Khai mở đất nông nghiệp ở nông thôn Đông Nam Bộ thời kỳ 1975 - 2010 (nghiên cứu trường hợp xã Láng Dài, huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu)

Bài viết nghiên cứu quá trình khai phá mở rộng đất nông nghiệp ở xã Láng Dài,

một xã nông nghiệp được bao phủ đất rừng và đất hoang hóa sau chiến tranh

thuộc huyện Đất Đỏ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu trong thời kỳ 1975 - 2010, tìm hiểu

những tác động của công cuộc khai phá ruộng đất đối với phát triển kinh tế, xã

hội tại địa phương. Qua đó bước đầu làm rõ hơn quá trình khai phá mở rộng đất

nông nghiệp ở vùng nông thôn Đông Nam Bộ.

pdf 10 trang phuongnguyen 2440
Bạn đang xem tài liệu "Khai mở đất nông nghiệp ở nông thôn Đông Nam Bộ thời kỳ 1975 - 2010 (nghiên cứu trường hợp xã Láng Dài, huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Khai mở đất nông nghiệp ở nông thôn Đông Nam Bộ thời kỳ 1975 - 2010 (nghiên cứu trường hợp xã Láng Dài, huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu)

Khai mở đất nông nghiệp ở nông thôn Đông Nam Bộ thời kỳ 1975 - 2010 (nghiên cứu trường hợp xã Láng Dài, huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu)
62
CHUYÊN MỤC 
SỬ HỌC - NHÂN HỌC - NGHIÊN CỨU TÔN GIÁO 
KHAI MỞ ĐẤT NÔNG NGHIỆP 
Ở NÔNG THÔN ĐÔNG NAM BỘ THỜI KỲ 1975 - 2010 
(NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP XÃ LÁNG DÀI, 
HUYỆN ĐẤT ĐỎ, TỈNH BÀ RỊA-VŨNG TÀU) 
NGUYỄN CÔNG MẠNH 
Bài viết nghiên cứu quá trình khai phá mở rộng đất nông nghiệp ở xã Láng Dài, 
một xã nông nghiệp được bao phủ đất rừng và đất hoang hóa sau chiến tranh 
thuộc huyện Đất Đỏ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu trong thời kỳ 1975 - 2010, tìm hiểu 
những tác động của công cuộc khai phá ruộng đất đối với phát triển kinh tế, xã 
hội tại địa phương. Qua đó bước đầu làm rõ hơn quá trình khai phá mở rộng đất 
nông nghiệp ở vùng nông thôn Đông Nam Bộ. 
1. VAI TRÒ KHAI PHÁ MỞ RỘNG 
ĐẤT NÔNG NGHIỆP 
Đông Nam Bộ là vùng đất thích hợp 
trồng cây lương thực, cây công 
nghiệp lâu năm, cây ăn quả và chăn 
nuôi. Trong chiến tranh, hàng trăm 
ngàn héc ta đất các loại đã bị bỏ 
hoang hóa, khô cằn, bạc màu. Công 
cuộc khai phá mở rộng diện tích đất 
nông nghiệp vùng Đông Nam Bộ sau 
năm 1975 là bước đột phá để vùng 
phát huy tiềm năng, lợi thế về tài 
nguyên đất, phân bố lại dân cư lao 
động, bảo vệ môi trường, tạo cơ sở 
để nông thôn phát triển bền vững. 
Láng Dài là 1 trong 8 xã, thị trấn, nằm 
ở phía Đông của huyện Đất Đỏ tỉnh 
Bà Rịa - Vũng Tàu thuộc vùng Đông 
Nam Bộ, được chính thức thành lập 
từ năm 1976, có diện tích tự nhiên 
3.228,4ha, dân số 6.003 người. Đây là 
xã nông nghiệp trọng điểm của huyện 
Đất Đỏ, với diện tích đất nông nghiệp 
tới 2.920ha, chiếm 90,48% diện tích 
đất tự nhiên của xã. Nằm trên vùng 
đất phù sa cổ, có sông Ray chảy qua, 
nên nơi đây thích hợp trồng cây lương 
thực, rau màu, cây ăn trái, nuôi trồng 
thủy hải sản và chăn nuôi. Năm 1975, 
khi chiến tranh kết thúc, 77% (2.260ha/ 
2.920ha) diện tích đất canh tác nông 
nghiệp ở xã Láng Dài là đất rừng và 
đất đã khai phá bị bỏ hoang hóa (Ủy 
Nguyễn Công Mạnh. Thạc sĩ. Trung tâm Sử 
học, Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ. 
NGUYỄN CÔNG MẠNH – KHAI MỞ ĐẤT NÔNG NGHIỆPz 
63 
ban Nhân dân xã Láng Dài, 2014). Đất 
đai bị bao phủ bởi các lớp rừng chồi, 
tre, nứa, các loại cây lâu năm. Dân cư 
tại xã thưa thớt, đường giao thông nội 
đồng, liên ấp, liên xã hầu như chưa có, 
nhiều hộ nông dân nghèo không có 
đất, thiếu đất sản xuất, tình hình đói 
kém, thiếu ăn diễn ra gay gắt, nhiều 
hộ dân phải chạy ăn từng bữa, an 
ninh, trật tự xã hội diễn biến phức tạp. 
Trước tình hình đó, chính quyền chủ 
trương đẩy mạnh khai hoang phục 
hóa, mở rộng diện tích đất nông 
nghiệp nhằm đảm bảo an ninh lương 
thực và phân bố lại lao động cũng như 
dân cư trên địa bàn. 
2. QUÁ TRÌNH KHAI PHÁ RUỘNG ĐẤT 
Để đẩy nhanh quá trình khai phá đất 
đai, chính quyền xã Láng Dài đã tạo 
mọi điều kiện thuận lợi, khuyến khích 
người dân ở địa phương và các nơi 
khác đến lập nghiệp, không giới hạn 
về diện tích khai phá, được miễn giảm 
thuế sử dụng đất nông nghiệp trong 
những năm đầuz 
2.1. Thời gian khai phá 
Công cuộc khai phá đất đai ở xã Láng 
Dài được tiến hành từ năm 1975 đến 
đầu những năm 2000 thì kết thúc. 10 
năm đầu (1975 - 1985), là thời kỳ các 
hộ dân tập trung khai phá nhiều nhất, 
cả về diện tích đất khai phá (1.700ha/ 
2.260ha, chiếm tỷ lệ 75% diện tích đất 
khai phá) và diện tích đất khai phá 
theo quy mô hộ (Ủy ban Nhân dân xã 
Láng Dài, 2014). Thời gian này đất 
hoang ở xã còn nhiều, nên những 
phần đất ở vị trí thuận lợi gần trục lộ 
giao thông, trung tâm xã, ấp, dọc theo 
các trảng và ven sông được người dân 
tập trung khai phá trước. Phần lớn 
diện tích đất hoang hóa được khai phá 
thời kỳ này đã giúp giải quyết kịp thời 
nạn thiếu ăn của người dân. Thời gian 
từ năm 1986 - 2010, công cuộc khai phá 
được tiếp tục thực hiện ở những phần 
đất hoang hóa còn lại, thường ở vùng 
đất cao hơn và vùng xa trung tâm xã. 
2.2. Nguồn nhân lực khai phá 
Để tìm hiểu về vấn đề này, chúng tôi 
đã phối hợp với Ban Địa chính xã 
khảo sát 40 hộ dân có quá trình khai 
phá ruộng đất ở xã Láng Dài thời kỳ 
1975 - 2010. Trong đó 30 hộ ở giai 
đoạn 1975 - 1985 và 10 hộ ở giai 
đoạn 1985 - 2010. Một số ít các hộ 
dân đến từ các ấp Thanh An, Cây 
Cám, Ba Cụm (Láng Dài), các địa bàn 
giáp ranh như Phước Long Thọ, Lộc 
An và TPHCM; còn phần lớn hộ dân 
đến từ các tỉnh miền Trung, như 
Quảng Nam, Quảng Ngãi, Phú Yên, 
Bình Định, Khánh Hòa. Họ đều là 
những nông dân thiếu đất, thị dân 
nghèo, nghề nghiệp không ổn định, 
mong muốn tìm đến vùng đất mới làm 
ăn để cuộc sống gia đình tốt đẹp hơn. 
Đa số chủ hộ có trình độ văn hóa cấp 
I, II, một số ít có trình độ cấp III, không 
có chủ hộ nào mù chữ, đó là điều kiện 
thuận lợi để các hộ nông dân vận dụng 
kiến thức khoa học kỹ thuật trong sản 
xuất và đời sống, sớm thích nghi, làm 
chủ ở vùng đất mới. Họ đều có gia 
đình con cái khi di cư, một số ít chủ hộ 
xây dựng gia đình trong quá trình khai 
phá, lập nghiệp trên vùng đất mới. 
Những người nông dân Láng Dài đến 
từ nhiều địa phương khác nhau nhưng 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 12 (208) 2015 
64
đều là những người cần cù, có kinh 
nghiệm trồng trọt, chăn nuôi, biết đoàn 
kết giúp đỡ lẫn nhau. Trong bối cảnh 
đầy khó khăn những năm đầu sau 
chiến tranh, những phẩm chất ấy giúp 
họ vượt qua nhiều khó khăn thử thách, 
khai phá đất hoang hóa, xây dựng đời 
sống cộng đồng nông thôn ở xã Láng 
Dài. 
2.3. Hình thức khai phá 
95% diện tích đất ở Láng Dài được 
khai phá dưới hình thức quy mô hộ gia 
đình. Chỉ có 5% diện tích đất rẫy 
hoang hóa được huyện Đất Đỏ tổ chức 
khai phá trồng tràm trong Chương 
trình trồng rừng 327 nhằm phủ xanh 
đất trống, đồi trọc. Việc khai phá cũng 
chủ yếu mang tính tự phát, 70% tổng 
số hộ dân tự đến khai phá, không khai 
báo với chính quyền địa phương ở xã, 
ấp. Nguyên nhân của tính tự phát là do 
các hộ chưa quan tâm đến vai trò quản 
lý đất của địa phương. Còn chính 
quyền xã, ấp chưa quan tâm lắm đến 
công tác quản lý, kiểm tra đất đai, 
nhân khẩu ở nơi khác đến xã lập 
nghiệp, do tính cấp thiết phải khuyến 
khích người dân đến khai phá mở rộng 
diện tích đất canh tác nông nghiệp ở 
địa phương trong thời gian đầu. 
Từ sau những năm 1990, công tác quản 
lý đất đai, nhân khẩu ở địa phương đã 
chặt chẽ hơn, ý thức chấp hành luật 
pháp về quản lý đất đai của người dân 
đã được nâng cao hơn, nên đa số các 
hộ khai phá đất đai đã khai báo, xin 
phép trước với chính quyền xã, ấp. 
2.4. Phương tiện khai phá 
Phương tiện khai phá đất của các hộ 
dân chủ yếu là những công cụ thô sơ, 
nhiều chủng loại, để dùng trong các 
công việc khác nhau, như: rựa để 
phát cành cây, bụi cây; cuốc, xẻng để 
cuốc, xới đất và đánh luống gieo trồng; 
cưa nhỏ để cưa cành và các cây thân 
nhỏ như tre, nứa, trâm bầu; cưa lớn 
thường được 2 người sử dụng chung 
để cưa hạ những thân cây lớn, lâu 
năm như cây dầu, bằng lăng, gõ, sến. 
Nhược điểm của các phương tiện khai 
phá trên là tốn nhiều sức lực, tốn 
nhiều thời gian khi gặp những cây gỗ 
lớn, mặt đất gồ ghề nhiều ô trũng, 
nhiều tảng đá, gốc cây lớn. 
Về chỗ ở, những hộ đến khai phá 
thường chọn vị trí đất cao ráo để dựng 
nhà, nhằm tránh ngập nước mùa mưa 
lũ. Các nguyên vật liệu làm nhà được 
lấy từ môi trường tự nhiên sẵn có như 
thân cây lớn làm cột, lá dừa, lá cây 
sống lù (loại cây có thân lá hình nan 
quạt khổ lớn) lợp mái, làm vách vừa 
bền vừa mát. Vì nhà ở dựng sơ sài, 
trải qua mỗi mùa mưa nắng nhà lại bị 
hư hỏng, phải sửa chữa nhiều lần. 
Những năm về sau này nhiều gia đình 
khá lên, đã xây dựng nhà kiên cố hơn. 
2.5. Quy trình khai phá 
Đất nông nghiệp ở xã Láng Dài chủ 
yếu có 2 loại: đất rẫy và đất ruộng. 
Đất rẫy thuộc vùng đất cao có độ dốc 
từ 8 - 200, loại đất vàng đỏ, phân bố ở 
các ấp Thanh An, Cây Cám, Gò Sầm, 
phù hợp với các loại cây màu, cây 
lương thực, cây ăn trái lâu năm, như 
bắp, khoai mì, đậu phộng, đậu xanh, 
nhãn, mãng cầu, xoài, cây tràmz 
Quy trình khai phá đất rẫy của nông 
hộ được thực hiện qua nhiều bước. 
Đầu tiên là cắt, tỉa hạ đốn cây, đánh 
NGUYỄN CÔNG MẠNH – KHAI MỞ ĐẤT NÔNG NGHIỆPz 
65 
gốc những cây lớn, cây lâu năm, như 
cây gỗ dầu, bằng lăng, rồi đốt lá, cành 
thành tro, rải đều trên mặt đất. Tiếp 
theo, san lấp mặt bằng từ chỗ cao 
xuống chỗ thấp. Công đoạn này thường 
được làm vào mùa khô (từ tháng 12 
năm trước đến tháng 4 năm sau). Sau 
đó, vào mùa mưa hàng năm (từ tháng 
4 năm trước đến tháng 11 năm sau) 
dùng cuốc, xẻng đánh thành từng luống 
đất để trồng bắp, khoai mì, đậu xanh. 
Thời gian khai phá đất rẫy từ lúc bắt 
đầu cho đến lúc canh tác diễn ra nhanh 
hay chậm phụ thuộc địa hình khu đất, 
nhiều hay ít cây lớn, mặt đất gồ ghề 
mức nào, xa hay gần trục đường giao 
thông. Đồng thời, điều này còn phụ 
thuộc vào tiềm lực kinh tế và nhân lực 
lao động của các hộ. Những hộ gia 
đình thuộc diện nghèo, con nhỏ phải 
mất từ 3 - 4 năm khai phá. Những hộ 
có điều kiện thuê mướn nhân công thì 
từ 8 tháng đến 1 năm. Để có lương 
thực, thực phẩm nuôi sống gia đình, 
đảm bảo tái sản xuất sức lao động, 
các hộ thường tiến hành khai phá 
theo hình thức da beo. Đất đai chỗ 
nào thuận lợi làm trước và gieo trồng 
ngay cây màu lương thực, sau đó khai 
phá tiếp cho đến hết phần diện tích 
đất dự định khai phá của gia đình. 
Đất ruộng ở xã là loại đất phù sa, có 
địa hình thấp, tập trung ở các ấp Cây 
Cám, Gò Sầm, Thanh An, thường 
được trồng lúa từ 1 đến 3 vụ trong 
năm, cùng với bắp, khoai lang, khoai 
mì. Quy trình khai phá đất ruộng cũng 
giống như khai phá đất rẫy, nhưng tốn 
nhiều công sức hơn, đòi hỏi phải san 
lấp mặt ruộng bằng phẳng, đắp bờ 
đều để giữ nước cho cây lúa. Gặp 
phải ruộng có nhiều gốc cây lớn lâu 
năm, thì phải đánh cho sạch hết gốc 
rễ mới có thể cầy bừa làm tơi đất, tốn 
nhiều thời gian công sức. Khai phá 
đất ruộng thường mất nhiều thời gian 
hơn so với khai phá đất rẫy. 
Đất rẫy và đất ruộng ở xã Láng Dài 
thường được phân bố gần nhau trong 
một ấp. Trong diện tích đất khai phá, 
đa số các hộ vừa có đất rẫy vừa có 
đất ruộng. Đó là yếu tố thuận lợi để 
các hộ trồng được nhiều loại cây, 
chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi 
một cách phù hợp và hiệu quả. 
Trong quá trình khai phá đất, việc làm 
mốc xác định ranh giới, chủ quyền 
thửa đất mới khai phá của các hộ 
cũng khá đơn giản, chủ yếu sử dụng 
những vật có sẵn trong tự nhiên. Với 
đất rẫy các hộ thường chừa các gốc 
cây lớn lâu năm, hoặc cắm cọc, dựng 
các tảng đá lớn để xác định mốc chủ 
quyền. Còn ranh giới giữa các thửa 
ruộng được xác định bằng cách đắp 
bờ, cắm cọc xung quanh. 
2.6. Vấn đề tranh chấp đất đai 
Mặc dù đất chủ yếu được khai phá 
dưới hình thức tự khai phá (không 
khai báo với chính quyền địa phương) 
và các hộ dân đến từ nhiều địa phương 
khác nhau nhưng việc tranh chấp chủ 
quyền, ranh giới đất lại ít xảy ra. 
Trong 40 hộ được chúng tôi khảo sát 
chỉ có 2 trường hợp xảy ra tranh chấp 
chủ quyền đất khai phá, chiếm tỷ lệ 
5%. Trường hợp thứ nhất là trên cùng 
diện tích đất một chủ thứ nhất đến 
khai phá trước, nhưng vì lý do gì đó, 
giữa chừng thì họ bỏ đi và hộ đến sau 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 12 (208) 2015 
66
tiếp tục khai phá khu đất trên. Sau khi 
thửa đất được khai phá xong người 
chủ trước tìm đến đòi lại; trường hợp 
thứ hai là những người đến trước khai 
phá chặt cây, dựng lán, làm hầm đốt 
than củi để bán, sau một thời gian 
khai thác hết cây làm nguyên liệu, họ 
bỏ đi nơi khác và người đến sau tiếp 
tục khai phá khu đất trên, đến khi hoàn 
thành thì chủ trước quay lại tranh chấp. 
Tuy nhiên tranh chấp đất đai giữa các 
hộ trên đều được giải quyết bằng sự 
thỏa thuận của 2 bên, chủ đất sau 
nhường lại 1/3 hoặc 1/4 diện tích thửa 
đất cho người đã khai phá trước. 
Giữa các hộ ít xảy ra tranh chấp còn 
vì diện tích đất rừng ở xã nhiều, dân 
cư thưa thớt, đất được khai phá chủ 
yếu để gieo trồng, không phải để mua 
bán. Hơn nữa, khi mới đến khai hoang, 
các hộ luôn sẵn sàng giúp nhau vượt 
qua khó khăn, gắn kết cộng đồng để 
xây dựng cuộc sống mới. Thời gian 
sau này, việc tranh chấp đất đai diễn 
ra chủ yếu trong họ hàng 
thân tộc, hoặc do sự thiếu sót, 
nhầm lẫn của chính quyền 
địa phương khi đo, vẽ diện 
tích, vị trí thửa đất của các hộ 
trên bản đồ địa chính xã. 
So với các địa phương khác 
trong vùng, việc tranh chấp 
đất đai giữa các hộ và các hộ 
với chính quyền địa phương 
không phải là vấn đề nổi cộm trong 
quá trình khai phá và sử dụng đất ở 
xã Láng Dài. 
2.7. Diện tích đất khai phá theo quy 
mô hộ 
Theo điều tra 30 hộ có quá trình 
khai phá trong 10 năm đầu (1975 - 
1985), đây là thời gian đất đai khai 
phá nhiều nhất, cả về diện tích khai 
phá theo quy mô hộ và diện tích đất 
khai phá được. Bảng 1 cho thấy số hộ 
có diện tích khai phá đất rẫy dưới 1ha 
chiếm tỷ lệ đông nhất với 50% số hộ 
được hỏi. Số hộ có diện tích từ 1 - 2ha 
đứng thứ 2 với tỷ lệ 30%. Số hộ có 
diện tích trên 2ha thấp hơn cả với 20%. 
So với đất rẫy, khai phá đất ruộng để 
trồng lúa nước đòi hỏi tốn nhiều công 
sức, thời gian hơn nên các hộ có diện 
tích khai phá đất ruộng dưới 1ha và từ 
1 - 2ha chiếm số lượng đông nhất với 
26 hộ chiếm tỷ lệ 86% số hộ được hỏi. 
Một số hộ có điều kiện thuê mướn nhân 
công nên khai phá được nhiều hơn, 
trên 2ha, chiếm tỷ lệ 13% (xem Bảng 1). 
Kết quả trên cho thấy, dù những năm 
đầu diện tích đất rừng ở xã còn nhiều, 
nhưng hộ đi khai phá đa số là hộ 
nghèo, công cụ khai phá thô sơ, thêm 
Bảng 1. Diện tích đất nông nghiệp được khai phá 
theo quy mô hộ ở xã Láng Dài thời kỳ (1975 - 1985) 
Đất 
rẫy 
Dưới 1ha Từ 1 - 2ha Trên 2ha Tổng cộng 
Số 
hộ 15 
Tỷ lệ 
50% 
Số 
hộ 9 
Tỷ lệ 
30% 
Số 
hộ 6 
Tỷ lệ 
20% 
Số 
hộ 30 
Tỷ lệ 
100% 
Đất 
ruộng
Dưới 1ha Từ 1-2ha Trên 2ha Tổng cộng 
Số 
hộ 19 
Tỷ lệ 
63,3%
Số 
hộ 7 
Tỷ lệ 
23,3% 
Số 
hộ 4 
Tỷ lệ 
13,3% 
Số 
hộ 30 
Tỷ lệ 
100% 
Nguồn: Nguyễn Công Mạnh, 2014. 
Bảng 2. Diện tích đất khai phá theo quy 
mô hộ ở xã Láng Dài thời kỳ 1986 - 2010 
Đất 
rẫy 
Dưới 1000m2 Trên 1000m2 Tổng cộng 
8 hộ 2 hộ 10 hộ 
Đất 
ruộng 
Dưới 600m2 Trên 600m2 Tổng cộng 
9 hộ 1 hộ 10 hộ 
Nguồn: Nguyễn Công Mạnh, 2014. 
NGUYỄN CÔNG MẠNH – KHAI MỞ ĐẤT NÔNG NGHIỆPz 
67 
vào đó địa hình gồ ghề, giao thông đi 
lại khó khăn, nên diện tích khai phá 
đất rẫy từ 1 - 2ha là phù hợp với khả 
năng của đa số các hộ. Những hộ khá, 
nhiều lao động thì diện tích khai phá 
nhiều hơn, nhưng số này chỉ chiếm 
20% (xem Bảng 2). 
Thời kỳ (1986 - 2010) đất khai phá 
theo quy mô hộ có diện tích nhỏ hơn 
so với thời kỳ trước. Kết quả điều tra 
10 hộ dân có quá trình khai phá đất 
trong thời kỳ này, số hộ có diện tích 
khai phá đất rẫy dưới 1 công có 8 hộ, 
trên 1 công có 2 hộ. Số hộ có diện tích 
khai phá đất ruộng, dưới 600m2, 
chiếm đa số. Nguyên nhân là do diện 
tích đất rừng hoang của xã trong thời 
kỳ này không còn nhiều, thường nằm 
ở vùng đất cao, xa trung tâm xã, thuộc 
các ấp Gò Sầm, Cây Cám, điều kiện 
làm thủy lợi tạo nguồn nước cho sản 
xuất và sinh hoạt gặp khó khăn, nhất 
là vào mùa khô hạn. 
3. DIỆN TÍCH ĐẤT KHAI PHÁ 
Trải qua 30 năm (1975 - 2010) lao động 
miệt mài, những người nông dân đến 
từ mọi miền đã vượt qua nhiều khó 
khăn thách thức, khai hoang lập nghiệp, 
đưa gần như toàn bộ diện tích đất 
rừng và đất hoang hóa của xã Láng 
Dài vào sản xuất. Nguồn tài nguyên 
đất đai, nhân lực được phát huy là nền 
tảng để xã Láng Dài phát triển mạnh 
về nông nghiệp trong thời gian qua. 
Tổng diện tích đất nông nghiệp khai 
phá được từ năm 1975 - 2010 là 
2.260ha, trong đó diện tích đất rẫy là 
1.400ha, đất ruộng là 860ha, chiếm 
77% tổng diện tích đất nông nghiệp 
của xã hiện nay (2.260ha/2.920ha). 
Nhìn vào những số liệu này có thể 
thấy mức độ khai mở đất đai rất lớn 
của xã trong 25 năm qua. Điều này 
gợi mở một xem xét chung cho toàn 
vùng Đông Nam Bộ. 
4. TÁC ĐỘNG CỦA VIỆC KHAI MỞ 
DIỆN TÍCH ĐẤT NÔNG NGHIỆP VỚI 
PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI XÃ 
LÁNG DÀI 
4.1. Tạo nền tảng để xây dựng Láng 
Dài trở thành xã phát triển nông nghiệp 
nông thôn bền vững ở Đông Nam Bộ 
Công cuộc khai phá mở rộng diện đất 
nông nghiệp đã biến vùng đất hoang 
vu xã Láng Dài thành vùng nông 
nghiệp trù phú của huyện Đất Đỏ. Với 
tiềm năng, lợi thế về tài nguyên đất, 
hiện tại và trong tương lai, Láng Dài 
sẽ là một trong những xã giữ vị trí 
hàng đầu về sản xuất lương thực, 
thực phẩm, cây ăn quả, chăn nuôi gia 
súc, gia cầm của huyện Đất Đỏ. 
Diện tích đất khai phá đã được quy 
hoạch tạo nên kết cấu hạ tầng ngày 
càng tiện lợi, đồng bộ, đáp ứng nhu 
cầu cuộc sống và sản xuất của nhân 
dân trong xã. Hệ thống đường giao 
thông nội đồng, liên ấp, liên xã đã 
được xây dựng khá hoàn chỉnh, 
được mở rộng, tôn cao, bê tông hóa, 
trải nhựa, tạo thuận lợi cho người 
Bảng 3. Kết quả khai phá mở rộng đất nông 
nghiệp ở xã Láng Dài thời kỳ 1975 - 2010 
Thời kỳ (1975 - 2010) 
1975 - 1985 1986 - 2010 
- Diện tích đất nông 
nghiệp được khai phá 
1.700ha 560ha 
- Trong đó diện tích: 
Đất ruộng 
700ha 160ha 
Nguồn: Ủy ban Nhân dân xã Láng Dài, 2010. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 12 (208) 2015 
68
dân sinh hoạt và sản xuất. Bên cạnh 
đó xã cũng đã xây dựng hệ thống 
trường lớp, trạm y tế, nhà văn hóa, 
khu thể thao đáp ứng bước đầu nhu 
cầu học tập, chữa bệnh, vui chơi của 
nhân dân. 
Việc khai phá mở rộng diện tích đất 
nông nghiệp cũng đã thu hút hàng 
ngàn hộ dân từ các vùng miền khác 
nhau đến xã khai hoang lập nghiệp. 
Cùng với đất đai, đây là nguồn lực 
quan trọng để xã Láng Dài vươn lên, 
phát triển kinh tế, xã hội bền vững. 
Đến nay xã Láng Dài đã có hơn 6.000 
nhân khẩu, tăng gấp 9 lần so với 
những năm đầu thành lập xã. Phần 
lớn số dân này là những người đã đến 
lập nghiệp từ 20 - 40 năm tại xã, gắn 
bó với cộng đồng, có điều kiện cuộc 
sống ngày càng tốt hơn. Số lao động 
có trình độ trung cấp, cao đẳng, đại 
học ngày càng nhiều (Ủy ban Nhân 
dân xã Láng dài, 2010). Đó là vốn xã 
hội và con người quan trọng cho phát 
triển của xã. 
4.2. Tăng diện tích, năng suất, sản 
lượng, chất lượng, sản phẩm cây 
trồng vật nuôi 
Đến năm 2010 diện tích đất nông 
nghiệp của xã đạt 2.920ha, tăng gấp 
4,4 lần so với 1975. Trong đó diện tích 
lúa 2 vụ trở lên là 1.251ha, tăng 2,5 
lần, diện tích các loại cây màu lương 
thực, thực phẩm, lâu năm tăng lên 
1.616ha (Phòng Thống kê huyện Đất 
Đỏ, 2010, tr. 37). 
Nhờ gắn khai phá ruộng đất với làm 
thủy lợi nội đồng, xây dựng đập dâng 
sông Ray, chủ động nguồn nước tưới 
tiêu, áp dụng thành tựu khoa học, kỹ 
thuật trong gieo trồng, chăn nuôi và 
chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi 
theo hướng tích cực, xã đã nâng cao 
hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp. So 
với thời kỳ đầu xã chỉ trồng lúa 1 vụ 
năng suất thấp (2,5 tấn/ha), đến năm 
2010 diện tích gieo trồng lúa đã tăng 
lên 2, 3 vụ với 2.508ha, năng suất 
trung bình cả năm đạt 6 tấn/ha (vụ hè 
thu 5 tấn/ha, mùa 4,5 tấn/ha, đông 
xuân 8,5 tấn/ha) đưa sản lượng lúa cả 
năm đạt 11.776 tấn. Cây bắp có diện 
tích 541ha, năng suất 4,9 tấn/ha, sản 
lượng 2.645 tấn, khoai mì 170ha, sản 
lượng 3.400 tấn (Phòng Thống kê 
huyện Đất Đỏ, 2010, tr. 37). Tổng sản 
lượng cây lương thực có hạt của xã 
đạt bình quân hàng năm là 10.793 tấn, 
đưa bình quân lương thực đạt 
1500kg/đầu người/năm, đã đảm bảo 
an ninh lương thực ở địa phương và 
cung ứng cho thị trường (Ủy ban 
Nhân dân xã Láng Dài, 2010). 
Bên cạnh sản xuất lương thực, ngành 
chăn nuôi cũng phát triển, nhất là 
chăn nuôi bò sinh sản, bò thịt mang lại 
lợi nhuận cao, ổn định cho nông hộ. 
Đến nay đàn bò của xã có 1.878 con, 
tăng gấp 6 lần so với những năm 
1980, mỗi năm cung cấp 400 tấn thịt 
bò cho thị trường (Ủy ban Nhân dân 
xã Láng Dài, 2010). Ở ấp Gò Sầm, 
Cây Cám mỗi hộ nuôi từ 2 đến 4 con 
bò thịt và bò sinh sản, có hộ mạnh 
dạn đầu tư tăng số lượng đàn bò lên 
60 con, phát triển theo mô hình chăn 
nuôi trang trại vừa và nhỏ. 
Người dân cũng đã biết chuyển dịch 
cơ cấu cây trồng vật nuôi, phù hợp với 
từng loại đất. Các cây ăn quả mang 
NGUYỄN CÔNG MẠNH – KHAI MỞ ĐẤT NÔNG NGHIỆPz 
69 
tính đặc sản của địa phương như 
nhãn nhục, mãng cầu trái vụ, xoài, 
được người dân mở rộng diện tích, 
kết hợp với thực hiện tiêu chuẩn 
VietGAP, vừa mang lại thu nhập cao 
hàng năm vừa tăng độ che phủ, 
chống xói mòn đất. Một số thửa ruộng 
trồng lúa màu một vụ hiệu quả thấp 
được người dân chuyển qua đào ao 
nuôi cá nước ngọt, như cá thác lác, cá 
lóc, nước lợ mang lại lợi nhuận thu 
nhập cao hơn cho nông hộ. 
4.3. Nâng cao đời sống người dân, 
giảm hộ nghèo, tăng hộ khá, giàu 
Các chính sách của xã về khai phá 
đất hoang hóa và đất rừng, mở rộng 
diện tích đất nông nghiệp, thực hiện 
giao đất ổn định cho người dân, xây 
dựng hệ thống thủy lợi kiên cố, 
chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi 
hợp lý... đã nâng cao sản lượng, năng 
suất, giá trị nông sản, góp phần tăng 
thu nhập, giảm hộ nghèo, tăng hộ khá, 
giàu, nâng cao chất lượng cuộc sống 
người dân trong xã. 
Kết quả điều tra năm 2014 cho thấy 
cây lúa là cây thu nhập chủ lực của 
các hộ dân trong xã. Cứ 1ha lúa trồng 
3 vụ trong năm, năng suất bình quân 
đạt 5,5 tấn, trừ các khoản chi phí thì 
cho lợi nhuận 60 triệu đồng. Ngoài thu 
nhập từ cây lúa các hộ còn thu nhập 
từ cây ăn trái, chăn nuôi, nuôi trồng 
thủy sản. Những hộ có mức thu nhập 
từ 60 - 100 triệu đồng/năm, có tỷ lệ 
cao nhất với 50% tổng số hộ được hỏi. 
Đây là những hộ có diện tích trồng lúa 
2 - 3 vụ trong năm, kết hợp trồng rau, 
màu, chăn nuôi bò sinh sản, bò thịt. 
Những hộ có mức thu nhập trên 100 
triệu đến 150 triệu đồng/năm, ngoài 
trồng lúa, trồng cây ăn trái nhãn, 
mãng cầu, còn đầu tư chăn nuôi bò 
thịt, bò sinh sản theo quy mô trang trại 
vừa và nhỏ từ 10 - 20 con, hoặc nuôi 
cá nước ngọt, nước lợ. Qua điều tra 
nhiều hộ xây được nhà kiên cố, có xe 
gắn máy, các phương tiện nghe nhìn, 
được sử dụng nước sạch. Nhiều hộ 
có con cái học tới bậc đại học ở 
TPHCM, thành phố Bình Dương. 
4.4. Tạo cơ sở lịch sử và pháp lý cho 
việc xác lập quyền sử dụng đất 
Xác lập quyền sử dụng đất của nông 
hộ được dựa trên 4 yếu tố cơ bản là 
nguồn gốc sử dụng đất, đất có tranh 
chấp hay không, vị trí và diện tích 
thửa đất. 
Về nguồn gốc, đa số diện tích đất canh 
tác nông nghiệp ở xã Láng Dài có nguồn 
gốc từ đất khai phá thời kỳ 1975 - 
2010. Những người đến khai phá là 
những hộ nông dân nghèo, không đất, 
thiếu đất. Họ đã tạo được gia sản đất 
đai bằng chính công sức lao 
động của mình. Vì vậy, dù 
khai phá đất hoang hóa dưới 
hình thức tự phát hay có xin 
phép chính quyền, họ đều là 
những người chủ đất chân 
chính, biết làm lợi cho bản 
thân và cộng đồng, xây dựng 
Bảng 4. Mức thu nhập từ sản xuất nông nghiệp của 
hộ nông dân ở xã Láng Dài, 2014 
Dưới 60 triệu 
đồng/năm 
Từ 60 triệu-
100 
triệu/năm 
Trên 100 
triệu đến 150 
triệu/năm 
Trên 150 
triệu/năm 
Số hộ 
8 
Tỷ lệ 
20% 
Số hộ 
20 
Tỷ lệ 
50% 
Số hộ 
10 
Tỷ lệ 
25% 
Số hộ 
2 
Tỷ lệ 
5% 
Nguồn: Nguyễn Công Mạnh, 2014. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 12 (208) 2015 
70
cuộc sống mới ở xã. 
Việc tranh chấp đất đai không phải là 
vấn đề nổi cộm ở xã Láng Dài đã tạo 
thuận lợi để xác lập quyền sử dụng 
đất cho nông hộ. Đến năm 1994 chỉ 
sau một năm thực hiện cấp giấy 
chứng nhận quyền sử dụng đất, Láng 
Dài là một trong 3 xã của huyện Đất 
Đỏ (Phước Long Hội, Tam An, Long 
Tân) có tỷ lệ hộ được cấp giấy chứng 
nhận quyền sử dụng đất nhiều nhất, 
chiếm 84% trong tổng số đơn kê khai 
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng 
đất của các hộ dân, (1.620/1.920 trường 
hợp). Đến đầu những năm 2000 xã 
Láng Dài cơ bản hoàn thành cấp giấy 
chứng nhận quyền sử dụng đất cho 
các hộ dân có đất, đạt tỷ lệ 99,94% 
diện tích đất canh tác nông nghiệp 
của xã (3.001,90ha/3.003,70ha). 
Được sử dụng đất ổn định, lâu dài, đã 
tạo điều kiện thuận lợi cho các hộ 
nông dân ở xã Láng Dài chủ động đầu 
tư cải tạo, sử dụng đất hợp lý, nhằm 
phát triển sản xuất theo hướng bền 
vững, nâng cao đời sống người dân. 
4.5. Những tác động có tính chất tiêu 
cực trong quá trình khai mở và sử 
dụng đất đai 
Do đặc thù về lịch sử khai phá và thực 
trạng sử dụng đất nông nghiệp thời 
gian qua, quá trình phát triển kinh tế - xã 
hội ở xã Láng Dài đang tồn tại những 
hạn chế, phát triển chưa bền vững, 
chưa tương xứng với tiềm năng lợi 
thế của xã và của vùng Đông Nam Bộ. 
Hình thức sở hữu, sử dụng đất của xã 
đang ở quy mô nhỏ lẻ, manh mún, tự 
phát, dễ gặp nhiều rủi do trong cơ chế 
thị trường. Sử dụng tài nguyên đất 
còn chưa phù hợp hoặc lãng phí. Ví 
dụ: chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật 
nuôi diễn ra chậm, hiệu quả chưa cao, 
nên thu nhập nông hộ đa số ở mức 
trung bình, tỷ lệ hộ khá, giàu còn thấp. 
Phân bố dân cư, nhà ở của người dân 
trên địa bàn xã chưa hợp lý. Công tác 
quản lý, thu hồi đất nông nghiệp của 
người dân còn thiếu minh bạch. 
Trước đây rừng bao phủ gần như 
toàn bộ xã, nay rừng hầu như không 
còn, vì vậy, các vùng trũng của xã dễ 
bị ngập úng khi trời mưa nhiều và 
nước sông Ray lên cao tràn bờ. Việc 
cải tạo và khai thác đất quá mức, đặc 
biệt là trồng 3 vụ lúa/năm khiến cho 
đất nhanh chóng bị bạc màu. Ở vùng 
gần biển, người dân chuyển sang nuôi 
trồng hải sản, cộng thêm với tình 
trạng nước biển ngày càng dâng cao, 
khiến cho nhiều ruộng lúa ở sâu trong 
xã cũng bị nhiễm mặn mỗi khi triều 
cường lên cao. Những vấn đề này 
đang đe dọa sự phát triển bền vững 
của xã, đòi hỏi chính quyền phải có 
những chính sách mới để khắc phục 
về lâu dài. 
Công cuộc khai phá mở rộng diện tích 
đất nông nghiệp của người nông dân 
xã Láng Dài là cả quá trình lao động 
miệt mài, sáng tạo, đoàn kết, vươn lên 
vì cuộc sống tương lai tốt đẹp hơn 
trên vùng đất mới Đông Nam Bộ. Đất 
đai được khai phá mở rộng là cơ sở 
để xã Láng Dài nói riêng, và vùng 
Đông Nam Bộ nói chung phát huy 
tiềm năng lợi thế các nguồn lực nhằm 
phát triển nông nghiệp, nông thôn 
theo hướng bền vững.  
(Xem tiếp trang 80) 
71 
(Tiếp theo trang 70) KHAI MỞ ĐẤT NÔNG NGHIỆP3 
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN 
1. Nguyễn Công Mạnh. 2014. Vấn đề khai phá, mở rộng đất nông nghiệp ở nông thôn 
Đông Nam Bộ thời kỳ 1975 - 2010 (Nghiên cứu trường hợp xã Láng Dài, huyện Đất Đỏ 
tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu) Đề tài cấp Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ. 
2. Phòng Thống kê huyện Đất Đỏ. Niên giám thống kê huyện Đất Đỏ (năm 2004 - 2010). 
3. Ủy ban Nhân dân xã Láng Dài. 2010. Báo cáo kết quả thực hiện kế hoạch phát triển 
kinh tế - xã hội của Ủy ban Nhân dân xã Láng Dài từ năm 1985 - 2010. 
4. Ủy ban Nhân dân xã Láng Dài. 2014. Báo cáo thuyết minh tổng hợp quy hoạch sử 
dụng đất chi tiết đến năm 2020 xã Láng Dài huyện Đất Đỏ. 

File đính kèm:

  • pdfkhai_mo_dat_nong_nghiep_o_nong_thon_dong_nam_bo_thoi_ky_1975.pdf