Khai thác giá trị của thực hành then trong phát triển du lịch từ kinh nghiệm một số loại hình diễn xướng dân gian

Không chỉ là một nghi lễ tâm linh, từ góc nhìn nghệ thuật, thực hành Then của các dân tộc thiểu số

Thái, Tày, Nùng còn là một loại hình văn nghệ dân gian độc đáo. Bằng phương pháp phân tích tư

liệu, so sánh đối chiếu, phỏng vấn sâu, bài viết đã chỉ ra thế mạnh và hạn chế của diễn xướng dân

gian Việt Nam với tư cách một nguồn tài nguyên du lịch. Từ kinh nghiệm phát triển du lịch dựa

vào nghệ thuật cổ truyền (qua trường hợp Xẩm, Chầu văn, Ca Huế ), nhóm tác giả đề xuất ý

tưởng tạo ra một số sản phẩm du lịch độc đáo gắn với diễn xướng Then. Kết quả của nghiên cứu

có tính ứng dụng, góp phần đa dạng hóa sản phẩm du lịch khu vực miền núi phía Bắc.

pdf 8 trang phuongnguyen 180
Bạn đang xem tài liệu "Khai thác giá trị của thực hành then trong phát triển du lịch từ kinh nghiệm một số loại hình diễn xướng dân gian", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Khai thác giá trị của thực hành then trong phát triển du lịch từ kinh nghiệm một số loại hình diễn xướng dân gian

Khai thác giá trị của thực hành then trong phát triển du lịch từ kinh nghiệm một số loại hình diễn xướng dân gian
 TNU Journal of Science and Technology 225(10): 61 - 68 
 Email: jst@tnu.edu.vn 61 
KHAI THÁC GIÁ TRỊ CỦA THỰC HÀNH THEN TRONG PHÁT TRIỂN 
DU LỊCH TỪ KINH NGHIỆM MỘT SỐ LOẠI HÌNH DIỄN XƯỚNG DÂN GIAN 
Nguyễn Thị Suối Linh*, Lê Thị Anh, Nguyễn Ngọc Lan 
 Trường Đại học Khoa học - ĐH Thái Nguyên 
TÓM TẮT 
Không chỉ là một nghi lễ tâm linh, từ góc nhìn nghệ thuật, thực hành Then của các dân tộc thiểu số 
Thái, Tày, Nùng còn là một loại hình văn nghệ dân gian độc đáo. Bằng phương pháp phân tích tư 
liệu, so sánh đối chiếu, phỏng vấn sâu, bài viết đã chỉ ra thế mạnh và hạn chế của diễn xướng dân 
gian Việt Nam với tư cách một nguồn tài nguyên du lịch. Từ kinh nghiệm phát triển du lịch dựa 
vào nghệ thuật cổ truyền (qua trường hợp Xẩm, Chầu văn, Ca Huế), nhóm tác giả đề xuất ý 
tưởng tạo ra một số sản phẩm du lịch độc đáo gắn với diễn xướng Then. Kết quả của nghiên cứu 
có tính ứng dụng, góp phần đa dạng hóa sản phẩm du lịch khu vực miền núi phía Bắc. 
Từ khóa: Thực hành Then; tín ngưỡng; dân ca; tài nguyên du lịch; sản phẩm đặc trưng. 
Ngày nhận bài: 16/7/2020; Ngày hoàn thiện: 04/9/2020; Ngày đăng: 09/9/2020 
EXPLOITING THE VALUE OF THEN PRACTICE IN TOURISM DEVELOPMENT 
BASED ON EXPERIENCE OF SOME TYPES OF FOLK PERFORMANCE 
Nguyen Thi Suoi Linh
*
, Le Thi Anh, Nguyen Ngoc Lan 
 TNU - University of Sciences 
ABSTRACT 
The Then practice of Vietnam’s Tay, Nung and Thai ethnic groups not only is a ritual but also a 
folk art. By the method of document analysis, comparison, in-depth interview, the article has 
pointed out the strengths and limitations of Vietnamese folk performance as a tourism resource. 
From the experience of developing tourism based on traditional art (through the case of Xam, 
Chau van, Hue traditional folk song...), the authors has proposed some solutions and ideas for 
unique tourism products associated with Then performance. The research results contributed to 
diversifying tourism products in the Northern mountainous region. 
Keywords: The Then practice; beliefs; folk songs; tourism resources; featured products. 
Received: 16/7/2020; Revised: 04/9/2020; Published: 09/9/2020 
* Corresponding author. Email: linhnts@tnus.edu.vn
Nguyễn Thị Suối Linh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(10): 61 - 68 
 Email: jst@tnu.edu.vn 62 
1. Đặt vấn đề 
Văn nghệ dân gian nói chung, diễn xướng dân 
gian nói riêng là bộ phận quan trọng cấu 
thành nên khuôn diện văn hóa của một cộng 
đồng. Ra đời trong môi trường dân gian, xuất 
phát từ sự thăng hoa của cảm xúc, ca xướng 
không chỉ có giá trị nghệ thuật mà còn phản 
ánh những đặc trưng văn hóa, xã hội. Trong 
quá trình khai thác các yếu tố văn hóa dân 
gian phục vụ phát triển du lịch ở một địa 
phương, diễn xướng dân gian luôn được coi là 
nguồn tài nguyên giàu giá trị. Tuy nhiên, 
không phải lúc nào việc khai thác này cũng 
đem lại hiệu quả, nhất là với những loại hình 
dân ca mang tính đặc thù, vốn chỉ giới hạn 
trong những không gian nhất định, gắn với 
những cộng đồng nhất định và phổ biến ở 
những giai đoạn lịch sử nhất định. 
Sau khi được vinh danh là di sản văn hóa phi 
vật thể đại diện của nhân loại (13/12/2019), 
thực hành Then có điều kiện để đến gần hơn 
với các cộng đồng ngoài phạm vi văn hóa 
Thái, Tày, Nùng, thông qua nhiều hình thức 
khác nhau, trong đó có hoạt động du lịch. 
Trên thực tế, không phải chỉ đến thời điểm 
này, Then mới được đưa vào khai thác phục 
vụ du khách, song vẫn chưa nhiều sản phẩm 
độc đáo, ấn tượng trên nền di sản Then. Cũng 
như nhiều loại hình diễn xướng dân gian 
khác, Then có thế mạnh, đồng thời mang hạn 
chế nhất định, đặt dưới góc nhìn của hoạt 
động khai thác du lịch. Để có định hướng, ý 
tưởng phát triển các sản phẩm đặc sắc, việc 
tham khảo kinh nghiệm của các mô hình khác 
là rất cần thiết. 
2. Nội dung 
2.1. Khái quát về diễn xướng dân gian 
Diễn xướng dân gian nảy sinh trong đời sống 
lao động, tình cảm, tín ngưỡng tôn giáo và các 
sinh hoạt văn hóa cộng đồng. Nó là tổng thể 
các phương thức nghệ thuật, cùng thể hiện 
đồng nhất giữa ca hát và hành động theo chiều 
thẩm mĩ. Xét về cấu trúc, diễn xướng dân gian 
bao gồm các bộ phận: 1- Phần hát, nói 
(xướng): là bộ phận biểu hiện lời ca tiếng hát 
thành những làn điệu, cách nói, xét về mặt biểu 
hiện của âm thanh và giai điệu; 2- Phần động 
tác, trình diễn (diễn): là cách thể hiện bằng 
những điệu múa, cử chỉ, phong cách, cấu trúc 
không gian biểu diễn, giúp cho những giá trị 
trong lời được biểu hiện ra, tạo yếu tố thẩm mĩ; 
3- Phần âm nhạc: có giá trị phối hợp, như một 
mối liên kết và hỗ trợ, làm tăng thêm hiệu quả 
của toàn bộ quá trình diễn xướng. 
Ngay từ tên gọi, diễn xướng dân gian đã thể 
hiện rõ bản chất nguyên hợp với sự hòa trộn 
nhuần nhuyễn của các yếu tố: dân ca, dân vũ, 
nghi lễ, động tác, trò diễn, âm nhạc bổ trợ. 
Sự nguyên hợp còn thể hiện qua các góc độ 
khác như đối tượng biểu diễn và thưởng thức 
đôi khi không có sự phân định; tiết mục biểu 
diễn và không gian, thời gian biểu diễn gắn 
kết khó tách rời. Đây là điểm hấp dẫn, song 
cũng là hạn chế trong quá trình dàn dựng, 
sân khấu hóa một tiết mục phục vụ cho hoạt 
động du lịch. 
Diễn xướng dân gian ở Việt Nam rất đa dạng, 
phong phú với nhiều cách phân loại. Xét theo 
không gian diễn xướng, có các hình thức dân 
ca gắn với không gian sinh hoạt cộng đồng (lễ 
hội, chợ, không gian lao động sản xuất tập 
thể, trò chơi dân gian...), không gian biểu diễn 
lưu động chuyên nghiệp (các gánh hát, 
phường Chèo, nhóm Xẩm), không gian tín 
ngưỡng, tôn giáo. Xét theo phạm vi địa lý, có 
vùng dân ca miền núi phía Bắc (Khặp, Hạn 
khuống, Sắc bùa, Then, Sli, Lượn, Hà lều, 
Rối cạn, Soọng cô...), vùng dân ca đồng bằng, 
trung du Bắc Bộ (Xoan, Chèo, Xẩm, Trống 
quân, Quan họ, Ca trù, Rối nước...), vùng dân 
ca Trung bộ (Hò, Ví, Giặm, Ca Huế, Lí, Bài 
chòi, Bả trạo, Múa bóng...), vùng dân ca Tây 
Nguyên (dân ca Bana, Xơđăng, Êđê, K’ho...), 
vùng dân ca Nam bộ (Hò, Lí, Đờn ca tài tử, 
Sắc bùa...) [1]. 
Như vậy, có thể thấy, trong cùng một khu vực 
địa lí tồn tại nhiều loại hình diễn xướng dân 
ca, và ngược lại, một loại dân ca có thể xuất 
hiện ở nhiều địa phương (do đặc trưng địa lí, 
sinh kế tương đồng hoặc do quá trình di dân, 
tiếp xúc văn hóa). Không gian diễn xướng 
Nguyễn Thị Suối Linh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(10): 61 - 68 
 Email: jst@tnu.edu.vn 63 
cũng không đóng khung mà mở rộng đa dạng. 
Giữa các loại hình dân ca lại có sự vay mượn, 
tiếp biến về câu từ, làn điệu, động tác, tích 
truyện... Tất cả tạo nên một bức tranh tổng thể 
đa dạng, vừa lạ lẫm, vừa quen thuộc. Đây 
chính là một lợi thế để khai thác trong lĩnh 
vực du lịch văn hóa. 
Ngoài chức năng thẩm mĩ, diễn xướng dân ca 
có nhiều giá trị trong đời sống cá nhân và 
cộng đồng như: giải tỏa áp lực cuộc sống mưu 
sinh, thổ lộ tình cảm, xây dựng niềm cộng 
cảm trong cộng đồng xã hội (qua các hình 
thức diễn xướng tập thể mang tính giao lưu), 
giao tiếp (chào hỏi khi đến nhà, mời rượu, 
phong tục cưới hỏi, vào nhà mới...), tín 
ngưỡng tôn giáo (hát đám ma, nghi lễ...). Ở 
Then, ta có thể nhận diện được tất cả những 
giá trị này. Trước hết, Then ra đời trong môi 
trường tín ngưỡng dân gian, nó là một dạng 
thức bài ca nghi lễ (tương tự như Chầu văn 
của người Kinh, Chá của người Thái, Mỡi của 
người Mường, Hát Bả trạo, Múa bóng của cư 
dân miền biển và người Chăm Trung bộ...). 
Đồng bào Tày, Nùng, Thái tin rằng, qua việc 
diễn tả hành trình thầy Then điều khiển đoàn 
âm binh từ Mường Đất lên Mường Trời để 
dâng lễ vật, người ta có thể thực hiện được ước 
mơ giao tiếp với thần linh, cầu xin những điều 
may mắn cho bản thân và cộng đồng thôn 
xóm. Vì vậy, mới có Then đón tướng, khai 
bươn, kỳ an, cấp sắc, chữa bệnh[2]. Cũng 
như nhiều dạng thức diễn xướng tâm linh khác, 
trong quá trình phát triển, Then nghi lễ đã ăn 
sâu vào đời sống dân gian, phân nhánh đa dạng 
như: hát Then trong đám cưới, lễ hội, trong 
giao tiếp hàng ngày, trong đời sống chính trị xã 
hội (tuyên truyền, vận động). Đặc biệt phải kể 
đến Then biểu diễn, mang đậm yếu tố sân 
khấu, như một đặc trưng của nghệ thuật dân 
gian vùng núi phía Bắc. 
2.2. Kinh nghiệm khai thác một số loại hình 
diễn xướng dân gian trong hoạt động du 
lịch ở Việt Nam 
Khai thác giá trị nghệ thuật truyền thống 
nhằm phát triển du lịch là định hướng kinh tế 
xã hội của nhiều địa phương, dựa trên nguồn 
lực tài nguyên nhân văn sẵn có. Trong “kịch 
bản” chiến lược của mình, địa phương và các 
doanh nghiệp du lịch thường khai thác tối đa 
các đặc sắc văn hóa dân gian, trong đó luôn 
có nghệ thuật diễn xướng truyền thống. Từ 
Bắc vào Nam, loại hình văn nghệ dân gian đã 
lần lượt trở thành sản phẩm du lịch. Mặc dù 
áp dụng rộng khắp, song không phải mô hình 
nào cũng đạt được hiệu quả bởi diễn xướng 
dân gian gắn với đặc trưng văn hóa của một 
cộng đồng cụ thể. Có những giá trị mà chỉ 
trong môi trường văn hóa của nó, người ta 
mới cảm thụ được. Về mặt tâm lý cảm thụ âm 
nhạc, khán giả không dễ hứng khởi với những 
điệu nhạc chưa “quen tai”. Mặt khác, một bộ 
phận các loại hình diễn xướng lại có âm 
hưởng buồn, tiết tấu đều đặn, động tác đơn 
điệu lặp đi lặp lại, tạo cảm giác lê thê, buồn 
chán. Khi bản thân diễn xướng chưa tạo nên 
sức hút, thì các hoạt động liên quan như: dạy 
hát dân ca, tham gia hát đối đáp, thi hát múa, 
viếng tổ nghề, thăm nhà nghệ nhân cũng sẽ 
khó có sức hấp dẫn du khách. Thêm vào đó, 
dân ca chỉ đem đến những rung cảm thẩm mĩ 
trọn vẹn khi được đặt trong không gian truyền 
thống, trong sự tương tác của một loạt các yếu 
tố liên quan như thời gian, không gian, khán 
giả. Khi lồng ghép trong các chương trình du 
lịch, diễn xướng dân ca có thể bị ngắt khỏi 
môi trường tự nhiên với những ràng buộc hữu 
cơ của nó. Việc phát triển các loại hình diễn 
xướng tín ngưỡng (bài ca nghi lễ) thành diễn 
xướng sân khấu thông thường (như hát Văn 
và hát Then biểu diễn) đã từng vấp phải 
những tranh luận trái chiều với hai luồng ý 
kiến: một bên cho rằng đó là sự phát triển tự 
nhiên của nghệ thuật, giúp dân ca dễ phổ 
biến, đến gần cộng đồng, thích ứng với thị 
hiếu đời sống; một bên e ngại làm mai một 
giá trị văn hóa gốc, điều mà Luật di sản đã 
nhấn mạnh: Bảo tồn, phát triển di sản phải đặt 
ra tiêu chí hàng đầu là bảo tồn yếu tố văn hóa 
gốc [3]. 
Sự khó khăn khi khai thác dân ca phục vụ du 
lịch còn đến từ nguyên nhân khách quan phía 
Nguyễn Thị Suối Linh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(10): 61 - 68 
 Email: jst@tnu.edu.vn 64 
du khách. Với dòng khách nội địa, tỷ lệ 
những người yêu thích, hứng thú với nghệ 
thuật dân tộc không cao (điều này đã được 
khẳng định trong nhiều cuộc khảo sát). Du 
khách có thể thích thú mặc một bộ áo tứ thân, 
cầm cây đàn tính để chụp ảnh, song không 
nhiều người ngồi xem hết buổi biểu diễn hay 
tìm hiểu kỹ về lịch sử, đặc điểm, cách chế tác, 
sử dụng nhạc cụ dân tộc. Khách quốc tế bất 
đồng ngôn ngữ, không hiểu rõ về tập tính văn 
hóa, cũng khó cảm nhận hết vẻ đẹp của diễn 
xướng truyền thống, nếu thiếu người thuyết 
minh sâu sắc. Vượt qua những hạn chế trên, 
một số địa phương, đơn vị đã có hướng đi 
hiệu quả trong chiến lược bảo tồn di sản và 
khai khác di sản trong phát triển du lịch. Tác 
giả lấy ví dụ minh họa với một số trường hợp: 
Trường hợp 1: Xẩm Hà Thành và cuộc cách 
mạng tự làm mới để chủ động tiếp cận khán 
giả: Xẩm là hình thức dân ca gắn với không 
gian biểu diễn đặc biệt và những nghệ nhân 
có số phận đặc biệt - những người khiếm thị 
dùng tiếng hát để mưu sinh nơi “đầu đường 
xó chợ”. Trong hoàn cảnh ấy, xẩm vốn dĩ có 
giai điệu buồn, thậm chí nẫu nề, lời ca thể 
hiện những tâm sự day dứt về cuộc sống. 
Nghệ nhân Xẩm không được “áo thắm má 
hồng” mà vận nguyên áo nâu rách vá, kèm 
với “thau nát chiếu manh”. Nhạc cụ gắn liền 
với xẩm là cây đàn nhị với những tiếng đàn 
“run bần bật trong đêm” như cách miêu tả của 
cây bút Thạch Lam hồi đầu thế kỷ XX. 
Tuy nhiên, cũng bởi đặc trưng là nghệ thuật 
mang yếu tố “đường phố”, phải chủ động tìm 
kiếm công chúng phục vụ cho mục đích mưu 
sinh, nên Xẩm đã sớm thích nghi: chuyển từ 
chợ quê (Xẩm chợ) sang đô thị (Xẩm tàu 
điện). Một số điệu Xẩm được cải biên, đặt lời 
để thích nghi với không khí rộn ràng nơi phố 
xá, đem đến niềm vui cho người nghe, hơn là 
kể chuyện tâm sự buồn của bản thân mình. 
Hiện tại, trong khi nhiều nhà hát ca múa nhạc 
dân tộc đìu hiu vì khán giả trẻ quay lưng thì 
một số nhóm Xẩm hình hành tự phát song lại 
duy trì hoạt động theo hướng “chuyên nghiệp 
hóa” một cách ổn định như câu lạc bộ Xẩm 
Hà Thị Cầu, Xẩm Hải Phòng, Xẩm Hà 
Thành... Trong số đó, du khách thủ đô và 
cộng đồng mạng đã khá quen thuộc với nhóm 
Xẩm Hà Thành cùng những suất diễn đều đặn 
vào tối thứ 7 hàng tuần trên phố cổ và các 
MV nghệ thuật phục dựng làn điệu dân ca 
truyền thống với những hình thức mới mẻ. 
“Làm mới di sản cũ” là hướng đi mà Xẩm Hà 
Thành theo đuổi và thu nhận được thành 
công. Sự làm mới này thể hiện trên nhiều 
phương diện như: 
- Kết hợp giữa yếu tố truyền thống với đặc 
trưng văn hóa phương Tây để tạo dựng không 
gian biểu diễn độc đáo, phù hợp trong khai 
thác du lịch: nghệ thuật đường phố. Hình ảnh 
nhóm nghệ sĩ biểu diễn say mê dưới tượng 
đài vua Lê Thái Tổ vừa gợi nhớ về không khí 
“xẩm chợ” một thời, song lại phảng phất nét 
lãng tử của những nghệ sĩ du ca ở một nền 
văn hóa đầy lạ lẫm với du khách Việt. 
- Khai thác tính thời sự trong lời thơ dân ca, 
tạo ra những tác phẩm âm nhạc gây chú ý, 
đem đến thích thú cho khán giả nhiều lứa 
tuổi, như “Xẩm Trà đá”, “Xẩm Rượu bia tối kị 
lái xe” 
- Thông qua các tiết mục, quảng bá về tinh 
hoa văn hóa Hà Thành (Xẩm Tứ vị Hà Thành, 
Hà Thành ba sáu phố phường, Bốn mùa hoa 
Hà Nội). Do vậy, sản phẩm dễ dàng lồng 
ghép vào các sự kiện văn hóa, nghệ thuật 
khác, rút ngắn khoảng cách đến công chúng. 
- Đẩy cao yếu tố nghệ thuật trong các sản 
phẩm âm nhạc với sự đầu tư nghiêm túc và tỉ 
mỉ từ kịch bản, cảnh quay, trang phục, diễn 
viên. Yếu tố thẩm mĩ, điều vốn không được 
khai thác ở di sản truyền thống đã phát huy 
tác dụng trong môi trường hiện đại. 
Trường hợp 2: Vở diễn Tứ Phủ: Bước đột 
phá với nghệ thuật thực cảnh 
Thờ Mẫu là loại hình tín ngưỡng dân gian đặc 
trưng của người Việt, thể hiện lòng sùng bái 
của cư dân nông nghiệp với các hiện tượng tự 
nhiên bốn cõi (trời, đất, nước, rừng núi) hóa 
Nguyễn Thị Suối Linh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(10): 61 - 68 
 Email: jst@tnu.edu.vn 65 
thân thành hình tượng người Mẹ. Thực hành 
tín ngưỡng Thờ Mẫu Tứ Phủ là tổ hợp nhiều 
hành vi tín ngưỡng và lễ thức độc đáo, trong 
đó đặc sắc nhất là nghi lễ Hầu bóng: nghi thức 
giáng đồng, nhập hồn của các thần thánh trong 
hệ thống điện thần thờ Mẫu vào thân xác ông 
Đồng, bà Đồng để nghe lời cầu xin, phán 
truyền, ban phúc lộc cho con nhang đệ tử. 
Là một hình thức sinh hoạt tín ngưỡng tổng 
hợp, giàu giá trị nghệ thuật, diễn xướng Hầu 
bóng, âm nhạc Chầu văn (giai điệu và lời hát 
trong quá trình giáng đồng) được nhiều người 
ưa thích, dù từng gặp phải những định kiến về 
một hình thức hoạt động mê tín dị đoan. Giáo 
sự âm nhạc Trần Văn Khê, người đầu tiên đưa 
âm nhạc cổ truyền Việt Nam ra thế giới từng 
nhấn mạnh: Hầu bóng là loại hình diễn xướng 
dân gian Việt Nam phù hợp với thị hiếu thẩm 
âm của người nước ngoài và là một trong 
những hình thức cổ nhạc được yêu thích nhất 
[4]. Từ góc nhìn du lịch, Hầu bóng và Chầu 
văn (hát Văn) đã được khai thác nhiều năm, 
gắn với hoạt động du lịch tâm linh nơi cửa 
đền, cửa phủ. Sau khi Thực hành tín ngưỡng 
Tứ Phủ được UNESCO vinh danh, đạo diễn 
Nguyễn Việt Tú đã xây dựng vở diễn “Tứ 
Phủ” bằng nghệ thuật thực cảnh quy mô, ấn 
tượng, thu hút đông đảo du khách. 
Nghệ thuật sân khấu thực cảnh là loại hình 
biểu diễn được thực hiện dựa trên cảnh quan 
thực tế ngoài trời, bao gồm các yếu tố thiên 
nhiên như sông hồ, biển cả, núi rừng, đình 
chùa... hài hòa với đời sống, lịch sử của con 
người bản địa [5]. Đồng thời, đây cũng là 
hình thức nghệ thuật kết hợp chất liệu sân 
khấu truyền thống với hiệu ứng âm thanh, ánh 
sáng hiện đại làm tăng độ chân thật. Sân khấu 
nghệ thuật thực cảnh có thể được coi là một 
bước phát triển vượt bậc trong việc khai thác 
nghệ thuật để thúc đẩy du lịch, quảng bá hình 
ảnh địa phương. Nhờ đó, giúp người nước 
ngoài không chỉ biết đến Việt Nam qua các 
loại hình nghệ thuật quen thuộc mà còn giúp 
cho người Việt Nam có cơ hội tiếp cận với 
loại hình nghệ thuật mới để khẳng định bản 
sắc văn hóa dân tộc mình. Ở Việt Nam, vở 
diễn “Thuở ấy xứ Đoài” của đạo diễn Việt Tú 
tại Khu du lịch Sài Sơn, Hà Nội, ra mắt tháng 
6/2017 được coi là chương trình nghệ thuật 
thực cảnh đầu tiên khiến nhiều người ngỡ 
ngàng. Kế đến, vở “Tinh hoa Bắc bộ” của đạo 
diễn Hoàng Nhật Nam (tác phẩm phái sinh của 
“Thuở ấy xứ Đoài”) ra mắt cuối tháng 
10/2017, được vinh danh ở ngôi vị cao nhất 
hạng mục “Đổi mới trong Truyền thông, 
Truyền thông thị giác và Giải trí trực quan”, tại 
Giải thưởng Stevie châu Á - Thái Bình Dương. 
Chương trình thực cảnh “Ký ức Hội An” tại 
Quảng Nam sở hữu không gian biểu diễn lên 
tới 25.000 m2, gần 500 diễn viên tham gia và 
có khả năng phục vụ 3.300 khán giả. 
Việc xây dựng vở diễn Tứ Phủ - thực cảnh 
thứ tư ở Việt Nam, góp phần đưa tinh hoa di 
sản văn hóa tín ngưỡng Thờ Mẫu đến gần 
cộng đồng, đồng thời, tạo ra sản phẩm du lịch 
văn hóa đặc sắc. Trên website chính thức, 
thực cảnh Tứ Phủ được khẳng định với ý 
nghĩa văn hóa - du lịch, không chỉ đóng vai 
trò tạo cảm xúc cho người xem thông qua 
thính giác, âm nhạc trong vở diễn Tứ Phủ 
chính là con đường dẫn dắt khán giả qua 
những trải nghiệm khác nhau về văn hóa, con 
người và lịch sử Việt Nam. Vở diễn có địa 
điểm thuận lợi tại trung tâm thủ đô Hà Nội, 
gần các di tích văn hóa, thời lượng hợp lý sẽ 
mang đến trải nghiệm văn hóa Việt không thể 
quên cho du khách. Nhiều công ty lữ hành du 
lịch nước ngoài đã đặt hàng và coi “Tứ Phủ” 
là một sản phẩm du lịch đáng quan tâm khi 
đến Hà Nội. 
Nói về kinh nghiệm khai thác di sản văn hóa 
trong phát triển du lịch sau thành công của 
“Thuở ấy xứ Đoài” và “Tứ Phủ”, đạo diễn 
Việt Tú nhấn mạnh điểm then chốt muốn ra 
được với toàn cầu, người nghệ sĩ cần có sự 
nhận diện địa phương, nghĩa là bám chặt vào 
cái bản sắc, hồn cốt văn hóa (và để đảm bảo 
hồn cốt ấy, trong các vở thực cảnh, anh luôn 
ưu tiên dùng diễn viên là nghệ nhân và những 
người nông dân thực sự). Bên cạnh đó, đạo 
Nguyễn Thị Suối Linh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(10): 61 - 68 
 Email: jst@tnu.edu.vn 66 
diễn nhận định: Phải làm văn hóa một cách 
văn hóa, văn hóa có thể mang tính địa phương 
nhưng ngôn ngữ phải toàn cầu. Ngôn ngữ 
toàn cầu có thể phá bỏ mọi rào cản để chạm 
tới cảm xúc người xem. Điều này có thể được 
hiểu ở hai cấp độ. Thứ nhất, ngôn ngữ (lời ca, 
lời thoại, thuyết minh) trong vở diễn cần được 
thông dịch giúp khách nước ngoài nắm được 
tinh thần vở diễn. Thứ hai, cần cân nhắc kết 
hợp giữa các tinh hoa truyền thống với 
phương tiện, biểu tượng nghệ thuật toàn cầu, 
bởi nghệ thuật, ở một phương diện nhất định, 
cũng có chức năng truyền tải thông tin, như 
một dạng thức ngôn ngữ đặc biệt. 
Trường hợp 3: Ca Huế trên sông Hương - 
bài học về việc giữ gìn không gian diễn 
xướng truyền thống. 
Sông Hương - dòng sông thuộc về một tỉnh 
duy nhất - đã trở thành linh hồn xứ Huế. Gần 
như mọi thú vui của người Huế đều gắn bó với 
dòng Hương giang, nơi cội nguồn nảy sinh và 
hội tụ của bao sinh hoạt văn hóa đất cố đô này. 
Âm nhạc Huế cũng không nằm ngoài quỹ đạo 
ấy. Huế vốn là vùng dân ca nổi tiếng với 
những điệu hò mái nhì mái đẩy, những điệu lí 
bay bổng, mượt mà. Huế còn có một dòng âm 
nhạc cung đình trang trọng. Ca Huế nằm giữa 
hai dòng nhạc ấy với chất trữ tình sâu lắng, 
hàm chứa bao hỷ, nộ, ái, ố trong cuộc đời 
người dân cố đô. Cũng như đua thuyền, ngủ 
đò, thả thơ, ca Huế dường như gắn chặt lấy 
dòng sông Hương mà sinh tồn trong suốt mấy 
thế kỷ. Hoàng Phủ Ngọc Tường trong Bút ký 
tài hoa “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” đã 
khẳng định về sự gắn bó máu thịt không thể 
tách rời giữa ca Huế với không gian diễn 
xướng truyền thống của nó: “Hình như trong 
khoảnh khắc chùng lại của sông nước ấy, sông 
Hương đã trở thành một người tài nữ đánh 
đàn lúc đêm khuya. Đã nhiều lần tôi thất vọng 
khi nghe nhạc Huế giữa ban ngày hoặc trên 
sân khấu nhà hát. Quả đúng như vậy, toàn bộ 
nền âm nhạc cổ điển Huế đã được sinh thành 
trên mặt nước của dòng sông này, trong một 
khoang thuyền nào đó, giữa tiếng nước rơi bán 
âm của những mái chèo khuya”. 
Trong khai thác du lịch Huế, trải nghiệm ngồi 
thuyền rồng nghe ca Huế trở thành “món ăn” 
quen thuộc, như một mặc định văn hóa, rằng 
đã đến Huế phải nghe ca Huế sông Hương và 
chỉ nghe ca Huế trên sông Hương. Khai thác 
dân ca trong du lịch cần sự mới lạ song nét 
truyền thống mang tính chất bản sắc, hồn cốt 
văn hóa sẽ phát huy hiệu quả nếu được bảo 
tồn trong một không gian nguyên vẹn. 
3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả khai 
thác giá trị của Then trong hoạt động du 
lịch khu vực miền núi phía Bắc 
Trong kinh doanh du lịch địa phương, một 
sản phẩm mang tính đặc thù có ý nghĩa quan 
trọng góp phần tạo nên bước đột phá. Đó là 
sản phẩm “mang ý nghĩa khác biệt, độc đáo 
và đặc sắc so với sản phẩm du lịch thông 
thường, nhằm thu hút du khách, mở rộng thị 
trường du lịch, khai thác tốt tài nguyên du 
lịch, các tiềm năng, lợi thế của địa phương để 
phát triển du lịch một cách bền vững” [6]. Đối 
với khu vực miền núi phía Bắc, nơi cư trú tập 
trung của nhóm dân tộc Thái, Tày, Nùng, 
Then là một trong những yếu tố có thể tạo ra 
tính chất đặc trưng ấy. 
Từ kinh nghiệm của Xẩm, Hầu bóng, Ca Huế, 
có thể thấy, trong khai thác diễn xướng dân ca 
phục vụ hoạt động du lịch, cả hai yếu tố 
truyền thống và mới lạ nếu được áp dụng hợp 
lý, dựa trên việc tôn trọng đặc trưng, bản sắc 
của mỗi loại hình dân ca, thì đều đem lại hiệu 
quả theo những cách khác nhau: đột phá như 
“Tứ phủ”, “Xẩm Hà Thành” hay lặng lẽ mà 
bền bỉ sinh sôi như Ca Huế, Đờn ca tài tử, Hò 
sông nước Nam bộ... Thực hành Then, ở cả 
dạng thức nguyên mẫu gắn với môi trường tín 
ngưỡng hay dạng thức phát triển mang màu 
sắc biểu diễn nghệ thuật cộng đồng đều có giá 
trị riêng và thế mạnh trong khai thác du lịch. 
Một trong những thế mạnh nổi bật nhất là sự 
hấp dẫn, lôi cuốn trong làn điệu và sự linh 
hoạt trong cách thức diễn xướng. Từ tầm khái 
quát và vĩ mô, các nhà quản lý văn hóa, 
nghiên cứu du lịch đã đưa ra những giải pháp 
tổng thể cho Then - như một tài nguyên du 
Nguyễn Thị Suối Linh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(10): 61 - 68 
 Email: jst@tnu.edu.vn 67 
lịch nhân văn. Ở bài viết này, tác giả đề xuất 
một số giải pháp khai thác giá trị Then nhằm 
phát triển hoạt động du lịch vùng núi phía 
Bắc như sau: 
Thứ nhất, khai thác Then trong sự phát triển 
du lịch cộng đồng của địa phương. Then sẽ là 
sản phẩm du lịch được cung ứng từ cộng 
đồng, nhằm đáp ứng nhu cầu trải nghiệm giá 
trị nghệ thuật truyền thống. Trong mỗi bản 
làng có thể thành lập nhiều đội Then, đáp ứng 
nhu cầu của du khách khi vào mùa vụ. Lưu ý 
rằng, cần phát triển Then trong một chỉnh thể 
của nhiều sản phẩm du lịch khác để có thể tạo 
sự cộng hưởng văn hóa. Song hành với Then 
là những trải nghiệm về ẩm thực, trò chơi dân 
gian, hoạt động canh tác nông nghiệp nhằm 
đa dạng hóa sản phẩm du lịch, kéo dài thời 
gian tham quan của du khách. 
Thứ hai, cần sưu tầm, chọn lựa những làn 
điệu hấp dẫn, dễ nghe, mang đậm đặc trưng 
truyền thống làm nhạc nền cho các không 
gian văn hóa, du lịch cộng đồng ở địa 
phương, góp phần tạo ra “khí vị thính giác”, 
để du khách mỗi khi đặt chân đến Tây Bắc, 
Việt Bắc đều chìm trong không khí của Then 
và mỗi khi nghe giai điệu Then sẽ liên tưởng 
đến không gian văn hóa vùng cao. Đó là cách 
tạo ra “sản phẩm du lịch đặc trưng”, điều mà 
nhiều địa phương đang thiếu. 
Thứ ba, cần tăng tính nghệ thuật và mở rộng 
phạm vi truyền thông cho Then theo cách vừa 
đảm bảo bản sắc truyền thống, vừa phù hợp 
với thị hiếu xã hội. Đây là hướng đi chung 
của nhiều loại hình nghệ thuật. Hiện nay, nếu 
tìm hiểu về Then qua các công cụ tìm kiếm 
truyền thông phổ biến, người dùng chỉ thu 
được những kết quả tản mạn, khó lọc lựa 
trong đó những sản phẩm tinh hoa. Nên 
chăng, các câu lạc bộ Then và đơn vị nghệ 
thuật chuyên nghiệp có thể theo hướng đi của 
Xẩm Hà Thành, chủ động tìm đến khán giả 
bằng những sản phẩm nghệ thuật đã được dàn 
dựng, đầu tư bài bản, có tính hấp dẫn. Khi 
khai thác Then trong hoạt động du lịch, ta có 
thể có cái nhìn rộng mở, coi nó như một sản 
phẩm hàng hóa đặc biệt. Khi công chúng biết 
đến Then nhiều hơn, thấu hiểu và thích thú 
với nghệ thuật diễn xướng đặc biệt này, họ có 
thể tăng động lực để tìm kiếm những tour du 
lịch tìm về cội nguồn nảy sinh của nó. 
Thứ tư, có thể tạo đột phá bằng du lịch nghệ 
thuật - sự kiện với việc lên ý tưởng, đầu tư 
cho một vở diễn thực cảnh lấy cảm hứng từ 
văn hóa miền núi phía Bắc mà hồn cốt là 
Then. Ngày nay, thị hiếu nghệ thuật của cộng 
đồng ngày một nâng cao, những chương trình 
nghệ thuật chất lượng luôn có sự thu hút 
mạnh mẽ. Du khách đã đặt vé đến Hội An, về 
Sài Sơn để xem thực cảnh (dù giá vé khá cao, 
tương xứng với sự đầu tư hoành tráng), chúng 
ta có thể đặt niềm tin vào điều tương tự đối 
với du lịch Việt Bắc - không gian văn hóa đầy 
sắc màu nhưng vẫn còn nhiều giá trị chưa 
được khai thác, như một sản phẩm du lịch đặc 
thù và hấp dẫn. 
Thứ năm, xây dựng mô hình phố đi bộ với 
nhiều hoạt động văn hóa nghệ thuật đặc trưng 
vừa mang tính vùng miền, vừa có sự giao lưu 
tiếp biến với những loại hình văn hóa mới. 
Đây sẽ là điểm nhấn thu hút khách du lịch bởi 
những nét mới mẻ bên cạnh giá trị về cảnh 
quan thiên nhiên và đời sống bản làng. Hiện 
nay, tại các đô thị lớn đều đã có những 
chương trình biểu diễn nghệ thuật sinh động 
mang màu sắc văn hóa đường phố như Diễn 
xướng dân gian ba miền trên con đường hoa 
Nguyễn Huệ nhân dịp Festival Nghệ nhân 
Việt Nam, biểu diễn nghệ thuật trên phố đi bộ 
quanh Hồ Gươm, chương trình “Hoàng thành 
- diễn xướng dân gian” trong Khu Trung tâm 
Hoàng thành Thăng Long. Ngoài ra, để có sự 
kết nối điểm đến, cần xây dựng hệ thống chợ 
đêm - một không gian không đơn thuần mang 
tính thương mại mà hoàn toàn có thể lồng 
ghép các hoạt động văn hóa giàu bản sắc của 
địa phương, mở ra tương lai để phát triển du 
lịch tại các thành phố trung tâm của khu vực. 
Nguyễn Thị Suối Linh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(10): 61 - 68 
 Email: jst@tnu.edu.vn 68 
4. Kết luận 
Thực hành Then là tổng hòa nhiều giá trị: tôn 
giáo, văn hóa, nghệ thuật và tri thức bản địa 
về vũ trụ quan, nhân sinh quan. Hành trình từ 
lúc xây dựng hồ sơ đến khi di sản được ghi 
nhận là một con đường gian khó, tuy nhiên, 
công tác giữ gìn, bảo tồn di sản giữa guồng 
quay của cuộc sống sẽ còn gian truân hơn gấp 
bội. Chúng tôi cho rằng, sự bảo tồn bền vững 
nhất chính là bảo tồn trong phát triển. Để làm 
được điều đó, cần lấy Then làm chất liệu văn 
hóa, một nguồn tài nguyên nhân văn giá trị để 
khai thác trong hoạt động du lịch, theo hướng 
vừa làm mới, vừa bảo tồn những giá trị truyền 
thống. Đây là hướng đi cần được cân nhắc và 
nghiên cứu trong chiến lược phát triển du lịch 
vùng núi phía Bắc. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO/ REFERENCES 
[1]. P. M. Pham, Vienamese Folk song. Music 
Publishing House, 1994. 
[2]. T. Y. Nguyen, Then of Tay people. Social 
Science Publishing House, 2006. 
[3]. T. K. L. Nguyen, “Exploiting cultural values 
in tourism development,” Journal of 
Vietnamese Cultural Studies, vol. 396, no. 6, 
pp. 52-57, 2017. 
[4]. V. K. Tran, Culture with folk music. Youth 
Publishing House, 2000. 
[5]. H. The, and D. Nguyen, “Real-life 
performance – the expensive and adventure 
playground,” Baogiaothong.vn, 06/09/2018. 
[Online]. Available: https://www.baogiaothong.vn 
/nghe-thuat-thuc-canh-san-choi-ton-kem-mao-
hiem-d270814.html. [Accessed May 21, 2020]. 
[6]. V. S. Vo, T. L. Ngo, and T. T. V. Tran, 
“Orienting the explotation of specific 
products for rural tourism development in 
An Giang province,” Science and Technology 
development, vol. 20, no. X3, pp. 34-41, 2017. 

File đính kèm:

  • pdfkhai_thac_gia_tri_cua_thuc_hanh_then_trong_phat_trien_du_lic.pdf