Khả năng cung cấp hoạt động đào tạo liên tục về y học cổ truyền tại tỉnh Thanh Hóa 2015
Nghiên cứu nhằm đánh giá khả năng cung cấp hoạt động đào tạo liên tục về y học cổ truyền cho nhân viên y tế tuyến huyện tại tỉnh Thanh Hóa năm 2015. Thiết kế nghiên cứu định tính được thực hiện. Kết quả cho thấy giảng viên kỹ năng giảng dạy tốt, tuy nhiên phương pháp giảng dạy chưa đa dạng và phù hợp; Đánh giá học viên trước trong và sau đào tạo chưa nghiêm túc; Nguồn tài chính chủ yếu từ nguồn ngân sách của đơn vị, chương trình mục tiêu quốc gia, dự án và học phí của học viên; Việc đánh giá còn nhiều hạn chế
Bạn đang xem tài liệu "Khả năng cung cấp hoạt động đào tạo liên tục về y học cổ truyền tại tỉnh Thanh Hóa 2015", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Khả năng cung cấp hoạt động đào tạo liên tục về y học cổ truyền tại tỉnh Thanh Hóa 2015
SỐ 37 - Tháng 3+4/2017 Website: yhoccongdong.vn 197 2017JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE KHẢ NĂNG CUNG CẤP HOẠT ĐỘNG ĐÀO TẠO LIÊN TỤC VỀ Y HỌC CỔ TRUYỀN TẠI TỈNH THANH HÓA 2015 Nguyễn Ngô Quang1, Nguyễn Thành Trung2, Nguyễn Hoàng Long2 TÓM TẮT Nghiên cứu nhằm đánh giá khả năng cung cấp hoạt động đào tạo liên tục về y học cổ truyền cho nhân viên y tế tuyến huyện tại tỉnh Thanh Hóa năm 2015. Thiết kế nghiên cứu định tính được thực hiện. Kết quả cho thấy giảng viên kỹ năng giảng dạy tốt, tuy nhiên phương pháp giảng dạy chưa đa dạng và phù hợp; Đánh giá học viên trước trong và sau đào tạo chưa nghiêm túc; Nguồn tài chính chủ yếu từ nguồn ngân sách của đơn vị, chương trình mục tiêu quốc gia, dự án và học phí của học viên; Việc đánh giá còn nhiều hạn chế. Từ khóa: Đào tạo liên tục, y học cổ truyền, khả năng. ABSTRACT CAPACITY TO PROVIDE CONTINUING MEDICAL EDUCATION ABOUT TRADITIONAL MEDICAL IN THANH HOA PROVINCE 2015 The purpose of this study was to assess the capacity to provide continuing medical education about traditional medical Thanh Hoa province in 2015. A qualitative study was conducted. Results show that although teachers had good teaching skill, the teaching method was inappropriate; students did not concentrate on the lecture before, during and after class; primary financial source was from units’ budgets, national programs, projects and tuition fee; evaluation was limited. Keywords: Continuing medical education, traditional medical, capacity. I. ĐẶT VẤN ĐỀ Y học cổ truyền là toàn bộ kiến thức, kỹ năng và thực hành dựa trên lý luận, lòng tin và kinh nghiệm vốn có của những nền văn hoá khác nhau, dù đã được giải thích hay chưa nhưng được dùng để duy trì sức khoẻ, cũng như để phòng bệnh, chẩn đoán, cải thiện hoặc điều trị tình trạng đau ốm về thể xác hoặc tinh thần [1]. Y học cổ truyền Việt Nam ra đời từ rất sớm, gắn liền với lịch sử phát triển của truyền thống văn hoá dân tộc. Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, YHCT Việt Nam đã đúc rút được nhiều kinh nghiệm phòng và chữa bệnh có hiệu quả. Nền YHCT Việt Nam còn được phát triển trong sự giao lưu với Trung Quốc và các nước trong khu vực [2]. Đặc biệt sau khi nước nhà dành độc lập, Đảng và nhà nước đã có những chủ trương chính sách quan trọng về phát triển YHCT như chủ trương kết hợp Y học hiện đại (YHHĐ) và YHCT, tổ chức hệ thống khám và chữa bệnh bằng YHCT từ tuyến trung ương đến các địa phương. Năm 2003 Thủ tướng Chính phủ chính thức phê duyệt chính sách quốc gia về Y dược học cổ truyền đã đề ra những mục tiêu, những giải pháp và chính sách cụ thể mà ngành y tế cần đạt được đến năm 2010. Trong đó có mục tiêu cũng cố và hoàn thiện hệ thống khám chữa bệnh bằng YHCT, đề ra các chỉ tiêu khám chữa bệnh và sử dụng thuốc YHCT ở các tuyến y tế [3]. Đào tạo liên tục là các khóa đào tạo ngắn hạn, bao gồm: đào tạo bồi dưỡng để cập nhật kiến thức, kỹ năng, thái độ thuộc lĩnh vực chuyên môn đang đảm nhận; đào tạo lại, đào tạo theo nhiệm vụ chỉ đạo tuyến, đào tạo chuyển giao kỹ thuật và các khóa đào tạo chuyên môn nghiệp vụ khác của ngành y tế mà không thuộc hệ thống văn bằng giáo dục quốc dân nhằm đảm bảo và nâng cao chất lượng của hệ thống chăm sóc y tế [4]. Năm 2008, Bộ Y tế đã ban hành thông tư số 07/2008/TT- BYT hướng dẫn công tác đào tạo liên tục đối với cán bộ y tế [5]. Bộ Y tế quy định tất cả cán bộ y tế đang hoạt động trong lĩnh vực y tế ở Việt Nam phải được đào tạo cập nhật về kiến thức, kỹ năng, thái độ trong lĩnh vực chuyên môn, nghiệp vụ của mình. Tuy nhiên, việc triển khai đào tạo liên tục nhân lực 1. Bộ Y tế 2. Khoa Y Dược, Đại học Quốc gia Hà Nội. Tác giả Nguyễn Thành Trung: Email: [email protected] Ngày nhận bài: 04/02/2017 Ngày phản biện: 12/02/2017 Ngày duyệt đăng: 17/02/2017 V IỆN SỨ C K HỎE CỘNG ĐỒ NG SỐ 37- Tháng 3+4/2017 Website: yhoccongdong.vn198 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC y tế, đặc biệt đào tạo liên tục về YHCT theo Luật Khám bệnh chữa bệnh và Thông tư về đạo tạo liên tục còn khá chậm, nhiều đơn vị y tế vẫn còn thụ động, trông chơ ở Bộ Y tế và sự hỗ trợ từ các dự án, vì vậy việc đào tạo liên tục nhân lực y tế còn chưa đáp ứng yêu cầu như mong muốn. Hiện nay, vẫn chưa có nhiều đề tài nghiên cứu tổng thể nào về thực trạng và nhu cầu đào tạo liên tục cho nhân viên y tế công tác về YHCT tại các bệnh viện đa khoa huyện. Vì những lý do trên và để góp phần nâng cao chất lượng đào tạo liên tục trong hệ thống y tế, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Thực trạng và khả năng cung cấp hoạt động đào tạo liên tục về y học cổ truyền tại tỉnh thanh hóa 2015” II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1 Thời gian và địa điểm nghiên cứu: Nghiên cứu được tiến hành từ tháng 12/2014 – 3/2016 tại 4 khoa YHCT của 4 bệnh viện đa khoa đại diện cho 4 khu vực của tỉnh Thanh Hóa. - Bệnh viện đa khoa tỉnh Thanh Hóa– đại diện cho khu vực thành phố - Bệnh viện đa khoa huyện Quảng Xương – đại diện cho khu vực nông thôn - Bệnh viện đa khoa huyện Triệu Sơn – đại diện cho khu vực miền núi - Bệnh viện đa khoa huyện Sầm Sơn – đại diện cho khu vực miền biển 2.2 Đối tượng: Nhân viên y tế làm công tác YHCT tại 4 khoa YHCT của các bệnh viện trên. Tiêu chuẩn loại trừ: Cán bộ vắng mặt trong thời gian nghiên cứu, không hợp tác và không tự nguyện tham gia nghiên cứu. Cỡ mẫu và cách chọn mẫu: Chọn mẫu có chủ đích. Có tổng cộng 73 nhân viên y tế làm công tác YHCT đủ điều kiện tham gia vào nghiên cứu. 2.3. Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang 2.3.1. Kỹ thuật và công cụ thu thập thông tin Bảng hỏi phỏng vấn sâu được xây dựng dựa trên việc tham khảo các nghiên cứu trước đó và xin ý kiên chuyên gia 2.3.2. Xử lý và phân tích số liệu Số liệu sau khi thu thập được tổng hợp bởi nhóm nghiên cứu theo từng chủ đề. 2.4. Sai số và cách khắc phục sai số Sai số trong quá trình điều tra, các biện pháp khống chế sai số được áp dụng bao gồm xin ý kiến chuyên gia, chuẩn hóa bộ câu hỏi thông qua điều tra thử, tập huấn điều tra viên một cách kỹ lưỡng và giám sát chặt chẽ quá trình điều tra. 2.5. Đạo đức trong nghiên cứu Nghiên cứu nhằm mục đích điều tra về thực trạng và khả năng cung cấp hoạt động đào tạo liên tục về YHCT tại tỉnh Thanh Hóa. Trước khi tham gia nghiên cứu, đối tượng phỏng vấn được cung cấp đầy đủ thông tin về nghiên cứu. Họ sẽ được thông báo là họ tự nguyện quyết định tham gia vào nghiên cứu hay không. Đảm bảo đầy đủ quyền lợi của đối tượng khi tham gia nghiên cứu. Đảm bảo tính bảo mật thông tin nghiên cứu và trích dẫn chính xác về nguồn tài liệu tham khảo. III. KẾT QUẢ Nghiên cứu này được thực hiện trên 73 nhân viên y tế làm việc về YHCT tại tỉnh Thanh Hoá, trong đó nữ chiếm 2/3. Nhân viên y tế có độ tuổi trung bình 30,4±6,3; trong đó thâm niên công tác tại bệnh viện dưới 5 năm chiếm tỷ lệ cao nhất 52,0%; từ 5 – 10 năm chiếm 38,4% và > 10 năm chiếm 9,6%. 3.1. Thực trạng cung cấp đào tạo liên tục cho CBYT Theo quy định tại Thông tư 22/2013/TT-BYT và trong tài liệu hướng dẫn kiểm định chất lượng ĐTLT đều có quy định ngành y tế các tỉnh cần có kế hoạch ĐTLT cho CBYT trong tỉnh, đây là một tiêu chí đánh giá công tác quản lý ĐTLT của các SYT. Kế hoạch ĐTLT cho CBYT cần có kế hoạch 5 năm, kế hoạch hàng năm và trong kế hoạch cần có mục kinh phí, đồng thời các kế hoạch này cần được cấp thẩm quyền phê duyệt. Hộp 1: Năm 2010, chúng tôi đã thành lập Ban chỉ đạo về công tác ĐLTT do một đồng chí Phó Giám đốc Sở phụ trách chuyên môn. Sau đó chúng tôi tiếp tục xây dựng các kế hoạch hàng năm và có kế hoạch 5 năm. Quá trình thực hiện công tác trên chúng tôi cũng đã xin ý kiến của lãnh đạo SYT và hội đồng thẩm định chuyên môn về ĐTLT. (PVS-CBQL SYT) Hiện nay trên địa bàn tỉnh có 4 bệnh viện đủ điều kiện tham gia đào tạo liên tục cho cán bộ y tế là Bệnh viện đa khoa tỉnh Thanh Hóa, Bệnh viện Phụ sản tỉnh Thanh Hóa, Bệnh viện Nhi tỉnh Thanh Hóa, Bệnh viện Lao và bệnh phổi tỉnh Thanh Hóa. (Theo Công văn số 6030/BYT-K2ĐT của Vụ trưởng Vụ Khoa học và Đào tạo, Bộ Y tế). Như vậy, tại tỉnh Thanh Hóa công tác ĐTLT theo hướng dẫn của Bộ Y tế cho CBYT đã được triển khai từ năm 2011, Sở Y tế tỉnh Thanh Hóa đã thành lập Ban chỉ đạo ĐTLT và xây dựng các kế hoạch 5 năm và kế hoạch hàng năm cho ĐTLT. Hộp 2: Chúng tôi căn cứ theo thông tư 07 thông tư 22 của Bộ Y tế, qua đó cái thứ nhất là số giờ để ĐTLT là tối thiểu 48 tiết học trong 2 năm liên tiếp, và tối thiểu 120 tiết học trong 5 năm liên tiếp, thứ hai căn cứ vào chức năng của các bệnh viện huyện trên địa bàn tỉnh thì chúng tôi xây dựng chương trình, thứ ba là chúng tôi đánh giá thực tại trình độ SỐ 37 - Tháng 3+4/2017 Website: yhoccongdong.vn 199 2017JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE chuyên môn của cán bô y tế tuyến huyện hoặc xã theo từng chuyên ngành khác nhau, vị trí công tác, thứ tư là chúng tôi căn cứ vào điều kiện thực tế của các bệnh viện huyện và cuối cùng là nhu cầu học tập, tham gia các lớp ĐTLT của các CBYT ấy thì chúng thôi xây dựng cái kế hoạch này. Việc khảo sát nhu cầu đào tạo liên tục chúng tôi cũng vừa thực hiện gần đây thông qua công văn số 1642 của SYT tháng 7 năm vừa rồi. (PVS-CBQL SYT). Trình độ chuyên môn của CBYT, chức năng nhiệm vụ, điều kiện cơ sở vật chất trang thiết bị, công tác khám chữa bệnh và nhu cầu học tập nâng cao trình độ độ chuyên môn của CBYT, công tác khám chữa bệnh tại các bệnh viện huyện/xã trên địa bàn tỉnh là các căn cứ để xây dựng kế hoạch ĐTLT hàng năm kế hoạch 5 năm cho CBYT bệnh viện tuyến huyện tỉnh Thanh Hóa. 3.2. Khả năng cung cấp đào tạo liên tục cho CBYT Triển khai kế hoạch ĐTLT cho CBYT Theo quy định của Bộ Y tế, sau khi có kế hoạch ĐTLT được phê duyệt cần được triển khai tới các đơn vị đào tạo xây dựng kế hoạch hàng năm, các cơ sở ĐTLT cần thông báo công khai, rộng rãi khóa học do đơn vị tổ chức để người học chủ động lựa chọn, bố trí kế hoạch tham gia khóa học. Hộp 3: Về ĐTL cho cán bộ y tế, sau khi kế hoạch được phế duyệt chính thức, chúng tôi thông báo đến cho từng đơn vị trên địa bàn tỉnh. Chúng tôi cũng thiết kế tổ chức các khóa học ngắn hạn vào thời gian cuối tuần để các cán bộ có thể tham gia nhiều hơn. Xét riêng về mảng y học cổ truyền, hiện đơn vị chúng tôi chưa có triển khai khóa học nào liên quan đến lĩnh vực này. Song thời gian sắp tới, chúng tôi dự kiến sẽ triển khai khóa học trên. Về nguồn lực cho công tác y học cổ truyền, theo tôi thấy vẫn còn yếu do chuyên ngành cũng có nhiều hạn chế, các lớp để tham gia học hay muốn học thêm chuyên ngành khác cũng khó, hạn chế rất nhiều. Nếu có thể cần phát triển mạnh mẽ lĩnh vực này hơn nữa vì y học hiện đại kết hợp với y học cổ truyền là phương châm đúng đắn của ngành y tế nước ta. (PVS-CBQL BV 01). Các kế hoạch ĐTLT đã được Sở Y tế phê duyệt theo quy định của Bộ Y tế; Sở Y tế Thanh Hóa có trách nhiệm quản lý chặt chẽ việc cấp chứng nhận đào tạo liên tục và thẩm định chương trình, tài liệu đào tạo của các đơn vị thuộc Sở. Hàng năm Sở cũng đã báo cáo về Bộ Y tế (Vụ Khoa học và Đào tạo) theo định kỳ đúng với hướng dẫn của thông tư số 07/2008/TT-BYT. Hộp 4: Trên cơ sở kế hoạch Sở Y tế tỉnh giao cho chúng tôi, xây dựng các kế hoạch cho từng chương trình ĐTLT và báo cáo Sở phế duyệt. Sau khi được Sở phê duyệt chương trình, kế hoạch đó chúng tôi sẽ triển khai về các đơn vị có nhu cầu ĐTLT và bắt đầu các khóa học ĐTLT tại đơn vị đăng kí hoặc tại đơn vị chúng tôi. (PVS-CBQL BV 02). Các đơn vị xây dựng kế hoạch đào tạo cho tưng chương trình đào tạo như dự kiến nội dung bài học (số tiết học lý thuyết, thực hành, ôn tập, kiểm tra), giảng viên, số lượng học viên, mức kinh phí, tài liệu học tập,. trình Sở Y tế tỉnh phế duyệt sau đó sẽ thông báo kế hoạch đào tạo các lớp ĐTLT về các bệnh viện huyện, TYT xã, Hộp 5: Về các kế hoạch 5 năm thì tôi không biết, căn cứ vào chi tiết kế hoạch hàng năm do Sở Y tế giao và bệnh viện định hướng thì chúng tôi xây dựng chương trình và tổ chức ĐTLT cho CBYT. Tôi cũng nhớ, trong năm qua chúng tôi cũng đã mở một lớp ĐTLT cho CBYT công tác trong lĩnh vực y học cổ truyền thì phải. PVS-CBQL BV 03). Như vậy một số đơn vị đào tạo chỉ được triển khai và nắm bắt được kế hoạch ĐTLT từng năm một, kế hoạch 5 năm thì vẫn chưa được triển khai. Qua hộp phỏng vấn trên, thực tế công tác ĐTLT cho các CBYT công tác trong lĩnh vực YHCT thực sự chưa được quan tâm đúng mức. Các bệnh viện huyện được triển khai kế hoạch đào tạo của từng chương trình, kế hoạch tổng thể hàng năm và 5 năm đều không được triển khai chi tiết về các đơn vị này. Xây dựng chương trình, tài liệu ĐTLT cho cán bộ y tế. Chương trình đào tạo, tài liệu là một yếu tố quan trọng để đảm bảo chất lượng đào tạo. Chương trình và tài liệu ĐTLT phải đáp ứng được mục tiêu khóa học đào tạo. Những chương trình cũng như tài liệu trên do cơ sở đào tạo xây dựng và phải được thẩm định ban hành theo quy định trước khi đào tạo. Hộp 6: Các chương trình và tài liệu đào tạo đó do các đơn vị tổ chức lớp ĐTLT xây dựng và biên soạn. Chúng cũng được Hội đồng chuyên môn của đơn vị, của Sở Y tế thẩm định, phê duyệt trước khi ban hành và giảng dạy. Tuy nhiên theo tôi thấy, Bộ Y tế cần có những tài liệu ĐTLT theo chuẩn chung tất cả các chuyên ngành thì tốt để các đơn vị tham khảo, xây dựng phù hợp với tình hình tại địa phương mình. (PVS-CBQL BV 03). Việc xây dựng chương trình và tài liệu đào tạo được giao cho các đơn vị đào tạo thực hiện và Sở Y tế phế duyệt trước khi triển khai đào tạo. V IỆN SỨ C K HỎE CỘNG ĐỒ NG SỐ 37- Tháng 3+4/2017 Website: yhoccongdong.vn200 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Hộp 7: Sau khi nhận được kế hoạch chỉ tiêu hàng năm, chúng tôi phối hợp với các Bộ môn chuyên ngành, Bệnh viện trong tỉnh và các đơn vị chuyên môn khác để tổ chức xây dựng chương trình, tài liệu đào tạo rồi trình Sở Y tế phế duyêt, sau đó mới đưa vào đào tạo giảng dạy. Tuy nhiên cá nhân tôi thấy thủ tục hành chính cho việc thẩm định chương trình, tài liệu đào tạo còn hơi rườm rà, mất nhiều thời gian để lên tài liệu đào tạo chuẩn. Nhưng khi triển khai cụ thể mình thấy nội dung tài liệu cũng cần chỉnh sửa nhiều. (PVS- CBQL BV 04). Như vậy chương trình, tài liệu ĐTLT cho CBYT tại tỉnh Thanh Hóa do các đơn vị đào tạo phối hợp với các đơn vị chuyên môn xây dựng và được Sở Y tế tỉnh phế duyệt. Trong công tác này có sự phối hợp thực hiện giữa các đơn vị đào tạo và các đơn vị chuyên môn. Lựa chọn học viên tham gia đào tạo liên tục Kế hoạch đào tạo và công văn phân bổ chỉ tiêu của Sở Y tế được gửi về các đơn vị, trên cơ sở đó các đơn vị triển khai tới các bệnh viện huyện, xã, nơi có học viên có nhu cầu tham gia các lớp ĐTLT để lên danh sách học viên. Hộp 8: Khi gửi công văn về ĐTLT cho các đơn vị trên địa bàn tỉnh, chúng tôi có ghi rõ ràng, đầy đủ đối tượng tham gia lớp học và đó chính là tiêu chuẩn lựa học viên, ngoài ra, chúng tôi có gửi kèm kế hoạch trong đó đã ghi rõ đối tượng tham gia và nhiều thông tin quan trọng khác. (PVS-CBQL BV 01). Khi xây dựng các kế hoạch, chương trình đào tạo, các đơn vị ĐTLT đã có tiêu chí lựa chọn học viên cụ thể cho từng chương trình và được gửi về các đơn vị lựa chọn học viên tham gia. Khi tiếp nhận học viên, đơn vị tổ chức lớp ĐTLT cũng kiểm tra hồ sơ rõ rang đầy đủ, đủ tiêu chuẩn mới tiếp nhận học viên đó Công tác tổ chức triển khai lớp học, tổ chức dạy và học quyết định chất lượng đào tạo, các bước để tổ chức một khóa học được bao gồm: Chuẩn bị nguồn lực, dự trù kinh phí; xây dựng tài liệu chương trình, xây dựng kế hoạch tài chính; Xây dựng biên bản ghi nhớ hợp tác (nếu có hợp tác đào tạo) và xây dựng thông báo tuyển sinh, Cán bộ giảng dạy là những giảng viên có kinh nghiệm về lĩnh vực nội dung lớp được đào tạo. Danh sách giảng viên cũng được Sở Y tế phê duyệt cùng với chương trình đào tạo. Hộp 9: Mỗi lớp tổ chức khoảng 15-20 hoặc đến 30 học viên thôi. Học lý thuyết và thực hành tại bệnh viện. Phương pháp thuyết minh là chủ yếu dựa trên phương tiện cũng gọi như bây giờ là tích cực rồi đó là sử dụng bài giảng điện tử,.bản chất là những bác sĩ giỏi nhưng vì là chỉ qua một khóa học sư phạm y học có 10 ngày nên cách tiếp cận cơ bản vẫn là thuyết minh, các phương pháp day học tích cực khác vân chưa được phát huy nhiều. (PVS-CBQL-GV 06). Số học viên bố trí như vậy là phù hợp, tuy nhiên phương pháp giảng dạy của các giảng viên chủ yếu vẫn là thuyết minh, chưa áp dụng nhiều phương pháp dạy học tích cực. Hộp 10: Nên sắp xếp các học viên có cùng trình độ, độ tuổi hoặc có khoảng cách xa gần vào một lớp bởi vì một số đồng chí ở xa, tuổi cao khi học không thực sự nghiêm túc làm chúng tôi muốn học rồi cũng thấy chán, làm ảnh hưởng tới không khí học tập nói chung và chất lượng học tập nói riêng. (PVS-HV 07). Các học viên được sắp xếp ngẫu nhiên vào một lớp học, không phân theo trình độ chuyên môn, tuổi giới hay địa vị công tác. Công tác đánh giá học viên trước, trong và sau đào tạo Việc đánh giá sau đào tạo giúp giáo viên, nhà quản lý trả lời câu hỏi: mục tiêu của bài học hay khóa học đào tạo đã đạt được hay chưa? Qua đó cũng là tiểu chuẩn để nhà quản lý cấp giấy chứng nhận hoặc chứng chỉ cho học viên đạt yêu cầu khóa học đề ra. Hộp 11: Khảo sát đầu vào của cán bộ thì trước đây khi đào tạo cũng có một số bài kiểm tra và sau quá trình đào tạo cũng có những bài kiểm tra lý thuyết hoặc thực hành đầu ra,Thực tế thì cần nhiều hình thức và nhiều cách đánh giá khác nhau nhưng mà so sánh kết quả bài kiểm tra đầu vào đầu ra hoặc chỉ dựa vào đầu ra thì có sự khác biệt lớn. Dựa vào đó có thể thấy được quá trình đào tạo là có giá trị tuy nhiên cần tiếp tục phát triển cải tiến phương pháp đánh giá nhất là về ứng dụng, thực hành trong công việc chuyên môn của từng học viên. (PVS-CBQL 03). Có thể thấy rằng đánh giá bằng bài kiểm tra đầu vào và bài kiểm tra đầu ra là cách làm phổ biến chung trong công tác tập huấn cũng nhưu ĐTLT hiện nay. Công tác giám sát đào tạo Về phương pháp giám sát trực tiếp hoặc gián tiếp, về hình thức có thể là giám sát định kỳ hoặc đột xuất và có thể thực hiện bằng phương thức tự giám sát hay giám sát từ bên ngoài. Hộp 12: Chúng tôi căn cứ vào kế hoạch đào tạo, chỉ đạo các cơ sở đào tạo phải đánh giá học viên ngay từ đầu vào, SỐ 37 - Tháng 3+4/2017 Website: yhoccongdong.vn 201 2017JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE đầu ra hay trong quá trình học tập. Cuối khoá báo cáo kết quả khóa học về Sở. Sau khóa học, học viên về đơn vị mình công tác cũng phải có quá trình đánh giá trong quá trình làm việc sau này. (PVS-CBQL SYT) Công tác giám sát của Sở Y tế chủ yếu là thực hiện giám sát gián tiếp qua văn bản báo cáo, qua ý kiến của cán bộ quản lý trực tiếp CBYT. Sở Y tế cũng kiểm tra về giờ giấc lên lớp của giảng viên, kiểm tra lấy số liệu thông qua cán bộ phụ trách lớp học và phản hồi của học học viên sau khóa học. Sau khóa học, đơn vị tổ chức lớp học phải hoàn thiện đầy đủ hồ sơ trình Sở Y tế tỉnh cấp chứng chỉ ĐTLT cho học viên. Như vậy các đơn vị đào tạo tổ chức giám sát bằng cả hình thức gián tiếp và trực tiếp, sau khóa học các học viên đủ điều kiện sẽ được Sở Y tế cấp chứng chỉ ĐTLT Công tác tài chính phục vụ cho công tác ĐTLT Nguồn tài chính phục vụ cho công tác ĐTLT có thể lấy từ nhiều nguồn khác nhau: ngân sách nhà nước, ngân sách của đơn vị, nguồn thu học phí của học viên, nguồn hỗ trợ từ các dự án và các nguồn hợp pháp khác. Hộp 13: Ngân sách dùng cho các chương trình ĐTLT do mình quản lý hầu hết là những nguồn ngân sách của tỉnh và ngân sách từ các chương trình mục tiêu quốc gia kết hợp với mức đóng học phí của học viên, mức phí hỗ trợ của đơn vị cử học viên tham gia. (PVS-CBQL). Nguồn ngân sách phục vụ cho công tác ĐTLT hiện nay trên địa bàn tỉnh chủ yếu lấy từ ngân sách của tỉnh và các chương trình mục tiêu quốc gia kết hợp với học phí của học viên. Như vậy ngoài học phí đóng góp từ học viên thì cũng đã có sự hỗ trợ kinh phí từ các nguồn khác nhau. IV. BÀN LUẬN 4.1. Thực trạng cung cấp đào tạo liên tục cho CBYT Cho đến nay, trên địa bàn tỉnh chỉ có 4 bệnh viện đủ điều kiện tham gia đào tạo liên tục cho cán bộ Y tế là Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thanh Hóa, Bệnh viện Phụ sản tỉnh Thanh Hóa, Bệnh viện Nhi tỉnh Thanh Hóa, Bệnh viện Lao và bệnh phổi tỉnh Thanh Hóa. Tuy các bệnh viện trên đều có khoa Đông Y/YHCT song chưa phải là những bệnh viện chuyên sâu về lĩnh vực YHCT. Các bệnh viện trên chủ yếu tổ chức các khóa học ĐTLT về lâm sàng như nội soi tai mũi họng, Siêu âm cơ bản, Quản lý bệnh viện, Chống nhiễm khuẩn bệnh viện. Bởi vậy các khóa học đào tạo liên tục về YHCT cho CBYT còn hạn chế về mặt số lượng cũng như chất lượng và ít được quan tâm hơn. Tại tỉnh Thanh Hóa, công tác ĐTLT theo hướng dẫn của Bộ Y tế cho CBYT đã được triển khai từ năm 2011, Sở Y tế tỉnh Thanh Hóa đã thành lập Ban chỉ đạo ĐTLT và xây dựng các kế hoạch 5 năm và kế hoạch hàng năm cho ĐTLT 4.2. Khả năng cung cấp đào tạo liên tục cho CBYT Kế hoạch ĐTLT hàng năm cho CBYT của tỉnh Thanh Hóa đã được triển khai rộng rãi đến từng đơn vị. Tuy nhiên một số đơn vị đào tạo chỉ được triển khai và nắm bắt được kế hoạch ĐTLT từng năm một, kế hoạch 5 năm thì vẫn chưa được triển khai gây nhiều khó khăn và dẫn tới thụ động trong xây dựng kế hoạch hàng năm. Điều này cho thấy, công tác ĐTLT cho các CBYT đang công tác trong lĩnh vực YHCT thực sự chưa được quan tâm đúng mức. Tất cả các học viên được hỏi đều cho rằng tài liệu ĐTLT được biên soạn có chất lượng tốt, các học viên đều đọc lại tài liệu sau khi kết thúc khóa học. Chương trình, tài liệu ĐTLT cho CBYT tại tỉnh Thanh Hóa được các đơn vị đào tạo xây dựng và trình Hội đồng của Sở Y tế tỉnh phê duyệt trước khi đào tạo. Các đơn vị ĐTLT đã phối hợp các đơn vị có chuyên môn để biên soạn chương trình và tài liệu. Theo hướng dẫn về quản lý ĐTLT của Bộ Y tế, các chương trình và tài liệu ĐTLT cần được các cấp có thẩm quyền phê duyệt trước khi tổ chức các khóa học. Công tác này đã được thực hiện đầy đủ tại tỉnh Thanh Hóa. Nhờ vậy mà chất lượng tài liệu được các học viên và cán bộ quản lý đánh giá cao và hữu ích cho người học. Trong công tác lựa chọn học viên tham gia lớp học ĐTLT, các đơn vị cung cấp ĐTLT y tế tại tỉnh Thanh Hóa đã thực hiện theo đúng hướng dẫn của Bộ Y tế, các tiêu chí lựa chọn học viên rõ ràng và công khai rộng rãi. Việc có tiêu chí lựa học viên rõ ràng và công khai rộng rãi các tiêu chí đó đã tạo thuận lợi cho các CBYT cũng như các lãnh đạo đơn vị y tế trong việc lựa chọn và cử cán bộ tham gia các lớp học. Vậy nên các học viên tham gia các lớp học đúng đối tương, phù hợp với trình đô, chuyên môn của mình. Giảng viên là những người có trình độ chuyên môn cao và có kinh nghiệm về lĩnh vực giảng dạy. Việc bố trí lớp học ĐTLT có từ 25 đến 30 học viên là hợp lí. Tuy nhiên trong công tác tổ chức dạy và học còn gặp một số vấn đề chưa phù hợp. Việc sắp xếp học viên một cách ngẫu nhiên như đang thực hiện thực sự chưa hợp lý. Về ý kiến xếp học viên theo độ tuổi và theo khoảng cách là không cần thiết, trên thực tế cần đa dạng các yếu tố này để có sự hỗ trợ giữa các học viên quá trình học tập. Nên sắp xếp học viên vào các lớp học theo trình độ chuyên môn, như vậy sẽ thuận lợi cho quá trình giảng dậy và tổ chức học tập. Đa số giáo viên có kỹ năng giảng dạy tốt, tuy nhiên phương pháp giảng dạy chủ yếu là thuyết trình, vẫn có giáo V IỆN SỨ C K HỎE CỘNG ĐỒ NG SỐ 37- Tháng 3+4/2017 Website: yhoccongdong.vn202 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC viên được học viên đánh giá là chưa có cách tiếp cận phù hợp trong giảng dạy. Điều này sẽ ảnh hưởng đến tâm lý học viên và hiệu quả học tập của học viên. Cần có những buổi trao đổi về chuyên môn nghiệp vụ giữa các giáo viên nhăm học hỏi, chia sẻ kinh nghiệm chon hay để các giáo viên ĐTLT đều có phương pháp tốt trong giảng dạy. Các đơn vị hiện nay đều đánh giá học viên bằng một bài kiếm tra đầu vào và một bài kiếm tra đầu ra. Đó có thể là những bài kiểm tra lý thuyết hay thực hành tùy theo nội dung lớp học đào tạo. Theo đánh giá của học viên có những đơn vị ĐTLT thì tổ chức đánh giá nghiêm túc, có những đơn vị thì vẫn mang tình hình thức, chưa thực sự nghiêm túc. Việc tổ chức đánh giá như vậy cũng có ảnh hưởng đến tâm lý của người học và dẫn tới hiệu quả chưa cao. Cần quan tâm đến đánh giá trong quá trình học, qua đó tác động đến động cơ học tập của học viên, giúp học viên tích cực và chủ động hơn trong việc học tập. Hiện tại công tác giám sát ĐTLT được giao cho các đơn vị tổ chức đào tạo tự giám sát và báo cáo kết quả về Sở Y tế. Việc giám sát như vậy có ưu điểm là thuận tiện và dễ thực hiện, tuy nhiên nhược điểm của phương pháp này là không kịp thời và thiếu khách quan. Để hỗ trợ kịp thời công tác tổ chức ĐTLT của các đơn vị và có đánh giá khách quan hơn về chương trình ĐTLT, Sở Y tế cần đa dạng các hình thức tổ chức giám sát: Sở Y tế giám sát trực tiếp, lập đoàn thanh tra kiểm tra các chương trình, cơ sở vật chất phục vụ cho công tác ĐTLT của từng đơn vị đào tạo, Các chương trình ĐTLT đã được triển khai trong giai đoạn qua có nguồn tài chính từ sử dụng nguồn ngân sách của đơn vị và các chương trình mục tiêu y tế quốc gia, hỗ trợ từ các dự án và việc đóng góp học phí của học viên. Theo hướng dẫn của Bộ Y tế, ngân sách phục vụ cho ĐTLT có thể lấy từ ngân sách đơn vị, các chương trình dự án hoặc do người học đóng góp. Tuy nhiên đối với ĐTLT cho CBYT, vì đặc thù cán bộ công tác tại bệnh viện tuyến huyện có mức thu nhập không cao, rất khó khăn về kinh tế, vậy nên việc thu học phí thu học phó từ người học là không khả thi, vẫn cần có chính sách hỗ trợ kinh phí từ ngân sách nhà nước, đơn vị và ngân sách hỗ trợ từ các chương trình dự án để triển khai công tác ĐTLT cho CBYT V. KẾT LUẬN - Có 4 bệnh viện tại tỉnh Thanh Hóa đủ điều kiện tham gia đào tạo liên tục cho CBYT. - Kế hoạch ĐTLT 5 năm vẫn chưa được xây dựng. - Chương trình, tài liệu ĐTLT cho CBYT tại tỉnh Thanh Hóa do các đơn vị đào tạo phối hợp với các đơn vị chuyên môn xây dựng và được Sở Y tế tỉnh phê duyệt. Trong công tác này có sự phối hợp thực hiện giữa các đơn vị đào tạo và các đơn vị chuyên môn. - Các đơn vị ĐTLT đã có tiêu chí lựa chọn học viên cụ thể cho từng chương trình và được gửi về các đơn vị lựa chọn học viên tham gia. - Số lượng học viên trên 1 lớp ĐTLT dao động từ 25 đến 30 học viên. - Đa số giáo viên có kỹ năng giảng dạy tốt, tuy nhiên phương pháp giảng dạy chủ yếu là thuyết trình, vẫn có giáo viên được học viên đánh giá là chưa có cách tiếp cận phù hợp trong giảng dạy - Vẫn còn những đơn vị ĐTLT tổ chức chức đánh giá học viên trước trong và sau đào tạo chưa thực sự nghiêm túc. - Các chương trình ĐTLT đã được triển khai có nguồn tài chính từ sử dụng nguồn ngân sách của đơn vị và các chương trình mục tiêu y tế quốc gia, hỗ trợ từ các dự án và đóng góp học phí của học viên. - Công tác đánh giá tác động của ĐTLT cho CBYT tại tỉnh Thanh Hóa đã được quan tâm, tuy nhiên hoạt động này chưa thực sự được thực hiện đồng bộ, mang tình chất lồng ghép với các chương trình khác. Việc đánh giá còn rất nhiều hạn chế. TÀI LIỆU THAM KHẢO: 1. WHO (2000), Progess in Essential Drugs and Medicines Policy 1998 - 1999, Health Technology and Pharmaceticals Cluster, WHO/EDM/2000.2. 2. Phạm Hưng Củng (1996), Nghiên cứu ứng dụng xã hội hóa YHCT chăm sóc sức khỏe ban đầu tại cộng đồng trong nền kinh tế thị trường có định hướng XHCN, Luận văn bác sỹ chuyên khoa cấp II. 3. Chính phủ Việt Nam (2003), Quyết định về việc ban hành Chiến lược về đào tạo liên tục trong lĩnh vực y tế giai đoạn đến 2020 và định hướng 2030. 4. Bộ Y tế (2013), Thông tư 22 Hướng dẫn đào tạo liên tục trong lĩnh vực y tế, Nhà xuất bản Y học. 5. Bộ Y tế (2008), Thông tư số 07/2008/TT-BYT hướng dẫn công tác đào tạo liên tục đối với cán bộ y tế.
File đính kèm:
kha_nang_cung_cap_hoat_dong_dao_tao_lien_tuc_ve_y_hoc_co_tru.pdf

