Kháng sinh trong đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính: từ dữ liệu nghiên cứu tới các hướng dẫn chẩn đoán và điều trị
ĐẠI CƯƠNG VỀ ĐỢT CẤP COPD VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN CHỈ ĐỊNH ĐIỀU TRỊ KHÁNG SINH
Đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD) là nguyên nhân hàng đầu khiến bệnh nhân nhập viện điều trị. Tỷ lệ tử vong của các bệnh nhân COPD tăng rõ rệt mỗi khi có đợt cấp. Các nghiên cứu đều cho thấy mỗi khi có đợt cấp, tình trạng sức khỏe chung của bệnh nhân xấu đi rõ rệt, nguy cơ xuất hiện các đợt cấp tiếp theo gia tăng, và điểm chất lượng cuộc sống của các bệnh nhân xấu đi.
Có nhiều cách định nghĩa về đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (1-3), tuy nhiên, tất cả các định nghĩa này đều thống nhất ở hai điểm: (1) Tình trạng nặng lên của các triệu chứng hàng ngày của bệnh nhân (như khó thở tăng, ho tăng, khạc đờm tăng và/ hoặc thay đổi màu sắc của đờm); (2) Cần sự thay đổi điều trị thông thường (như việc gia tăng số lần dùng, liều dùng, hoặc bổ sung thêm thuốc giãn phế quản, kháng sinh, và/ hoặc corticoid)
Tóm tắt nội dung tài liệu: Kháng sinh trong đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính: từ dữ liệu nghiên cứu tới các hướng dẫn chẩn đoán và điều trị
Tổng quan 37 Hô hấp số 16/2018 ĐẠI CƯƠNG VỀ ĐỢT CẤP COPD VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN CHỈ ĐỊNH ĐIỀU TRỊ KHÁNG SINH Đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD) là nguyên nhân hàng đầu khiến bệnh nhân nhập viện điều trị. Tỷ lệ tử vong của các bệnh nhân COPD tăng rõ rệt mỗi khi có đợt cấp. Các nghiên cứu đều cho thấy mỗi khi có đợt cấp, tình trạng sức khỏe chung của bệnh nhân xấu đi rõ rệt, nguy cơ xuất hiện các đợt cấp tiếp theo gia tăng, và điểm chất lượng cuộc sống của các bệnh nhân xấu đi. Có nhiều cách định nghĩa về đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (1-3), tuy nhiên, tất cả các định nghĩa này đều thống nhất ở hai điểm: (1) Tình trạng nặng lên của các triệu chứng hàng ngày của bệnh nhân (như khó thở tăng, ho tăng, khạc đờm tăng và/ hoặc thay đổi màu sắc của đờm); (2) Cần sự thay đổi điều trị thông thường (như việc gia tăng số lần dùng, liều dùng, hoặc bổ sung thêm thuốc giãn phế quản, kháng sinh, và/ hoặc corticoid). Các đợt cấp COPD thường do nhiễm vi-rút, vi khuẩn, ô nhiễm không khí (khói thuốc lá, khói bụi ), hoặc bệnh có thể nặng lên do các bệnh đồng mắc như suy tim... Tỷ lệ tử vong trong các đợt cấp COPD nhập viện vào khoảng 2,5%, khoảng 10% bệnh nhân đợt cấp có tăng CO 2 máu. Khi bệnh nhân đã có chẩn đoán COPD tỷ lệ tử vong chung do tất cả các nguyên nhân khoảng 49% (4). Nhiều nghiên cứu cho thấy tỷ lệ có đợt cấp COPD tăng dần theo mức độ nặng. Hurst JR và cs nghiên cứu trên 2.138 bệnh nhân COPD giai đoạn II đến IV, theo dõi trong 3 năm, nhận thấy tỷ lệ xuất hiện đợt cấp chung theo từng năm là 1,21/ đợt cấp/ bệnh nhân/ năm. Bệnh nhân COPD giai đoạn II có 0,85 đợt cấp/ năm; Bệnh nhân COPD giai đoạn III có 1,34 đợt cấp/ năm; Và bệnh nhân COPD giai đoạn IV có trung bình 2 đợt cấp/ năm (5). Nguyên nhân gây đợt cấp COPD: + Không tìm thấy nguyên nhân: 33% (2,3). + Các nguyên nhân thường gặp gây đợt cấp gồm: - Nhiễm trùng cây khí phế quản. - Ô nhiễm không khí (khói thuốc, tiếp xúc khói, bụi nghề nghiệp) Theo Ko FW (2007), nghiên cứu trên 643 đợt cấp trên 373 bệnh nhân COPD, với 530 mẫu đờm được cấy nhận thấy (5): 13% mọc H.influenzae; 6% mọc P.aeruginosa; 5.5% mọc S.pneumoniae. Trong số 505 mẫu ngoáy dịch tỵ hầu kết quả vi khuẩn ghi nhận: 5.7% có kết quả dương tính với influenza A; 2.3% có kết quả dương tính với vi-rút hợp bào hô hấp (RSV); 0.8% influenza B; 0.8% parainfluenza. Một số kết quả nghiên cứu chứng minh những bệnh nhân đã từng có đợt cấp do P.aeruginosa có nguy cơ cao hơn mắc các đợt cấp tiếp theo (6). Một phân tích tổng hợp dữ liệu từ 6 nghiên cứu, với 337 đối tượng cho thấy vi khuẩn phát hiện được trên 29% bệnh nhân COPD ổn định và 54% các bệnh nhân đợt cấp COPD. Các chủng vi khuẩn thường gặp là: H.influenzae và P.aeruginosa. Những bệnh nhân có kết quả cấy mọc P.aeruginosa nguy cơ mắc đợt cấp COPD KHÁNG SINH TRONG ĐỢT CẤP BỆNH PHỔI TẮC NGHẼN MẠN TÍNH: TỪ DỮ LIỆU NGHIÊN CỨU TỚI CÁC HƯỚNG DẪN CHẨN ĐOÁN VÀ ĐIỀU TRỊ PGS.TS. NGUYỄN THANH HỒI Tổng quan 38 Hô hấp số 16/2018 cao hơn rõ rệt (OR: 11,1; 95% CI: 1,17-105,82). Như vậy, bên cạnh tần suất các đợt cấp, rối loạn thông khí tắc nghẽn mức độ nặng và rất nặng, tiền sử nhiễm P.aeruginosa cũng là yếu tố làm tăng tần suất các đợt cấp COPD. Việc phân lập được các chủng vi khuẩn mới có liên quan nhiều hơn tới sự xuất hiện các đợt cấp COPD (7). Vi khuẩn là nguyên nhân hàng đầu gây các đợt cấp COPD. Khi có bằng chứng gợi ý căn nguyên gây đợt cấp do vi khuẩn bệnh nhân thường được chỉ định dùng kháng sinh. Việc sử dụng lặp lại các đợt kháng sinh cho điều trị đợt cấp có thể dẫn đến việc chọn lọc xuất hiện các chủng vi khuẩn mới trên các bệnh nhân COPD mỗi khi có đợt cấp. Một nghiên cứu tiến hành trên 81 bệnh nhân COPD. Trong nghiên cứu này bệnh nhân được khám lại hàng tháng, trong 56 tháng, hoặc bất cứ khi nào có triệu chứng gợi ý đợt cấp COPD. Các đợt khám đều được lấy đờm để làm xét nghiệm vi sinh. Các chủng vi khuẩn được chia thành nhóm đã được phát hiện trước đây (374 đợt cấp, trong tổng số 1.975 lần khám), và chủng vi khuẩn mới được phát hiện (302 đợt cấp trong tổng số 1.655 lần khám). Kết quả cho thấy: - Tần suất đợt cấp ở nhóm phân lập được vi khuẩn cao hơn nhóm không phân lập được vi khuẩn (23,6% so với 18%; P < 0,001, RR: 1,44); - Những bệnh nhân có kết quả phân lập vi khuẩn mới có tần suất đợt cấp cao hơn so với nhóm phân lập được vi khuẩn đã từng phát hiện (33% so với 15,4%; p < 0,001; RR: 2,15); Như vậy có thể nhận thấy bệnh nhân đợt cấp COPD có tần suất xuất hiện đợt cấp cao hơn nếu trước đây đã phân lập được vi khuẩn gây bệnh, hoặc khi ghi nhận chủng vi khuẩn mới. Đờm có mầu, vàng, hoặc xanh, có liên quan tới việc phân lập được vi khuẩn ở các bệnh nhân đợt cấp COPD (8). Đờm màu xanh, vàng, đờm mủ là dấu hiệu góp phần quan trọng trong chỉ định kháng sinh ở các bệnh nhân có đợt cấp COPD (1-3). Một nghiên cứu hồi cứu (8), phân tích dữ liệu của các thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên, với tổng số 4.089 bệnh nhân có đợt cấp COPD. Các bệnh nhân đều được cấy đờm, nhuộm Gram và cấy. Kết quả nhận thấy: - 46,4% bệnh nhân có kết quả vi khuẩn dương tính; - 58,9% bệnh nhân đờm màu xanh có kết quả vi khuẩn dương tính; - 45,5% bệnh nhân đờm màu vàng có kết quả vi khuẩn dương tính; - 39% bệnh nhân đờm đục có kết quả vi khuẩn dương tính; Trong khi đó, chỉ 18% bệnh nhân có đờm màu trắng có kết quả vi khuẩn dương tính. So với đờm màu trắng, đờm màu xanh, vàng có độ nhạy phát hiện vi khuẩn đạt 94,7%, nhưng độ đặc hiệu trong phát hiện vi khuẩn chỉ đạt 15%; Bên cạnh việc đánh giá mầu đàm trong đợt cấp, xét nghiệm procalcitonin máu cũng giúp giảm chỉ định kháng sinh so với sử dụng hướng dẫn thường quy (9). Trong một nghiên cứu đánh giá vai trò hướng dẫn điều trị kháng sinh của procalcitonin (9) cho kết quả trên 226 bệnh nhân nhập viện vì đợt cấp COPD, được chia ngẫu nhiên thành nhóm chỉ định kháng sinh dựa trên procalcitonin, so với nhóm chỉ định kháng sinh dựa theo khuyến cáo chuẩn hiện nay. Việc chỉ định kháng sinh dựa theo procalcitonin được chia nhóm như sau: - Không chỉ định kháng sinh khi procalcitonin < 0,1mcg/L; - Chỉ định dùng kháng sinh khi procalcitonin > 0,25 mcg/L (ng/mL); - Trường hợp procalcitonin từ 0,1 - 0,25mcg/L: Chỉ định kháng sinh hay không còn dựa thêm vào tình trạng lâm sàng của bệnh nhân. Trường hợp không dùng kháng sinh sẽ được xét nghiệm lại procalcitonin sau 6-24 giờ. Kết quả cho thấy, kháng sinh được chỉ định chỉ 40% khi dựa theo khuyến cáo dùng kháng sinh theo procalcitonin. Trong khi tỷ lệ dùng kháng sinh Tổng quan 39 Hô hấp số 16/2018 là 72% khi chỉ định kháng sinh theo khuyến cáo chuẩn hiện nay. Ở cả hai nhóm này không thấy có sự khác biệt về tỷ lệ thành công trên lâm sàng, thời gian nằm viện trung bình và nguy cơ nhập khoa hồi sức tích cực. CÁC DỮ LIỆU VỀ KHÁNG SINH TRONG ĐỢT CẤP COPD Chọn đường dùng kháng sinh: Kháng sinh đường tĩnh mạch giúp giảm thất bại điều trị, giảm tỷ lệ tử vong ở các bệnh nhân có đợt cấp COPD điều trị tại khoa hồi sức, nhưng không khác biệt so với kháng sinh đường uống trên những bệnh nhân đợt cấp COPD điều trị tại các khoa nội (10-12). Một phân tích tiến hành trên 2.068 bệnh nhân có đợt cấp COPD, dữ liệu thu thập từ 6 thử nghiệm, tiến hành trên các bệnh nhân điều trị nội trú, một thử nghiệm trên các bệnh nhân điều trị tại khoa hồi sức và 9 nghiên cứu tại cộng đồng (10). Kết quả cho thấy: - Tại khoa Hồi sức cấp cứu: kháng sinh đường tĩnh mạch giúp giảm thất bại điều trị trong thời gian theo dõi 4 tuần (RR: 0,71; 95% CI: 0,62-0,81), và giảm tỷ lệ tử vong (OR 0,21; 95% CI: 0,06 – 0,72); - Tại khoa nội chung: không ghi nhận sự khác biệt về tỷ lệ tử vong trong 4 nghiên cứu thực hiện trên 531 bệnh nhân điều trị tại khoa nội chung. Như vậy có thể nhận thấy với những bệnh nhân có đợt cấp nặng việc dùng kháng sinh đường tĩnh mạch là cần thiết, với những bệnh nhân có đợt cấp mức độ nhẹ, hoặc trung bình có thể chỉ cần dùng kháng sinh đường uống là đủ. Vai trò của kháng sinh với mức độ nặng của đợt cấp COPD: Kháng sinh giúp giảm rõ rệt tỷ lệ thất bại điều trị và tỷ lệ tử vong trên các bệnh nhân có đợt cấp COPD nặng, nhưng có ít vai trò trên những trường hợp có đợt cấp COPD nhẹ tới trung bình (13) . Puhan MA và cs (13) tổng hợp kết quả tử 13 nghiên cứu ngẫu nhiên, bệnh chứng về vai trò của kháng sinh trên 1.557 bệnh nhân có đợt cấp COPD được chia thành đợt cấp nặng khi cần điều trị nội trú, những trường hợp có thể điều trị ngoại trú được xếp thành đợt cấp mức độ nhẹ tới trung bình. Kết quả cho thấy kháng sinh không làm giảm thất bại điều trị ở các bệnh nhân có đợt cấp mức độ nhẹ tới trung bình (OR 1,09; 95% CI 0,75–1,59). Với những bệnh nhân có đợt cấp nặng (điều trị nội trú) tỷ lệ thất bại điều trị giảm rõ rệt (OR 0,25; 95% CI 0,16–0,39). Vollenweider DJ và cộng sự (2012) (14) khi tổng hợp dữ liệu của 16 nghiên cứu về vai trò của kháng sinh trong điều trị đợt cấp COPD cho thấy vai trò rất rõ ràng của kháng sinh trong điều trị đợt cấp COPD nhẹ tới trung bình (điều trị ngoại trú) và đợt cấp COPD nặng. Với tất cả các nhóm, kháng sinh giúp giảm tỷ lệ thất bại điều trị, rút ngắn thời gian nằm viện. Kháng sinh giúp giảm rõ rệt tỷ lệ tử vong, thông khí nhân tạo và tái nhập viện vì đợt cấp ở những bệnh nhân đợt cấp COPD điều trị tại bệnh viện (15). Nghiên cứu hồi cứu dữ liệu từ 84.621 bệnh nhân ≥ 40 tuổi, nhập viện vì đợt cấp COPD, theo dõi trong 30 ngày, 79% bệnh nhân dùng từ 2 kháng sinh trở lên. Chia bệnh nhân làm hai nhóm có và không dùng kháng sinh. Kết quả cho thấy nhóm dùng kháng sinh có giảm rõ rệt tỷ lệ thông khí nhân tạo, giảm tỷ lệ tử vong, và giảm tái nhập viện vì đợt cấp COPD (P < 0,001) (15). So sánh hiệu quả của các nhóm kháng sinh trong điều trị đợt cấp COPD: Trong một nghiên cứu RCT thực hiện trên 310 bệnh nhân, tuổi ≥ 40, có đợt cấp COPD trung bình tới nhẹ (16), bệnh nhân được chia ngẫu nhiên dùng amoxicillin-clavulanate hoặc placebo, các tác giả cho thấy hiệu quả điều trị ở nhóm có 2 hoặc 3 triệu chứng cải thiện rõ rệt so với placebo, trong khi không thấy có cải thiện lâm sàng so với placebo ở nhóm chỉ có 1 triệu chứng đợt cấp. Như vậy có thể thấy kháng sinh (amoxicillin – clavulanate) giúp tăng hiệu quả điều trị ở các bệnh nhân đợt cấp COPD mức độ trung bình (có hai trong ba triệu chứng khó thở tăng, khạc đờm tăng, đờm mủ), nhưng không có tác dụng với bệnh nhân chỉ có một triệu chứng nêu trên (16). Tổng quan 40 Hô hấp số 16/2018 Nhằm đánh giá vai trò của amoxicillin, amoxicillin/ acid clavulanate, azithromycin, Laopaiboon M và cs (năm 2015) (17) tiến hành phân tích gộp dữ liệu của 15 nghiên cứu so sánh hiệu quả của azithromycin, amoxicillin, và amoxicillin – acid clavulanate trên 2.496 bệnh nhân có đợt cấp viêm phế quản mạn tính, hoặc viêm phổi. Kết quả cho thấy không có sự khác biệt về tỷ lệ thất bại lâm sàng, tỷ lệ sạch vi khuẩn giữa các nhóm kháng sinh. Năm 2007, Dimopoulos G và cs (18) đã thực hiện phân tích dữ liệu từ 12 nghiên cứu về chọn kháng sinh trong điều trị các bệnh nhân có đợt cấp viêm phế quản mạn. Các kết quả cho thấy kháng sinh nhóm 2 (gồm amoxicillin – acid clavulanate, macrolide, cephalosporin thế hệ 2,3 fluoroquinolone) có hiệu quả lâm sàng hơn kháng sinh nhóm 1 (amoxicillin, amoxicillin, ampicillin, pivampicillin, trimethoprim/sulfamethoxazole, doxycycline). Theo Wilson R và cộng sự (2012) (19), khi nghiên cứu trên 1.372 bệnh nhân ≥ 60 tuổi, có chẩn đoán đợt cấp COPD, chia nhóm ngẫu nhiên điều trị moxifloxacin 400 mg, uống ngày 1 lần, so với amoxicillin-clavulanate 875 mg/125 mg, uống ngày 3 lần, trong thời gian 7 ngày cho thấy hai nhóm điều trị không ghi nhận sự khác biệt về tỷ lệ thất bại trong điều trị (20,6% so với 22% theo thứ tự), không có sự khác biệt về tỷ lệ các tác dụng ngoại ý trong điều trị (32,5% so với 32.3%). Năm 2003 Amsden GW và cs (20) nghiên cứu so sánh vai trò của azithromycin và levofloxacin trong điều trị đợt cấp viêm phế quản mạn tính do vi khuẩn, trên 235 bệnh nhân điều trị ngoại trú. Kết quả cho thấy azithromycin và levofloxacin có kết quả điều trị tương tự nhau, xét đồng thời trên các tiêu chí tỷ lệ điều trị thành công ở ngày thứ 4, tỷ lệ điều trị thành công ở ngày thứ 24, và tỷ lệ diệt vi khuẩn. Như vậy, bên cạnh amoxicillin/ acid clavulanate, macrolide, thì các kháng sinh nhóm fluoroquinolone cũng hiệu quả trong điều trị các bệnh nhân có đợt cấp COPD. Tuy nhiên, như phân tích của Miravitlles M và cs (năm 2004) (21) không nên tiếp tục các thử nghiệm lâm sàng đánh giá hiệu quả kháng sinh tương đương trong đợt cấp COPD nữa do các thiết kế nghiên cứu không chuẩn bệnh nhân đầu vào, lẫn lộn giữa đợt cấp viêm phế quản mạn tính, đợt cấp COPD và viêm phổi nên sẽ không thể tạo ra được sự tương đồng khi so sánh hiệu quả kháng sinh. Thời gian dùng kháng sinh trong điều trị đợt cấp COPD: Thời gian dùng kháng sinh cho những bệnh nhân đợt cấp COPD trung bình, điều trị ngoại trú 5 ngày là đủ (22). Tổng hợp dữ liệu từ 21 nghiên cứu so sánh về thời gian dùng kháng sinh ≤5 ngày và nhóm bệnh nhân có đợt cấp viêm phế quản mạn tính và COPD nhẹ - trung bình dùng kháng sinh >5 ngày cho điều trị ngoại trú ở 10.698 bệnh nhân, El Moussaoui R và cs (23) cho thấy cả hai nhóm có hiệu quả điều trị trên lâm sàng tương đương nhau (77.2% so với 77.4%; OR 0,99; 95% CI: 0,9-1,08); tỷ lệ thành công về vi khuẩn học tương đương nhau (79,9% so với 79,5% (OR 1,05; 95% CI: 0,87-1,26). CÁC KHUYẾN CÁO SỬ DỤNG KHÁNG SINH TRONG ĐIỀU TRỊ ĐỢT CẤP COPD Theo GOLD 2018 (3): Kháng sinh khi được chỉ định cho điều trị đợt cấp COPD có vai trò giúp rút ngắn thời gian điều trị, giảm nguy cơ tái phát, và giảm thời gian nằm viện. Kháng sinh chỉ nên sử dụng cho các bệnh nhân: (1) Có đủ cả ba triệu chứng (khó thở tăng, tăng thể tích đờm, và tăng đờm mủ); (2) Có hai triệu chứng, nhưng một trong hai triệu chứng là tăng đờm mủ; (3) Các bệnh nhân có chỉ định thở máy. Thời gian dùng kháng sinh: thường từ 5-7 ngày là đủ. Kháng sinh được chọn phù hợp với mô hình vi khuẩn học ở địa phương. Các kháng sinh điều trị ban đầu thường là amoxillin/ acid clavulanic, macrolide hoặc tetracycline. Với những bệnh nhân có đợt cấp thường xuyên, tắc nghẽn đường thở nặng, và/hoặc các đợt cấp cần thông khí nhân tạo cần lưu ý chọn các kháng sinh phổ rộng có tác dụng với vi khuẩn Gram âm, kháng thuốc. Theo ATS/ERS 2017 (24): Nên xem xét sử dụng kháng sinh ở bệnh nhân có đợt cấp COPD. Luôn Tổng quan 41 Hô hấp số 16/2018 cân nhắc tới khả năng kháng thuốc khi kê đơn điều trị. Theo UpToDate 2018: Việc dùng kháng sinh cho bệnh nhân có đợt cấp COPD đến khám tại phòng khám cấp cứu như sau (25): - Đợt cấp COPD nhẹ: Không dùng kháng sinh. - Đợt cấp COPD mức độ trung bình tới nặng, không có yếu tố nguy cơ: Macrolide thế hệ mới (azithromycin, clarithromycin); hoặc Cephalosporin (cefuroxime, cepodoxime, cefdinir); hoặc Doxycycline; hoặc Trimethoprim/ Sulfamethoxazone. - Trường hợp đã dùng kháng sinh trong 3 tháng trước: nên chọn nhóm thuốc khác. - Đợt cấp COPD mức độ trung bình tới nặng, kèm theo 1 hoặc nhiều yếu tố nguy cơ (tuổi > 65; FEV 1 <50%; có 2 đợt cấp trong 12 tháng trước đó; có bệnh lý tim mạch kèm theo): Fluoroquinolone (moxifloxacin, levofloxacin); hoặc Amoxillin/ acid clavulanic. Nếu có nguy cơ nhiễm P.aeruginosa sử dùng ciprofloxacin và cấy đờm. Các yếu tố nguy cơ nhiễm P. aeruginosa gồm: (1) COPD nặng; (2) Có phân lập được P.aeruginosa ở lần khám trước; (3) Có giãn phế quản kèm theo; (4) Thường dùng kháng sinh; (5) Thường xuyên nhập viện; (6) Có dùng corticoid toàn thân. Cũng theo UpToDate 2018 (25): Với những bệnh nhân có đợt cấp COPD nặng cần nhập viện, việc dùng kháng sinh được khuyến cáo như sau: - Bệnh nhân có kèm một hoặc nhiều yếu tố nguy cơ, không kèm yếu tố nguy cơ nhiễm P. aeruginosa: Levofloxacin 750mg uống hoặc tĩnh mạch hàng ngày; hoặc Moxifloxacin uống hoặc tĩnh mạch; hoặc Ceftriaxone tĩnh mạch; hoặc Cefotaxime tĩnh mạch. - Trường hợp bệnh nhân có kèm một hoặc nhiều yếu tố nguy cơ, và có kèm yếu tố nguy cơ nhiễm P.aeruginosa: Lấy đờm nhuộm Gram và cấy, đồng thời dùng ngay kháng sinh Levofloxacin 750mg uống hoặc tĩnh mạch hàng ngày; hoặc Cefepime tĩnh mạch; hoặc Ceftazidime tĩnh mạch; hoặc Piperacillin – Tazobactam 4,5g tĩnh mạch mỗi 6h. Tài liệu tham khảo 1. Anthonisen NR MJ, Warren CPW, Hershfield ES, Harding GK, Nelson NA, (1987), Antibiotic therapy in exacerbations of chronic obstructive pulmonary disease, Ann Intern Med, 106, pp. 196-204 2. ATS/ERS (2004), Standard for diagnosis and management of patiens with COPD, Am. J. Respir Crit Care Med, 152, pp. 8-222. 3. Global Initiative for Chronic Obstructive Lung Disease (GOLD). Global strategy for the diagnosis, management, and prevention of COPD. GOLD 2018. 4. Patil SP, Krishnan JA, Lechtzin N, Diette GB. In- hospital mortality following acute exacerbations of chronic obstructive pulmonary disease. Arch Intern Med. 2003 May 26;163(10):1180-6. 5. Hurst JR, Vestbo J, Anzueto A, et al. Susceptibility to exacerbation in chronic obstructive pulmonary disease. N Engl J Med. 2010 Sep 16;363(12):1128-38. 6. Ko FW, Ip M, Chan PK, Fok JP, Chan MC, Ngai JC, Chan DP, Hui DS. A 1-year prospective study of the infectious etiology in patients hospitalized with acute exacerbations of COPD. Chest. 2007 Jan;131(1):44-52. 7. Anthonisen NR. Bacteria and exacerbations of chronic obstructive pulmonary disease. N Engl J Med. 2002 Aug 15;347(7):526-7. 8. Miravitlles M, Kruesmann F, Haverstock D, Perroncel R, Choudhri SH, Arvis P. Sputum colour and bacteria in chronic bronchitis exacerbations: a pooled analysis. Eur Respir J. 2012 Jun;39(6):1354-60. 9. Niewoehner DE. Procalcitonin level-guided treatment reduced antibiotic use in exacerbations of COPD. ACP J Club. 2007 May-Jun;146(3):57. 10. Vollenweider DJ, Jarrett H, Steurer-Stey CA, Garcia-Aymerich J, Puhan MA. Antibiotics for exacerbations of chronic obstructive pulmonary disease. Cochrane Database Syst Rev. 2012. 11. Quon BS, Gan WQ, Sin DD. Contemporary management of acute exacerbations of COPD: a systematic review and metaanalysis. Chest. 2008;133(3):756-66. Tổng quan 42 Hô hấp số 16/2018 12. Peters J. Review: systemic corticosteroids, antibiotics, and noninvasive positive pressure ventilation are effective in acute COPD. ACP J Club. 2008. 19;149(2):13. 13. Puhan MA, Vollenweider D, Latshang T, Steurer J, Steurer-Stey C. Exacerbations of chronic obstructive pulmonary disease: when are antibiotics indicated? A systematic review. Respir Res 2008;9:81 14. Vollenweider DJ, Jarrett H, Steurer-Stey CA, Garcia-Aymerich J, Puhan MA. Antibiotics for exacerbations of chronic obstructive pulmonary disease (Review). Database of Systematic Reviews. 2012 15. Rothberg MB, Pekow PS, Lahti M, Brody O, Skiest DJ, Lindenauer PK. Antibiotic therapy and treatment failure in patients hospitalized for acute exacerbations of chronic obstructive pulmonary disease. JAMA. 2010; 303(20):2035-42. 16. Llor C, Moragas A, Hernández S, Bayona C, Miravitlles M. Efficacy of antibiotic therapy for acute exacerbations of mild to moderate chronic obstructive pulmonary disease. Am J Respir Crit Care Med. 2012 Oct 15;186(8):716-23. 17. Laopaiboon M, Panpanich R, Swa Mya K. Azithromycin for acute lower respiratory tract infections. Cochrane Database Syst Rev. 2015 Mar 8;(3):CD001954. doi: 10.1002/14651858. CD001954.pub4. 18. Dimopoulos G, Siempos II, Korbila IP, Manta KG, Falagas ME. Comparison of first-line with second-line antibiotics for acute exacerbations of. chronic bronchitis: a metaanalysis of randomized controlled trials. Chest. 2007 Aug;132(2):447-55 19. Wilson R, Anzueto A, Miravitlles M, et al. Moxifloxacin versus amoxicillin/clavulanic acid in outpatient acute exacerbations of COPD: MAESTRAL results. Eur Respir J. 2012 Jul;40(1):17-27. 20. Amsden GW, Baird IM, Simon S, Treadway G. “Efficacy and safety of azithromycin vs levofloxacin in the outpatient treatment of acute bacterial exacerbations of chronic bronchitis. Chest. 2003 Mar;123(3):772-7. 21. Miravitlles M, Torres A. No more equivalence trials for antibiotics in exacerbations of COPD, please. Chest. 2004 Mar;125(3):811-3 22. Wilson R. Short course of antibiotic treatment in acute exacerbations of COPD. Thorax. 2008 May; 63(5):390-2. 23. El Moussaoui R, Roede B M, Speelman P et al. Short-course antibiotic treatment in acute exacerbations of chronic bronchitis and COPD: a meta-analysis of double-blind studies. Thorax 2008;63:415-422 24. Wedzicha JA, Miravitlles M, Hurst JR, Calverley PM, et al. Management of COPD exacerbations: a European Respiratory Society/American Thoracic Society guideline. Eur Respir J. 2017 Mar 15;49(3). 25. Stoller J.K. Management of exacerbations of chronic obstructive pulmonary disease. UpToDate 2018;
File đính kèm:
khang_sinh_trong_dot_cap_benh_phoi_tac_nghen_man_tinh_tu_du.pdf

