Khai thác nước biển sâu ngành công nghiệp tiềm năng của Việt Nam

Khai thác nước biển sâu là một ngành

công nghiệp mới phát triển ở một số nước

như Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, nhằm phục

vụ cho nhu cầu về y tế, chữa bệnh, dược

phẩm, đồ uống cao cấp, sản xuất muối tinh

khiết, nước chưng cất để ướp giữ thực

phẩm, v.v. Với hơn 3.260 km bờ biển và

thềm lục địa ở độ sâu dưới 200m chiếm

hơn nửa diện tích biển, Việt Nam có nhiều

tiềm năng để trở thành một quốc gia khai

thác nước biển sâu trong chiến lược kinh

tế biển của mình. Để phát huy các tiềm

năng của biển trong thế kỷ XXI, Hội

nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung

ương Đảng (khóa X) đã thông qua Nghị

quyết số 09-NQ/TW ngày 09/02/2007

“Về Chiến lược biển Việt Nam đến năm

2020” đã nhấn mạnh: “Thế kỷ XXI được

thế giới xem là “thế kỷ của đại dương”.

Các quốc gia có biển đều rất quan tâm đến

biển và coi trọng việc xây dựng chiến lược

biển. Khu vực Biển Đông, trong đó có

vùng biển Việt Nam, có vị trí địa kinh tế

và địa chính trị rất quan trọng với nguồn

tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa

dạng, ngày nay biển càng có vai trò to lớn

hơn đối với sự phát triển đất nước”.*

pdf 9 trang phuongnguyen 5880
Bạn đang xem tài liệu "Khai thác nước biển sâu ngành công nghiệp tiềm năng của Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Khai thác nước biển sâu ngành công nghiệp tiềm năng của Việt Nam

Khai thác nước biển sâu ngành công nghiệp tiềm năng của Việt Nam
KHAI THÁC NƯỚC BIỂN SÂU 
NGÀNH CÔNG NGHIỆP TIỀM NĂNG CỦA VIỆT NAM 
 TRẦN NGỌC SƠN* 
Khai thác nước biển sâu là một ngành 
công nghiệp mới phát triển ở một số nước 
như Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, nhằm phục 
vụ cho nhu cầu về y tế, chữa bệnh, dược 
phẩm, đồ uống cao cấp, sản xuất muối tinh 
khiết, nước chưng cất để ướp giữ thực 
phẩm, v.v.. Với hơn 3.260 km bờ biển và 
thềm lục địa ở độ sâu dưới 200m chiếm 
hơn nửa diện tích biển, Việt Nam có nhiều 
tiềm năng để trở thành một quốc gia khai 
thác nước biển sâu trong chiến lược kinh 
tế biển của mình. Để phát huy các tiềm 
năng của biển trong thế kỷ XXI, Hội 
nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung 
ương Đảng (khóa X) đã thông qua Nghị 
quyết số 09-NQ/TW ngày 09/02/2007 
“Về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 
2020” đã nhấn mạnh: “Thế kỷ XXI được 
thế giới xem là “thế kỷ của đại dương”. 
Các quốc gia có biển đều rất quan tâm đến 
biển và coi trọng việc xây dựng chiến lược 
biển. Khu vực Biển Đông, trong đó có 
vùng biển Việt Nam, có vị trí địa kinh tế 
và địa chính trị rất quan trọngvới nguồn 
tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa 
dạng, ngày nay biển càng có vai trò to lớn 
hơn đối với sự phát triển đất nước”.* 
I. TỔNG QUAN VỀ NƯỚC BIỂN SÂU 
1. Nước biển sâu 
Theo Bách khoa toàn thư mở 
Wikipedia, đại dương là một vùng lớn 
chứa nước mặn tạo thành thành phần cơ 
* Tiến sỹ, Trường Đại học Đông Á. 
bản của thủy quyển. Khoảng 71% diện 
tích bề mặt Trái Đất (khoảng 361 triệu 
kilômét vuông) được các đại dương che 
phủ, một khối nước liên tục theo tập quán 
được chia thành một vài đại dương chủ 
chốt và một số các biển nhỏ. Đại dương 
được chia ra thành nhiều khu vực hay 
tầng, phụ thuộc vào các điều kiện vật lý và 
sinh học của các khu vực này. Vùng biển 
khơi bao gồm mọi khu vực chứa nước của 
biển cả (không bao gồm phần đáy biển) và 
nó có thể phân chia tiếp thành các khu vực 
con theo độ sâu và độ chiếu sáng. Vùng 
chiếu sáng che phủ đại dương từ bề mặt 
tới độ sâu 200m. Đây là khu vực trong đó 
sự quang hợp diễn ra phổ biến nhất và vì 
thế chứa sự đa dạng sinh học lớn nhất 
trong lòng đại dương. Do thực vật chỉ có 
thể sinh tồn với quá trình quang hợp nên 
bất kỳ sự sống nào tìm thấy dưới độ sâu 
này hoặc phải dựa trên các vật chất trôi 
nổi chìm xuống từ phía trên (xem tuyết 
biển) hoặc tìm các nguồn chủ lực khác; 
điều này thường xuất hiện dưới dạng 
miệng phun thủy nhiệt trong khu vực gọi 
là vùng thiếu sáng (tất cả các độ sâu nằm 
dưới mức 200m). Phần biển khơi của vùng 
chiếu sáng được gọi là vùng biển khơi mặt 
(epipelagic). Phần biển khơi của vùng 
thiếu sáng có thể chia tiếp thành các vùng 
nối tiếp nhau theo chiều thẳng đứng. Vùng 
biển khơi trung (mesopelagic) là tầng trên 
cùng, với ranh giới thấp nhất tại lớp dị 
nhiệt là 12°C, trong đó tại khu vực nhiệt 
đới nói chung nó nằm ở độ sâu từ 700 đến 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 3/2013 28
1.000m. Dưới tầng này là vùng biển khơi 
sâu (bathypelagic) nằm giữa 10°C và 4°C, 
hay độ sâu giữa khoảng 700-1.000m với 
2.000-4.000m. Nằm dọc theo phần trên 
của vùng bình nguyên sâu thẳm là vùng 
biển khơi sâu thẳm (abyssalpelagic) với 
ranh giới dưới của nó nằm ở độ sâu 
khoảng 6.000m. Vùng cuối cùng nằm tại 
các rãnh đại dương và được gọi chung là 
vùng biển khơi tăm tối (hadalpelagic). Nó 
nằm giữa độ sâu từ 6.000m tới 10.000m 
và là vùng sâu nhất của đại dương. 
Cùng với các vùng biển khơi thiếu 
sáng còn có các vùng đáy thiếu sáng, 
chúng tương ứng với ba vùng biển khơi 
sâu nhất. Vùng đáy sâu che phủ sườn dốc 
lục địa và kéo dài xuống độ sâu khoảng 
4.000m. Vùng đáy sâu thẳm che phủ các 
bình nguyên sâu thẳm ở độ sâu 4.000 – 
6.000m. Cuối cùng là vùng đáy tăm tối 
tương ứng với vùng biển khơi tăm tối, tìm 
thấy ở các rãnh đại dương. Vùng biển 
khơi cũng có thể chia ra thành hai vùng 
con, là vùng ven bờ (neritic) và vùng đại 
dương. Vùng neritic bao gồm khối nước 
nằm ngay trên các thềm lục địa, trong khi 
vùng đại dương bao gồm toàn bộ vùng 
nước biển cả còn lại. 
Ngược lại, vùng duyên hải bao phủ khu 
vực nằm giữa các mức thủy triều cao và 
thấp nhất, nó là khu vực chuyển tiếp giữa 
các điều kiện đại dương và đất liền. Nó 
cũng có thể gọi là vùng liên thủy triều do 
nó là khu vực trong đó mức thủy triều có 
ảnh hưởng mạnh tới các điều kiện của khu 
vực. Dựa trên sự phân chia các tầng của 
đại dương như trên, có thể định nghĩa 
Nước biển sâu (DSW) là tầng nước nằm 
trong vùng biển khơi trung có độ sâu 
khoảng từ 200m đến 700m, nơi mà thực 
vật khó có thể sinh tồn do quá trình quang 
hợp khó xảy ra ở tầng này. 
Việc phát hiện nước biển sâu là một sự 
kiện rất tình cờ trong lĩnh vực khoa học 
của ngành khai khoáng. Mỹ là nước đầu 
tiên tiến hành khai thác nước biển sâu, 
khởi nguồn từ một dự án khoa học dở 
dang của chính quyền địa phương mà 
không phải bắt đầu từ DSW. Năm 1974, 
nước Mỹ bị các nước xuất khẩu dầu mỏ 
Ảrập tẩy chay không bán dầu. Từ việc 
thiếu nhiên liệu sản xuất điện, chính quyền 
bang Hawaii thành lập phòng thí nghiệm 
với hy vọng rằng sẽ tìm kiếm nguồn năng 
lượng khác thay thế để sản xuất điện. 
Cơ sở để làm thí nghiệm là giả thuyết 
phát minh năm 1880 của nhà khoa học 
Pháp Jacques-Arsène d’Arsonval về sản 
xuất điện với nước nóng và nước lạnh. 
Các nhà khoa học Hawaii lấy nước nóng 
trên mặt biển Hawaii và nước lạnh 10°C 
lấy từ đáy biển để thực hiện thí nghiệm. 
Dự án thí nghiệm để tạo ra năng lượng từ 
nước biển này cuối cùng thất bại. Tuy 
nhiên, đường ống dài 600 mét lấy nước 
biển sâu vẫn được duy trì. 
Thoạt đầu, các nhà sinh học và nuôi 
trồng hải sản Hawaii dùng đường ống trên 
lấy nước cho hồ nuôi cá, nghêu sò và rong 
biển. Họ đã phát hiện rằng nước biển sâu 
này tạo ra chất dinh dưỡng rất tốt cho cả 
sinh vật và động vật so với nước thông 
thường đã sử dụng để nuôi trồng. Từ đó, 
các nhà khoa học Mỹ đã thực hiện các 
nghiên cứu DSW. 
Qua nghiên cứu của các nhà khoa học 
khai khoáng về tài nguyên biển thì nước 
biển sâu có sự cân bằng ion ở độ sâu hơn 
200m dưới lòng đại dương mà tia nắng 
mặt trời không chiếu xuống được. Đồng 
Khai thác nước biển sâu 29
thời, nước biển sâu có cấu tạo tương tự các 
chất dịch trong da; có độ tinh khiết; có 
hàm lượng chất khoáng cao và độ hấp thụ 
vào da cao hơn nhiều so với nước thông 
thường. Nước biển sâu giúp giải quyết vấn 
đề da khô nhờ cơ chế cung cấp độ ẩm 
nhanh chóng, duy trì sự cân bằng ion 
(khoáng chất) giống với cơ thể. Các 
nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, nước biển 
sâu tăng 17% hàm lượng độ ẩm so với 
nước thông thường. 
Những chế phẩm với thành phần chính 
từ nước biển sâu có thể đem lại những lợi 
ích thiết thực trong việc bảo vệ sức khỏe 
cho con người; được các nhà chuyên môn 
tin dùng như một giải pháp trong hỗ trợ 
điều trị hậu phẫu, các bệnh lý mũi xoang, 
các bệnh về đường hô hấp và lây lan qua 
đường hô hấp khác dựa vào thành phần 
khoáng chất và các nguyên tố vi lượng có 
trong nước biển. 
 Nước biển sâu được khai thác ở độ sâu 
hợp lý dưới 200m tính từ mặt biển; sau đó, 
được tiệt trùng bằng tia cực tím 
(Ultraviolet radiation). Tia cực tím (UV) 
là 1 phần năng lượng phát ra bởi Mặt Trời, 
chia làm 3 loại: ultraviolet A (UVA), 
ultraviolet B (UVB), ultraviolet C (UVC). 
Tuy UVC là loại tia cực tím nguy hiểm 
nhất đối với con người nhưng nó đã bị 
chặn bởi tầng ozone nên không có khả 
năng gây hại. Sau đó, nước biển sâu được 
xử lý bằng ozon và lọc qua thiết bị siêu lọc 
với đường kính 0,1 micromet Đặc biệt, 
quy trình xử lý một cách khoa học và hiện 
đại đã giúp bảo toàn gần như toàn bộ các 
nguyên tố vi lượng như Zn2+ (Kẽm) và 
Cu2+ (Đồng). Cũng nhờ vào sự góp mặt 
một cách “dồi dào” của các nguyên tố vi 
lượng ấy, cho nên nước biển sâu có tác 
dụng sát khuẩn, kháng viêm, săn se 
niêm mạc, phục hồi niêm mạc suy yếu, 
có thể ngăn ngừa sổ mũi, ngạt mũi, viêm 
xoang và các bệnh lây lan qua đường hô 
hấp khác. 
2. Khai thác và ứng dụng nước biển 
sâu ở một số nước trên thế giới 
Năm 2001, Yasuki Takano - chủ hãng 
Koyo USA đã phát hiện đường ống và 
mua lại quyền sử dụng nó để sản xuất 
nước biển đóng chai theo công nghệ riêng 
từ năm 2003. 
Sau Mỹ và Nhật Bản, gần đây Hàn 
Quốc đã xuất hiện nhiều công ty khai thác 
nước biển sâu và các sản phẩm từ nước 
biển rất có tiềm năng. Công ty Gangwon 
Deep Sea Water của Hàn Quốc được thành 
lập từ năm 2006 là một trong những doanh 
nghiệp đi tiên phong trong lĩnh vực mới 
mẻ này khi bỏ ra khoảng 25 triệu USD đầu 
tư để khai thác nước biển sâu. Không chỉ 
làm nước uống đóng chai, hãng này còn 
đưa ra thị trường các sản phẩm nước biển 
sâu dành cho lĩnh vực đồ uống khác như 
làm bia, rượu cao cấp, sản xuất thực phẩm, 
sử dụng làm mỹ phẩm, dược phẩm, muối 
tinh khiết Chủ tịch hãng Gangwon Deep 
Sea Water giải thích rằng, do được khai 
thác ở độ sâu 600m, với nhiệt độ dưới 2°C 
nên nước biển Thái Bình Dương chứa 
nhiều khoáng chất như phosphor và 
calcium rất tốt cho sức khỏe con người. 
Hơn thế nữa, nó không bị ô nhiễm nên đặc 
biệt tinh khiết. 
Trong thời gian qua, hãng Gangwon 
của Hàn Quốc, bằng việc luồn một ống hút 
với một miệng phễu đặc biệt dưới độ sâu 
hơn 600m ở ngoài khơi khoảng 6 km, đã 
hút lên bờ khoảng 3.000 tấn nước biển sâu 
mỗi ngày thông qua một hệ thống bơm đặc 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 3/2013 30
biệt. Một nhà máy trên bờ làm nhiệm vụ 
chiết xuất nước thô thành 3 nhóm sản 
phẩm: nhóm nước biển sâu tinh khiết đã 
tách muối để uống, nhóm nước biển sâu 
dành cho chế biến thực phẩm - mỹ phẩm -
y dược và nhóm nước thô để dùng tắm 
gội - muối cá - làm mỹ phẩm 
 Phát triển nhóm sản phẩm nước biển 
sâu tinh khiết đã tách muối để uống. Công 
nghệ chế biến nhóm sản phẩm này không 
phức tạp, hơn nữa đây là sản phẩm tiêu 
thụ cho mọi người. Một chai nước mang 
thương hiệu “Artic Spring” của hãng hiện 
nay ở Hàn Quốc có giá khoảng 20 nghìn 
đồng Việt Nam, gấp ba đến bốn lần giá 
nước đóng chai tinh khiết khác tại Việt 
Nam. Tuy nhiên, người Hàn Quốc vẫn 
thích tiêu dùng, đặc biệt là các bà mẹ đang 
trong thời kỳ cho con bú, vận động viên 
thể thao, diễn viên và giới doanh nhân, do 
nước biển sâu chứa hàm lượng khoáng 
chất cao gấp 20 đến 30 lần loại nước uống 
bình thường. Thêm vào đó, chất Magie dồi 
dào có trong nước biển sâu còn làm cho da 
dẻ tươi mát và trong sáng. 
Phát triển nhóm sản phẩm nước biển sâu 
dành cho chế biến thực phẩm - mỹ phẩm - y 
dược. Với những trường hợp mũi bị nghẹt 
do tăng tiết, nước biển sâu có thể làm loãng 
và đào thải dịch tiết ra ngoài. Khi thời tiết 
khô hanh hoặc thường xuyên phải làm việc 
trong phòng máy lạnh khiến vùng niêm mạc 
mũi bị khô rát, khó chịu - lúc này nước biển 
sâu sẽ có tác dụng giúp cho mũi phục hồi lại 
độ ẩm. Hơn nữa, tinh dầu bạc hà, tinh dầu 
hoa cứt lợn được thêm vào nước biển sâu 
dùng để xông khí dung sẽ giúp tạo cảm giác 
mát dịu cho người bệnh và can thiệp tốt 
những triệu chứng cảm cúm thường hay xảy 
ra đối với con người. 
Nước biển sâu là dung dịch vệ sinh mũi 
rất giàu khoáng chất và trên 60 nguyên tố vi 
lượng, đặc biệt có chứa nguyên tố đồng và 
kẽm với tác dụng làm săn se niêm mạc, 
phục hồi niêm mạc suy yếu, sát khuẩn và 
kháng viêm tốt. Ngoài ra, nước biển sâu hữu 
hiệu trong phòng ngừa và hỗ trợ điều trị các 
triệu chứng của bệnh viêm mũi xoang và 
làm giảm tỷ lệ tái phát bệnh. Nước biển sâu 
từ lâu được các nhà chuyên môn tin dùng 
như một giải pháp hỗ trợ điều trị hậu phẫu 
và các bệnh về đường hô hấp dựa vào tính 
chất sát khuẩn, kháng viêm của các nguyên 
tố vi lượng trong thành phần nước biển. 
Phát triển nhóm nước thô để dùng tắm 
gội - muối cá - làm mỹ phẩm. Các công ty 
mỹ phẩm hàng đầu của Nhật đã kết hợp 
nước biển sâu vào sản phẩm dưỡng da để 
thay thế các sản phẩm truyền thống của họ. 
Nước biển sâu không chỉ chứa iốt mà còn 
có đủ loại chất khoáng rút ra từ vỏ trái đất 
như sắt, đồng, magiê, natri, thậm chí cả bạc, 
vàng và radium. 
Nước biển sâu có tính năng cải tiến chất 
của da từ trong đến ngoài. Tác dụng của 
nó chậm nhưng sâu và bền khi sử dụng để 
tắm. Nó có tính năng phòng chống và hiệu 
chỉnh các chứng "sa xệ" nhẹ hoặc trung 
bình của da. 
II. THỰC TRẠNG TIỀM NĂNG NGÀNH 
CÔNG NGHIỆP NƯỚC BIỂN SÂU TẠI 
VIỆT NAM 
1. Những nghiên cứu có liên quan đối 
với công nghiệp nước biển sâu tại 
Việt Nam 
Theo các nhà khoa học, nước biển sâu 
là nguồn nước tinh khiết gần như vô 
khuẩn của con người. Khi các dòng hải 
lưu di chuyển từ bờ đảo Greenland đến 
Khai thác nước biển sâu 31
Bắc Thái Bình Dương, thì chúng tạo nên 
luồng nước cực lạnh và cố kết. Luồng 
nước này chảy ngầm dưới đáy đại dương, 
hình thành nên nước biển sâu, nước đó 
không bị pha lẫn với nguồn nước mặt. Quá 
trình này kéo dài hàng nghìn năm và tồn 
tại cho đến nay. 
Tại Việt Nam, trong giai đoạn hơn 10 
năm gần đây, dao động mực nước biển có 
nhiều biến động do địa hình đáy Biển 
Đông khá đa dạng. Độ sâu lớn nhất là 
5560m, vùng thềm lục địa với độ sâu dưới 
200m chiếm hơn nửa diện tích biển. Ở 
vịnh Bắc Bộ và vịnh Thái Lan, độ sâu biển 
biến đổi từ vài mét đến dưới 100m. 
Có tính bất đối xứng trong phân bố độ 
sâu của biển giữa phía tây và phía đông; 
giữa phía bắc và phía nam. Vùng biển 
phía đông và đông nam có độ dốc đáy 
lớn hơn so với vùng biển phía tây và tây 
bắc. Đặc điểm này ảnh hưởng rất lớn đến 
chế độ dao động thủy triều và mực nước 
Biển Đông. 
Các số liệu đo đạc nhiệt độ nước Biển 
Đông cho thấy, nhiệt độ đáy biển phụ 
thuộc vào độ sâu (với độ sâu đáy biển từ 
300-500m thì nhiệt độ đáy biển thay đổi 
từ 10,5 đến 7,5°C với độ sâu từ 1.000-
3.000m thì thay đổi từ 5-2,5°C). Ở phần 
sâu hơn tại Trũng Biển Đông, nhiệt độ 
xuống dưới 2°C. Ở khu vực sườn lục địa, 
việc thay đổi nhiệt độ có giá trị cao, từ 
60- 94 độ C/km. Vì vậy, phần nước sâu 
trên 300m của Biển Đông Việt Nam đáp 
ứng về điều kiện nhiệt độ để hình thành 
khí hydrate. 
Theo các nhà khoa học, phần lớn địa 
hình đáy biển trên vùng biển Việt Nam có 
vĩ tuyến trùng với hướng tách giãn của 
Biển Đông. Tại đây, xuất hiện nhiều núi 
lửa, đó là dạng địa hình thuận lợi cho việc 
hình thành các cao nguyên ngầm, các đới 
nâng. Ở phần sườn lục địa miền trung và 
đông nam, địa hình đáy biển thay đổi đột 
ngột từ vài trăm mét xuống 1.500-
2.500m, tạo thành vách dốc đứng. Khu 
vực này hình thành nhiều núi lửa trẻ, đây 
là địa hình thuận lợi cho việc hình thành 
các cấu trúc dạng nón trầm tích. Các cấu 
trúc này rất thích hợp cho việc hình thành 
khí hydrate tại các cao nguyên ngầm, các 
đới nâng, các nón trầm tích đáy biển, bùn 
núi lửa... Đặc biệt, phần phía nam của 
quần đảo Trường Sa có cấu trúc dạng 
"nêm tăng trưởng", một trong những cấu 
trúc địa hình rất thuận lợi cho việc tồn tại 
khí hydrate. 
Khí hydrate, một chất kết tinh bao gồm 
phân tử nước và metan, thường được tìm 
thấy bên dưới lớp băng vĩnh cửu và tầng 
địa chất sâu dưới lòng đại dương. Đó là 
nguồn nguyên liệu thay thế cho dầu lửa và 
than đá. Khí hydrate đã được các nhà khoa 
học trên thế giới xếp vào một trong 9 
nguồn năng lượng sạch trong tương lai. 
Các nghiên cứu khoa học về độ sâu của 
thềm lục địa Việt Nam cho thấy rằng, tại 
Việt Nam hoàn toàn có thể nghĩ đến việc 
hình thành ngành công nghiệp khai thác 
nước biển sâu. Với hơn ½ diện tích biển 
có độ sâu của thềm lục địa từ 200m trở 
xuống đến 5.560m, Việt Nam có một kho 
“vàng nước” - nước biển sâu. 
2. Thị trường các sản phẩm từ nước 
biển sâu tại Việt Nam 
Hiện nay, các sản phẩm từ nước biển 
sâu mới chỉ được sử dụng trong ngành 
dược phẩm; trong đó sử dụng phổ biến 
nhất cho chữa các chứng bệnh về đường 
hô hấp thông thường. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 3/2013 32
Tại Việt Nam, đã xuất hiện những sản 
phẩm dược phẩm có thành phần từ nước 
biển sâu, tiêu biểu là các sản phẩm nước 
biển sâu sinh lý xịt mũi có nguồn gốc nhập 
khẩu. Loại nước biển vệ sinh mũi tốt nhất 
được khai thác từ nước biển sâu ở dạng 
không pha loãng (100% nước biển). So 
với nước biển pha loãng, loại này có hàm 
lượng khoáng chất và vi lượng như đồng, 
mangan, magiê, lưu huỳnh, selen, nhiều 
hơn; vì vậy, các tác dụng làm sạch, sát 
khuẩn, chống dị ứng, kháng viêm, làm ẩm 
niêm mạc mũi tốt hơn. 
Nước biển sâu xisat đã được Bộ Y tế 
Việt Nam cấp chứng nhận đăng ký lưu 
hành sản phẩm trang thiết bị y tế. Theo kết 
quả khảo sát của Nielsen (Omnibus tháng 
3/2012), nước biển sâu xisat hiện đang 
chiếm 80% thị phần Hà Nội và 96% thị 
phần thành phố Hồ Chí Minh trong tổng 
số các sản phẩm dung dịch vệ sinh mũi. 
Trên 90% người tiêu dùng công nhận việc 
sử dụng nước biển sâu xisat vệ sinh mũi 
hàng ngày giúp phòng tránh sổ mũi, nghẹt 
mũi do thời tiết thay đổi hoặc khói bụi ô 
nhiễm đối với môi trường. Có thể thấy 
rằng, ở hai thành phố lớn tại Việt Nam tỷ 
lệ nước biển sâu trong ngành y - dược 
chiếm thị phần rất cao trong nhóm các sản 
phẩm vệ sinh mũi. Điều đó là một dấu 
hiệu rất tốt về thị trường để phát triển công 
nghiệp biển nước sâu vì người tiêu dùng 
số đông ở Việt Nam tương thích với sản 
phẩm vệ sinh đường hô hấp. 
Ngoài ra, theo ý kiến của các nhà 
chuyên môn, bản thân nước biển đã chứa 
rất nhiều những khoáng chất bên trong. 
Nếu được khai thác ở độ sâu hợp lý 
(khoảng 450m so với mặt nước biển) thì 
nước biển sâu sẽ trở nên ưu việt nhất, vì ở 
độ sâu này trong thành phần nước biển có 
hơn 60 nguyên tố vi lượng như Cu, Zn, 
Al, Ag, Mn, Pb Trong khi đó, giới y 
học cũng đã đưa ra khuyến cáo: tất cả 
những vi chất này tỏ ra cực kỳ hiệu quả 
trong điều trị, phòng ngừa những bệnh 
liên quan đến đường hô hấp và hậu phẫu 
vùng mũi xoang. 
Có thể khẳng định rằng, nước biển sâu 
rất hữu hiệu cho việc phát triển ngành 
dược phẩm ở Việt Nam. 
III. GIẢI PHÁP CHO NGÀNH CÔNG 
NGHIỆP KHAI THÁC NƯỚC BIẾN SÂU TẠI 
VIỆT NAM 
1. Định hướng của Đảng về chiến 
lược biển đến năm 2020 
 Hội nghị lần thứ tư ban Chấp hành 
Trung ương Đảng (khoá X) đã có quan 
điểm chỉ đạo: Mục tiêu tổng quát là đến 
năm 2020, phấn đấu đưa nước ta trở thành 
quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, 
bảo đảm vững chắc chủ quyền, quyền chủ 
quyền quốc gia trên biển, đảo, góp phần 
quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp 
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, làm cho đất 
nước giàu mạnh. Mục tiêu cụ thể là xây 
dựng và phát triển toàn diện các lĩnh vực 
kinh tế, xã hội, khoa học - công nghệ, tăng 
cường củng cố quốc phòng, an ninh. Phấn 
đấu đến năm 2020, kinh tế trên biển và 
ven biển đóng góp khoảng 53 – 55% tổng 
sản phẩm trong nước của cả nước. Giải 
quyết tốt các vấn đề xã hội, cải thiện một 
bước đáng kể đời sống nhân dân vùng biển 
và ven biển; có thu nhập bình quân đầu 
người cao gấp 2 lần so với thu nhập bình 
quân chung của cả nước. Cùng với xây 
dựng một số thương cảng quốc tế có tầm 
cỡ khu vực, hình thành một số tập đoàn 
kinh tế mạnh, sẽ xây dựng một số khu 
Khai thác nước biển sâu 33
kinh tế mạnh ở ven biển; xây dựng cơ 
quan quản lý nhà nước tổng hợp thống 
nhất về biển có hiệu lực, hiệu quả; mở 
rộng hợp tác quốc tế về biển. 
Những định hướng chiến lược cụ thể 
của Đảng về phát triển kinh tế biển đến 
năm 2020 trên một số lĩnh vực quan 
trọng là: 
- Đẩy mạnh công tác điều tra cơ bản về 
tài nguyên biển và bảo vệ môi trường 
biển; phát triển khoa học - công nghệ biển; 
xây dựng kết cấu hạ tầng biển gắn với phát 
triển mạnh các ngành dịch vụ; xây dựng 
tuyến đường ven biển, trong đó có một số 
đoạn cao tốc và các tuyến vận tải cao tốc 
trên biển; hình thành một số lĩnh vực kinh 
tế mạnh gắn với xây dựng các trung tâm 
kinh tế để ra biển, làm động lực thúc đẩy 
sự phát triển của đất nước. 
Đến năm 2020, phát triển thành công, 
có bước đột phá về kinh tế biển, ven biển 
gồm: khai thác, chế biến dầu khí; kinh tế 
hàng hải; khai thác và chế biến hải sản; 
phát triển du lịch biển và kinh tế hải đảo; 
xây dựng các khu kinh tế, các khu công 
nghiệp tập trung và khu chế xuất ven biển 
gắn với phát triển các khu đô thị ven biển. 
Trước mắt, tập trung đầu tư để phát triển 
du lịch biển, xây dựng cảng biển, phát 
triển công nghiệp đóng tàu, phát triển 
những ngành dịch vụ mũi nhọn như vận 
tải biển, các khu kinh tế ven biển; tạo các 
điều kiện cần thiết bảo đảm an ninh, an 
toàn cho người dân hoạt động, sinh sống 
trên biển, đảo và ở những vùng thường bị 
thiên tai. 
- Phát huy sức mạnh tổng hợp, giữ vững 
độc lập, chủ quyền, quyền chủ quyền, 
quyền tài phán, toàn vẹn lãnh thổ, lãnh 
hải, vùng trời Tổ quốc. Kết hợp chặt chẽ 
các hình thức, biện pháp đấu tranh chính 
trị, ngoại giao, pháp lý, kinh tế, quốc 
phòng trong quản lý vùng trời, bảo vệ 
biển, đảo của Tổ quốc gắn với thế trận an 
ninh nhân dân. Xây dựng lực lượng vũ 
trang, nòng cốt là hải quân, không quân, 
cảnh sát biển, biên phòng, dân quân tự vệ 
biển mạnh, làm chỗ dựa vững chắc cho 
ngư dân và các thành phần kinh tế sản 
xuất và khai thác tài nguyên biển. Sớm 
xây dựng chính sách đặc biệt để thu hút và 
khuyến khích mạnh mẽ nhân dân ra đảo 
định cư lâu dài và làm ăn dài ngày trên 
biển, phát triển kinh tế kết hợp làm nhiệm 
vụ bảo vệ vùng biển của Tổ quốc. 
 - Xây dựng tiềm lực khoa học - công 
nghệ biển đáp ứng yêu cầu sự nghiệp đổi 
mới, phục vụ hiệu quả quá trình công 
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đẩy 
mạnh nghiên cứu và hợp tác quốc tế trong 
lĩnh vực ứng dụng khoa học - công nghệ, 
phục vụ công tác điều tra cơ bản, dự báo 
thiên tai và khai thác tài nguyên biển; 
nhanh chóng nâng cao tiềm lực khoa học - 
công nghệ cho nghiên cứu và khai thác tài 
nguyên biển, đáp ứng được yêu cầu giai 
đoạn phát triển mới của đất nước. 
 - Phát triển mạnh hệ thống cảng biển 
quốc gia, xây dựng đồng bộ một số cảng 
đạt tiêu chuẩn khu vực và quốc tế, đặc biệt 
chú trọng các cảng nước sâu ở cả ba miền 
của đất nước, tạo những cửa mở lớn vươn 
ra biển thông thương với thế giới. Tăng 
cường đầu tư chiều sâu, cải tiến đồng bộ 
và hiện đại hoá cơ sở vật chất kỹ thuật, 
sớm khắc phục tình trạng lạc hậu về trình 
độ kỹ thuật - công nghệ các cảng; tăng 
nhanh năng lực bốc xếp hàng hoá, giảm 
thiểu tối đa chi phí, bảo đảm có sức cạnh 
tranh cao trong hội nhập kinh tế quốc tế. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 3/2013 34
Sớm hoàn chỉnh khai thác có hiệu quả hệ 
thống sân bay ven biển, xây dựng tuyến 
đường ven biển, v.v.. 
2. Giải pháp khai thác nước biển sâu 
a. Khai thác lợi thế các khu kinh tế ven 
biển Việt Nam. 
Hiện nay, Việt Nam có 18 khu kinh tế, 
phần lớn các khu kinh tế nằm dọc suốt 
theo chiều dài ven biển của quốc gia, từ 
tỉnh Quảng Ninh cho đến tỉnh Cà Mau bao 
gồm Chu Lai (Quảng Nam), Dung Quất 
(Quảng Ngãi), Nhơn Hội (Bình Định), 
Chân Mây-Lăng Cô (Thừa Thiên-Huế), 
Phú Quốc - Nam An Thới (Kiên Giang), 
Vũng Áng (Hà Tĩnh), Vân Phong (Khánh 
Hòa), Nghi Sơn (Thanh Hóa), Vân Đồn 
(Quảng Ninh), Đông Nam Nghệ An (Nghệ 
An), Đình Vũ - Cát Hải (Hải Phòng), Nam 
Phú Yên (Phú Yên), Hòn La (Quảng 
Bình), Định An (Trà Vinh), Năm Căn (Cà 
Mau), Đông Nam (Quảng Trị), Ven biển 
Thái Bình (Thái Bình), Ninh Cơ (Nam 
Định). Điều đó cho thấy, Việt Nam có khả 
năng rất lớn để phát triển ngành công 
nghiệp khai thác biển nước sâu ngay trong 
lòng các khu kinh tế ven biển. Ngoài ra, 
một số địa phương khác tuy chưa có khu 
kinh tế nhưng cũng có thể phát triển ngành 
công nghiệp này, như Thành phố Đà Nẵng 
trong chiến lược trở thành trung tâm kinh 
tế biển của Việt Nam. 
Rõ ràng rằng, khi phát triển ngành công 
nghiệp khai thác nước biển sâu, Việt Nam 
sẽ có các nhà máy khác phát triển từ loại 
nước chiết xuất này như ngành dược, 
ngành hóa mỹ phẩm, ngành chế biến thực 
phẩm, ngành nước khoáng chữa bệnh, bia, 
rượu cao cấp, muối tinh khiết,... Như vậy, 
hàng loạt các nhà máy khác mọc lên thành 
một “hiệu ứng” phát triển. 
Gần đây, Nước biển sâu Xisat của Tập 
đoàn Dược phẩm Merap (Merap Group) 
đã trở thành sản phẩm dung dịch vệ sinh 
mũi sản xuất tại Việt Nam đầu tiên được 
Bộ Y tế cấp phép sản xuất. Xisat cũng 
được đánh giá cao vì đó là dòng sản phẩm 
vệ sinh mũi duy nhất tại Việt Nam sử 
dụng nguồn nước biển sâu khai thác từ 
vùng biển Thái Bình, cách mặt nước biển 
gần 450m. Đây là dấu hiệu tốt cho Khu 
kinh tế ven biển Thái Bình trong công 
nghiệp khai thác nước biển sâu, tạo ra sức 
lan tỏa cho các khu kinh tế ven biển khác 
tại Việt Nam trong tương lai. 
b. Phát triển công nghiệp khai thác 
nước sâu ở các lĩnh vực phục vụ đời sống. 
Trên thực tế, các sản phẩm nước biển 
sâu mới chỉ biết đến tại Việt Nam ở lĩnh 
vực dược phẩm chữa bệnh thông thường. 
Trong khi đó, ngành công nghiệp nước 
đóng chai ở Việt Nam còn hạn chế. 
Việt Nam là thị trường tiêu thụ đầy 
tiềm năng. Bởi vì, trung bình mỗi người 
dân Việt Nam mới chỉ uống trên 20 lít 
nước giải khát đóng chai không cồn/năm, 
trong khi mức tiêu thụ trung bình của mỗi 
người dân ở các nước trên thế giới là trên 
40 lít/năm. Hơn nữa, tiêu chuẩn Việt Nam 
(TCVN) về nước đóng chai để uống giải 
khát cho con người thấp hơn nhiều về mặt 
chất lượng so với tiêu chuẩn Châu Âu. 
Các chỉ số sắt và mangan trong một lít 
nước sinh hoạt ở Châu Âu rất thấp (tốt) 
trong khi nước uống ở Việt Nam hai chỉ số 
này rất cao (không tốt). 
Ngoài ra, ngành hóa mỹ phẩm, ngành 
chế biến thực phẩm, ngành nước khoáng 
chữa bệnh, bia, rượu cao cấp, muối tinh 
khiết,.. đang là một khoảng trống rất lớn 
Khai thác nước biển sâu 35
trong chiến lược kinh tế biển của Việt 
Nam. Thị trường mỹ phẩm Việt Nam hiện 
đang được đánh giá có rất nhiều tiềm năng, 
nhu cầu lớn với doanh thu bình quân giai 
đoạn 2009 - 2011 là gần 130 - 150 triệu 
USD/năm, tốc độ doanh số bán ra tăng bình 
quân hơn 30%. 
Kết luận 
Có thể khẳng định rằng biển khai thác 
nước sâu là ngành công nghiệp mới và sẽ 
mang lại hiệu quả lớn lao trong chiến lược 
kinh tế biển hiện nay của nhiều quốc gia 
trên thế giới. Các quốc gia có thể chưa đầu 
tư nghiên cứu sâu cho lĩnh vực này. Tuy 
nhiên, ngoài Mỹ ra thì Nhật Bản và Hàn 
quốc là hai quốc gia đi tiên phong trong 
lĩnh vực công nghiệp này. Thiết nghĩ Việt 
Nam chúng ta không thể đứng ngoài cuộc 
và phải là người tiên phong trong khối 
ASEAN để nghiên cứu và phát triển ngành 
công nghiệp có triển vọng phát triển này. 
Với tiềm năng biển cả dồi dào, Việt Nam 
có quyền hy vọng trong tương lai không 
xa được gia nhập các quốc gia khai thác 
nước biển sâu tiên phong trên thế giới. 
___________________ 
Tài liệu tham khảo 
1. Nguyễn Thành Sơn, Phát triển công nghiệp 
khai khoáng biển.  
2. Tiềm năng và thực trạng phát triển kinh tế biển 
Việt Nam, Theo cucktbvnlts.gov.vn  
gioilanhtho.gov.vn/vie. 
3. Trần Đình Thiên, Về chiến lược kinh tế biển của 
Việt Nam. Tạp chí Tia sáng, số ra ngày 29/6/2011. 
4. Kailua - Kona, Hawaii Japan thirsty for 
Hawaiian deep-sea water-October 2004 U.S. Water 
News Online. 
5. Deep ocean water From Wikipedia, the free 
encyclopedia.  
ocean_ water. 
6. Understanding deep sea water and its future in 
the worldwide marketplace.  
technology.net/deepseawater.html.

File đính kèm:

  • pdfkhai_thac_nuoc_bien_sau_nganh_cong_nghiep_tiem_nang_cua_viet.pdf