong thời gian 
theo dõi 4 tuần (RR: 0,71; 95% CI: 0,62-0,81), và 
giảm tỷ lệ tử vong (OR 0,21; 95% CI: 0,06 – 0,72);
- Tại khoa nội chung: không ghi nhận sự khác 
biệt về tỷ lệ tử vong trong 4 nghiên cứu thực hiện 
trên 531 bệnh nhân điều trị tại khoa nội chung.
Như vậy có thể nhận thấy với những bệnh 
nhân có đợt cấp nặng việc dùng kháng sinh đường 
tĩnh mạch là cần thiết, với những bệnh nhân có 
đợt cấp mức độ nhẹ, hoặc trung bình có thể chỉ 
cần dùng kháng sinh đường uống là đủ.
Vai trò của kháng sinh với mức độ nặng của 
đợt cấp COPD: 
Kháng sinh giúp giảm rõ rệt tỷ lệ thất bại điều 
trị và tỷ lệ tử vong trên các bệnh nhân có đợt 
cấp COPD nặng, nhưng có ít vai trò trên những 
trường hợp có đợt cấp COPD nhẹ tới trung bình (13) . 
Puhan MA và cs (13) tổng hợp kết quả tử 13 nghiên 
cứu ngẫu nhiên, bệnh chứng về vai trò của kháng 
sinh trên 1.557 bệnh nhân có đợt cấp COPD được 
chia thành đợt cấp nặng khi cần điều trị nội trú, 
những trường hợp có thể điều trị ngoại trú được 
xếp thành đợt cấp mức độ nhẹ tới trung bình. Kết 
quả cho thấy kháng sinh không làm giảm thất bại 
điều trị ở các bệnh nhân có đợt cấp mức độ nhẹ 
tới trung bình (OR 1,09; 95% CI 0,75–1,59). Với 
những bệnh nhân có đợt cấp nặng (điều trị nội trú) 
tỷ lệ thất bại điều trị giảm rõ rệt (OR 0,25; 95% CI 
0,16–0,39). Vollenweider DJ và cộng sự (2012) 
(14) khi tổng hợp dữ liệu của 16 nghiên cứu về vai 
trò của kháng sinh trong điều trị đợt cấp COPD 
cho thấy vai trò rất rõ ràng của kháng sinh trong 
điều trị đợt cấp COPD nhẹ tới trung bình (điều trị 
ngoại trú) và đợt cấp COPD nặng. Với tất cả các 
nhóm, kháng sinh giúp giảm tỷ lệ thất bại điều trị, 
rút ngắn thời gian nằm viện.
Kháng sinh giúp giảm rõ rệt tỷ lệ tử vong, 
thông khí nhân tạo và tái nhập viện vì đợt cấp ở 
những bệnh nhân đợt cấp COPD điều trị tại bệnh 
viện (15). Nghiên cứu hồi cứu dữ liệu từ 84.621 
bệnh nhân ≥ 40 tuổi, nhập viện vì đợt cấp COPD, 
theo dõi trong 30 ngày, 79% bệnh nhân dùng từ 2 
kháng sinh trở lên. Chia bệnh nhân làm hai nhóm 
có và không dùng kháng sinh. Kết quả cho thấy 
nhóm dùng kháng sinh có giảm rõ rệt tỷ lệ thông 
khí nhân tạo, giảm tỷ lệ tử vong, và giảm tái nhập 
viện vì đợt cấp COPD (P < 0,001) (15).
So sánh hiệu quả của các nhóm kháng sinh 
trong điều trị đợt cấp COPD:
Trong một nghiên cứu RCT thực hiện trên 310 
bệnh nhân, tuổi ≥ 40, có đợt cấp COPD trung bình 
tới nhẹ (16), bệnh nhân được chia ngẫu nhiên dùng 
amoxicillin-clavulanate hoặc placebo, các tác giả 
cho thấy hiệu quả điều trị ở nhóm có 2 hoặc 3 
triệu chứng cải thiện rõ rệt so với placebo, trong 
khi không thấy có cải thiện lâm sàng so với placebo 
ở nhóm chỉ có 1 triệu chứng đợt cấp. Như vậy có 
thể thấy kháng sinh (amoxicillin – clavulanate) 
giúp tăng hiệu quả điều trị ở các bệnh nhân đợt 
cấp COPD mức độ trung bình (có hai trong ba 
triệu chứng khó thở tăng, khạc đờm tăng, đờm 
mủ), nhưng không có tác dụng với bệnh nhân chỉ 
có một triệu chứng nêu trên (16). 
 Tổng quan
40
Hô hấp số 16/2018
Nhằm đánh giá vai trò của amoxicillin, 
amoxicillin/ acid clavulanate, azithromycin, 
Laopaiboon M và cs (năm 2015) (17) tiến hành 
phân tích gộp dữ liệu của 15 nghiên cứu so sánh 
hiệu quả của azithromycin, amoxicillin, và amoxicillin 
– acid clavulanate trên 2.496 bệnh nhân có đợt 
cấp viêm phế quản mạn tính, hoặc viêm phổi. Kết 
quả cho thấy không có sự khác biệt về tỷ lệ thất 
bại lâm sàng, tỷ lệ sạch vi khuẩn giữa các nhóm 
kháng sinh. Năm 2007, Dimopoulos G và cs (18) đã 
thực hiện phân tích dữ liệu từ 12 nghiên cứu về 
chọn kháng sinh trong điều trị các bệnh nhân có 
đợt cấp viêm phế quản mạn. Các kết quả cho 
thấy kháng sinh nhóm 2 (gồm amoxicillin – acid 
clavulanate, macrolide, cephalosporin thế hệ 2,3 
fluoroquinolone) có hiệu quả lâm sàng hơn kháng 
sinh nhóm 1 (amoxicillin, amoxicillin, ampicillin, 
pivampicillin, trimethoprim/sulfamethoxazole, 
doxycycline). Theo Wilson R và cộng sự (2012) 
(19), khi nghiên cứu trên 1.372 bệnh nhân ≥ 60 
tuổi, có chẩn đoán đợt cấp COPD, chia nhóm 
ngẫu nhiên điều trị moxifloxacin 400 mg, uống 
ngày 1 lần, so với amoxicillin-clavulanate 875 
mg/125 mg, uống ngày 3 lần, trong thời gian 7 
ngày cho thấy hai nhóm điều trị không ghi nhận 
sự khác biệt về tỷ lệ thất bại trong điều trị (20,6% 
so với 22% theo thứ tự), không có sự khác biệt về 
tỷ lệ các tác dụng ngoại ý trong điều trị (32,5% 
so với 32.3%). Năm 2003 Amsden GW và cs (20) 
nghiên cứu so sánh vai trò của azithromycin và 
levofloxacin trong điều trị đợt cấp viêm phế quản 
mạn tính do vi khuẩn, trên 235 bệnh nhân điều 
trị ngoại trú. Kết quả cho thấy azithromycin và 
levofloxacin có kết quả điều trị tương tự nhau, 
xét đồng thời trên các tiêu chí tỷ lệ điều trị thành 
công ở ngày thứ 4, tỷ lệ điều trị thành công ở ngày 
thứ 24, và tỷ lệ diệt vi khuẩn. Như vậy, bên cạnh 
amoxicillin/ acid clavulanate, macrolide, thì các 
kháng sinh nhóm fluoroquinolone cũng hiệu quả 
trong điều trị các bệnh nhân có đợt cấp COPD. 
Tuy nhiên, như phân tích của Miravitlles M và cs 
(năm 2004) (21) không nên tiếp tục các thử nghiệm 
lâm sàng đánh giá hiệu quả kháng sinh tương 
đương trong đợt cấp COPD nữa do các thiết kế 
nghiên cứu không chuẩn bệnh nhân đầu vào, lẫn 
lộn giữa đợt cấp viêm phế quản mạn tính, đợt cấp 
COPD và viêm phổi nên sẽ không thể tạo ra được 
sự tương đồng khi so sánh hiệu quả kháng sinh. 
Thời gian dùng kháng sinh trong điều trị đợt 
cấp COPD:
Thời gian dùng kháng sinh cho những bệnh nhân 
đợt cấp COPD trung bình, điều trị ngoại trú 5 
ngày là đủ (22). Tổng hợp dữ liệu từ 21 nghiên cứu 
so sánh về thời gian dùng kháng sinh ≤5 ngày 
và nhóm bệnh nhân có đợt cấp viêm phế quản 
mạn tính và COPD nhẹ - trung bình dùng kháng 
sinh >5 ngày cho điều trị ngoại trú ở 10.698 bệnh 
nhân, El Moussaoui R và cs (23) cho thấy cả hai 
nhóm có hiệu quả điều trị trên lâm sàng tương 
đương nhau (77.2% so với 77.4%; OR 0,99; 95% 
CI: 0,9-1,08); tỷ lệ thành công về vi khuẩn học 
tương đương nhau (79,9% so với 79,5% (OR 
1,05; 95% CI: 0,87-1,26). 
CÁC KHUYẾN CÁO SỬ DỤNG KHÁNG 
SINH TRONG ĐIỀU TRỊ ĐỢT CẤP COPD
Theo GOLD 2018 (3): Kháng sinh khi được chỉ 
định cho điều trị đợt cấp COPD có vai trò giúp 
rút ngắn thời gian điều trị, giảm nguy cơ tái 
phát, và giảm thời gian nằm viện. Kháng sinh 
chỉ nên sử dụng cho các bệnh nhân: (1) Có đủ 
cả ba triệu chứng (khó thở tăng, tăng thể tích 
đờm, và tăng đờm mủ); (2) Có hai triệu chứng, 
nhưng một trong hai triệu chứng là tăng đờm 
mủ; (3) Các bệnh nhân có chỉ định thở máy. 
Thời gian dùng kháng sinh: thường từ 5-7 ngày 
là đủ. Kháng sinh được chọn phù hợp với mô 
hình vi khuẩn học ở địa phương. Các kháng 
sinh điều trị ban đầu thường là amoxillin/ acid 
clavulanic, macrolide hoặc tetracycline. Với 
những bệnh nhân có đợt cấp thường xuyên, tắc 
nghẽn đường thở nặng, và/hoặc các đợt cấp cần 
thông khí nhân tạo cần lưu ý chọn các kháng 
sinh phổ rộng có tác dụng với vi khuẩn Gram 
âm, kháng thuốc.
Theo ATS/ERS 2017 (24): Nên xem xét sử dụng 
kháng sinh ở bệnh nhân có đợt cấp COPD. Luôn 
 Tổng quan
41
Hô hấp số 16/2018
cân nhắc tới khả năng kháng thuốc khi kê đơn 
điều trị.
Theo UpToDate 2018: Việc dùng kháng sinh cho 
bệnh nhân có đợt cấp COPD đến khám tại phòng 
khám cấp cứu như sau (25):
- Đợt cấp COPD nhẹ: Không dùng kháng sinh.
- Đợt cấp COPD mức độ trung bình tới 
nặng, không có yếu tố nguy cơ: Macrolide thế 
hệ mới (azithromycin, clarithromycin); hoặc 
Cephalosporin (cefuroxime, cepodoxime, 
cefdinir); hoặc Doxycycline; hoặc Trimethoprim/ 
Sulfamethoxazone.
- Trường hợp đã dùng kháng sinh trong 3 
tháng trước: nên chọn nhóm thuốc khác.
- Đợt cấp COPD mức độ trung bình tới nặng, 
kèm theo 1 hoặc nhiều yếu tố nguy cơ (tuổi > 65; 
FEV
1
 <50%; có 2 đợt cấp trong 12 tháng trước đó; 
có bệnh lý tim mạch kèm theo): Fluoroquinolone 
(moxifloxacin, levofloxacin); hoặc Amoxillin/ acid 
clavulanic. Nếu có nguy cơ nhiễm P.aeruginosa sử 
dùng ciprofloxacin và cấy đờm. Các yếu tố nguy 
cơ nhiễm P. aeruginosa gồm: (1) COPD nặng; (2) 
Có phân lập được P.aeruginosa ở lần khám trước; 
(3) Có giãn phế quản kèm theo; (4) Thường dùng 
kháng sinh; (5) Thường xuyên nhập viện; (6) Có 
dùng corticoid toàn thân.
Cũng theo UpToDate 2018 (25): Với những 
bệnh nhân có đợt cấp COPD nặng cần nhập viện, 
việc dùng kháng sinh được khuyến cáo như sau:
- Bệnh nhân có kèm một hoặc nhiều yếu tố 
nguy cơ, không kèm yếu tố nguy cơ nhiễm P. 
aeruginosa: Levofloxacin 750mg uống hoặc tĩnh 
mạch hàng ngày; hoặc Moxifloxacin uống hoặc 
tĩnh mạch; hoặc Ceftriaxone tĩnh mạch; hoặc 
Cefotaxime tĩnh mạch.
- Trường hợp bệnh nhân có kèm một hoặc 
nhiều yếu tố nguy cơ, và có kèm yếu tố nguy cơ 
nhiễm P.aeruginosa: Lấy đờm nhuộm Gram và 
cấy, đồng thời dùng ngay kháng sinh Levofloxacin 
750mg uống hoặc tĩnh mạch hàng ngày; hoặc 
Cefepime tĩnh mạch; hoặc Ceftazidime tĩnh 
mạch; hoặc Piperacillin – Tazobactam 4,5g tĩnh 
mạch mỗi 6h.
Tài liệu tham khảo 
1. Anthonisen NR MJ, Warren CPW, Hershfield ES, 
Harding GK, Nelson NA, (1987), Antibiotic therapy 
in exacerbations of chronic obstructive pulmonary 
disease, Ann Intern Med, 106, pp. 196-204
2. ATS/ERS (2004), Standard for diagnosis and 
management of patiens with COPD, Am. J. Respir 
Crit Care Med, 152, pp. 8-222. 
3. Global Initiative for Chronic Obstructive Lung 
Disease (GOLD). Global strategy for the diagnosis, 
management, and prevention of COPD. GOLD 
2018. 
4. Patil SP, Krishnan JA, Lechtzin N, Diette GB. In-
hospital mortality following acute exacerbations 
of chronic obstructive pulmonary disease. Arch 
Intern Med. 2003 May 26;163(10):1180-6. 
5. Hurst JR, Vestbo J, Anzueto A, et al. Susceptibility 
to exacerbation in chronic obstructive pulmonary 
disease. N Engl J Med. 2010 Sep 16;363(12):1128-38. 
6. Ko FW, Ip M, Chan PK, Fok JP, Chan MC, Ngai 
JC, Chan DP, Hui DS. A 1-year prospective study 
of the infectious etiology in patients hospitalized
with acute exacerbations of COPD. Chest. 2007 
Jan;131(1):44-52. 
7. Anthonisen NR. Bacteria and exacerbations of 
chronic obstructive pulmonary disease. N Engl J 
Med. 2002 Aug 15;347(7):526-7. 
8. Miravitlles M, Kruesmann F, Haverstock D, 
Perroncel R, Choudhri SH, Arvis P. Sputum 
colour and bacteria in chronic bronchitis 
exacerbations: a pooled analysis. Eur Respir J. 
2012 Jun;39(6):1354-60. 
9. Niewoehner DE. Procalcitonin level-guided 
treatment reduced antibiotic use in exacerbations 
of COPD. ACP J Club. 2007 May-Jun;146(3):57. 
10. Vollenweider DJ, Jarrett H, Steurer-Stey CA, 
Garcia-Aymerich J, Puhan MA. Antibiotics for 
exacerbations of chronic obstructive pulmonary 
disease. Cochrane Database Syst Rev. 2012. 
11. Quon BS, Gan WQ, Sin DD. Contemporary 
management of acute exacerbations of COPD: 
a systematic review and metaanalysis. Chest. 
2008;133(3):756-66. 
 Tổng quan
42
Hô hấp số 16/2018
12. Peters J. Review: systemic corticosteroids, 
antibiotics, and noninvasive positive pressure 
ventilation are effective in acute COPD. ACP J 
Club. 2008. 19;149(2):13. 
13. Puhan MA, Vollenweider D, Latshang T, Steurer 
J, Steurer-Stey C. Exacerbations of chronic 
obstructive pulmonary disease: when are 
antibiotics indicated? A systematic review. Respir 
Res 2008;9:81 
14. Vollenweider DJ, Jarrett H, Steurer-Stey CA, 
Garcia-Aymerich J, Puhan MA. Antibiotics for 
exacerbations of chronic obstructive pulmonary 
disease (Review). Database of Systematic 
Reviews. 2012 
15. Rothberg MB, Pekow PS, Lahti M, Brody O, 
Skiest DJ, Lindenauer PK. Antibiotic therapy and 
treatment failure in patients hospitalized for acute 
exacerbations of chronic obstructive pulmonary 
disease. JAMA. 2010; 303(20):2035-42. 
16. Llor C, Moragas A, Hernández S, Bayona C, 
Miravitlles M. Efficacy of antibiotic therapy for 
acute exacerbations of mild to moderate chronic 
obstructive pulmonary disease. Am J Respir Crit 
Care Med. 2012 Oct 15;186(8):716-23. 
17. Laopaiboon M, Panpanich R, Swa Mya K. 
Azithromycin for acute lower respiratory tract 
infections. Cochrane Database Syst Rev. 2015 
Mar 8;(3):CD001954. doi: 10.1002/14651858.
CD001954.pub4. 
18. Dimopoulos G, Siempos II, Korbila IP, Manta 
KG, Falagas ME. Comparison of first-line with 
second-line antibiotics for acute exacerbations of. 
chronic bronchitis: a metaanalysis of randomized 
controlled trials. Chest. 2007 Aug;132(2):447-55
19. Wilson R, Anzueto A, Miravitlles M, et al. Moxifloxacin 
versus amoxicillin/clavulanic acid in outpatient 
acute exacerbations of COPD: MAESTRAL results. 
Eur Respir J. 2012 Jul;40(1):17-27. 
20. Amsden GW, Baird IM, Simon S, Treadway G. 
“Efficacy and safety of azithromycin vs levofloxacin 
in the outpatient treatment of acute bacterial 
exacerbations of chronic bronchitis. Chest. 2003 
Mar;123(3):772-7. 
21. Miravitlles M, Torres A. No more equivalence trials 
for antibiotics in exacerbations of COPD, please. 
Chest. 2004 Mar;125(3):811-3
22. Wilson R. Short course of antibiotic treatment in 
acute exacerbations of COPD. Thorax. 2008 May; 
63(5):390-2. 
23. El Moussaoui R, Roede B M, Speelman P et 
al. Short-course antibiotic treatment in acute 
exacerbations of chronic bronchitis and COPD: 
a meta-analysis of double-blind studies. Thorax 
2008;63:415-422 
24. Wedzicha JA, Miravitlles M, Hurst JR, Calverley 
PM, et al. Management of COPD exacerbations: 
a European Respiratory Society/American 
Thoracic Society guideline. Eur Respir J. 2017 
Mar 15;49(3). 
25. Stoller J.K. Management of exacerbations of chronic 
obstructive pulmonary disease. UpToDate 2018; 

File đính kèm:

  • pdfkhang_sinh_trong_dot_cap_benh_phoi_tac_nghen_man_tinh_tu_du.pdf