Kết quả thực hiện mô hình xét nghiệm chẩn đoán HIV tại 2 cơ sở y tế tuyến huyện miền núi của tỉnh Điện Biên, giai đoạn 2015-2016

Xét nghiệm HIV tại điểm chăm sóc và điều trị (POCT - Point of care testing) để chẩn đoán HIV là mô hình

xét nghiệm sử dụng phương cách kết hợp 3 sinh phẩm nhanh tại cơ sở y tế tuyến huyện nhằm cung cấp xét

nghiệm nhanh, chính xác, dễ tiếp cận để tăng hiệu quả xét nghiệm tại các khu vực đi lại khó khăn, điều kiện

tiếp cận các dịch vụ y tế còn hạn chế. Nghiên cứu mô tả cắt ngang dựa trên số liệu thứ cấp ghi chép hoạt

động xét nghiệm HIV được thực hiện trong thời gian can thiệp, mục tiêu nhằm mô tả kết quả thực hiện của

mô hình xét nghiệm POCT chẩn đoán HIV và đánh giá các hiệu quả can thiệp. Thông tin về kết quả thực hiện

xét nghiệm tại mô hình can thiệp gồm có kết quả xét nghiệm sàng lọc, chẩn đoán HIV, đăng ký điều trị tại cơ

sở khám điều trị HIV và bắt đầu được điều trị ARV của bệnh nhân được quản lý và phân tích sử dụng phần

mềm SPSS 18.0. Kết quả có 3074 khách hàng đến xét nghiệm HIV trong nghiên cứu, 100% khách hàng xét

nghiệm đều quay trở lại nhận kết quả xét nghiệm. Trong đó: 4,1% khách hàng có kết luận dương tính với

HIV, 82,5% khách hàng dương tính với HIV được kết nối với cơ sở chăm sóc điều trị HIV và 100% khách

hàng đã kết nối đều được điều trị ARV. Mô hình can thiệp POCT chẩn đoán HIV tại cơ sở y tế tuyến huyện

đã góp phần giảm tỷ lệ mất dấu trước khi nhận kết quả và cải thiện tỷ lệ bệnh nhân HIV được điều trị ARV.

pdf 7 trang phuongnguyen 120
Bạn đang xem tài liệu "Kết quả thực hiện mô hình xét nghiệm chẩn đoán HIV tại 2 cơ sở y tế tuyến huyện miền núi của tỉnh Điện Biên, giai đoạn 2015-2016", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Kết quả thực hiện mô hình xét nghiệm chẩn đoán HIV tại 2 cơ sở y tế tuyến huyện miền núi của tỉnh Điện Biên, giai đoạn 2015-2016

Kết quả thực hiện mô hình xét nghiệm chẩn đoán HIV tại 2 cơ sở y tế tuyến huyện miền núi của tỉnh Điện Biên, giai đoạn 2015-2016
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
174 TCNCYH 128 (4) - 2020
Tác giả liên hệ: Nguyễn Việt Nga
Cục Phòng, chống HIV/AIDS - Bộ Y tế
Email: [email protected]
Ngày nhận: 14/04/2020
Ngày được chấp nhận: 11/05/2020
KẾT QUẢ THỰC HIỆN MÔ HÌNH XÉT NGHIỆM CHẨN ĐOÁN HIV 
TẠI 2 CƠ SỞ Y TẾ TUYẾN HUYỆN MIỀN NÚI 
CỦA TỈNH ĐIỆN BIÊN, GIAI ĐOẠN 2015 - 2016
Nguyễn Việt Nga¹, Hồ Thị Hiền², Nguyễn Thanh Long³
¹Cục Phòng, chống HIV/AIDS - Bộ Y tế, 
²Trường Đại học Y tế công cộng, 
³Bộ Y tế
Xét nghiệm HIV tại điểm chăm sóc và điều trị (POCT - Point of care testing) để chẩn đoán HIV là mô hình 
xét nghiệm sử dụng phương cách kết hợp 3 sinh phẩm nhanh tại cơ sở y tế tuyến huyện nhằm cung cấp xét 
nghiệm nhanh, chính xác, dễ tiếp cận để tăng hiệu quả xét nghiệm tại các khu vực đi lại khó khăn, điều kiện 
tiếp cận các dịch vụ y tế còn hạn chế. Nghiên cứu mô tả cắt ngang dựa trên số liệu thứ cấp ghi chép hoạt 
động xét nghiệm HIV được thực hiện trong thời gian can thiệp, mục tiêu nhằm mô tả kết quả thực hiện của 
mô hình xét nghiệm POCT chẩn đoán HIV và đánh giá các hiệu quả can thiệp. Thông tin về kết quả thực hiện 
xét nghiệm tại mô hình can thiệp gồm có kết quả xét nghiệm sàng lọc, chẩn đoán HIV, đăng ký điều trị tại cơ 
sở khám điều trị HIV và bắt đầu được điều trị ARV của bệnh nhân được quản lý và phân tích sử dụng phần 
mềm SPSS 18.0. Kết quả có 3074 khách hàng đến xét nghiệm HIV trong nghiên cứu, 100% khách hàng xét 
nghiệm đều quay trở lại nhận kết quả xét nghiệm. Trong đó: 4,1% khách hàng có kết luận dương tính với 
HIV, 82,5% khách hàng dương tính với HIV được kết nối với cơ sở chăm sóc điều trị HIV và 100% khách 
hàng đã kết nối đều được điều trị ARV. Mô hình can thiệp POCT chẩn đoán HIV tại cơ sở y tế tuyến huyện 
đã góp phần giảm tỷ lệ mất dấu trước khi nhận kết quả và cải thiện tỷ lệ bệnh nhân HIV được điều trị ARV. 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Xét nghiệm HIV tại điểm chăm sóc và điều trị 
hay còn gọi là POCT HIV là mô hình cung cấp 
xét nghiệm HIV đơn giản cho kết quả nhanh, 
không cần trang thiết bị và đào tạo chuyên biệt, 
có thể do cán bộ y tế, người làm xét nghiệm 
không chuyên thậm chí nhân viên cộng đồng 
thực hiện hoặc tự xét nghiệm. Mô hình có ưu 
điểm: linh hoạt tiện lợi và dễ áp dụng ở nhiều 
hoàn cảnh khác nhau như ở các vùng sâu xa, 
điều kiện giao thông khó khăn, nơi có nhiều đối 
tượng nguy cơ cao khó tiếp cận, hệ thống y tế 
còn khó khăn, tại cộng đồng hoặc cơ sở y tế, 
để sàng lọc hoặc chẩn đoán.1 Các nghiên cứu 
đánh giá cho thấy mô hình POCT HIV hiệu quả 
cải thiện tỷ lệ tiếp cận với đối tượng chưa từng 
xét nghiệm HIV, các đối tượng cần xét nghiệm 
lại, các trường hợp nhiễm HIV chưa được phát 
hiện, tiếp cận sớm hơn với những người nhiễm 
HIV, tăng tỷ lệ kết nối chuyển gửi tới chăm sóc 
điều trị, giảm thời gian và tiếp kiệm chi phí.2 - 5 
Tuy nhiên POCT HIV cũng có thể chẩn đoán 
sai nếu không kiểm soát các yếu tố đảm bảo 
chất lượng như đào tạo nhân lực, đánh giá chất 
lượng sinh phẩm, kiểm soát chất lượng từ bên 
ngoài, giám sát hỗ trợ kỹ thuật và hậu kiểm.
Dịch HIV ở Việt Nam tập trung chủ yếu trong 
các nhóm nguy cơ cao, ở một số tỉnh thành phố 
trọng điểm trong đó có miền núi phía Bắc. Tuy 
nhiên với mô hình xét nghiệm tập trung được 
Từ khóa: HIV, Xét nghiệm HIV, Xét nghiệm tại điểm chăm sóc và điều trị.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
175TCNCYH 128 (4) - 2020
áp dụng tại các tỉnh trước giai đoạn can thiệp 
cần có cơ sở xét nghiệm, cán bộ được đào tạo 
và trang thiết bị xét nghiệm nên phần nhiều mỗi 
tỉnh thường chỉ có 1 phòng xét nghiệm khẳng 
định HIV. Mô hình tập trung này có nhược điểm 
xa dân, tốn nguồn lực và thời gian do thời gian 
xét nghiệm dài, phải vận chuyển thu gom mẫu 
bệnh phẩm từ các tuyến xã, huyện lên tỉnh sẽ 
dẫn đến tình trạng bệnh nhân phải chờ đợi, đi lại 
nhận kết quả nên tỷ lệ tiếp cận xét nghiệm thấp, 
tỷ lệ nhận kết quả không cao thường bị mất dấu 
trước nhận kết quả thậm chí có trường hợp tử 
vong trước khi biết kết quả, tỷ lệ chuyển gửi kết 
nối tới chăm sóc và điều trị thấp gây khó khăn 
cho công tác khống chế lây nhiễm, nâng cao 
sức khỏe và kéo dài tuổi thọ của bệnh nhân. Để 
khắc phục các nhược điểm trên, can thiệp mô 
hình POCT để chẩn đoán HIV là cần thiết đặc 
biệt là ở các khu vực vùng núi, vùng sâu, vùng 
xa và các địa bàn hẻo lánh khó khăn. Bài báo 
mô tả kết quả thực hiện mô hình xét nghiệm 
chẩn đoán HIV bằng 3 sinh phẩm nhanh tại cơ 
sở y tế tuyến huyện của 2 huyện có tỷ lệ hiện 
nhiễm HIV và số lượng mẫu xét nghiệm sàng 
lọc phát hiện nhiễm HIV cao hàng năm của tỉnh 
Điện Biên.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
Nghiên cứu gồm 3074 khách hàng đến thực 
hiện xét nghiệm HIV và được xét nghiệm chẩn 
đoán bằng 3 sinh phẩm nhanh tại Trung tâm y 
tế (TTYT) huyện Điện Biên và huyện Tuần Giáo 
của tỉnh Điện Biên trong mô hình can thiệp. Tiêu 
chuẩn lựa chọn gồm những khách hàng được 
tư vấn và tự nguyện xét nghiệm HIV. Tiêu chuẩn 
loại trừ gồm: những khách hàng không đồng ý 
tự nguyện xét nghiệm hoặc xét nghiệm bằng mô 
hình xét nghiệm khác hoặc các mẫu máu được 
chuyển gửi từ các đơn vị khác trên địa bàn tỉnh 
không được đưa vào mẫu nghiên cứu.
2. Phương pháp 
Thiết kế nghiên cứu cắt ngang, nghiên cứu 
định lượng dựa trên số liệu thứ cấp thực hiện 
xét nghiệm trong giai đoạn 2015 - 2016 tại 2 cơ 
sở y tế được can thiệp. 
Các khách hàng đến sẽ được tư vấn, lấy 
mẫu và thực hiện xét nghiệm theo phương 
pháp sau: xét nghiệm sàng lọc bằng kỹ thuật 
đơn giản với các sinh phẩm nhanh, với các 
khách hàng có phản ứng sẽ được xét nghiệm 
chẩn đoán HIV theo chiến lược III bằng phương 
cách kết hợp 3 sinh phẩm nhanh (RTA) gồm 
Determine HIV ½, SD Bioline HIV 1/2 3.0, Vikia 
HIV ½ ngay tại 2 cơ sở can thiệp. 
Các biến số nghiên cứu gồm: (1) Kết quả xét 
nghiệm sàng lọc, chẩn đoán HIV, mức độ đồng 
nhất giữa kết quả thực hiện của các sinh phẩm 
xét nghiệm. (2) Tình trạng quay trở lại nhận kết 
quả xét nghiệm HIV (3) Kết quả kết nối chuyển 
gửi sau xét nghiệm dương tính HIV: Kết nối tới 
chăm sóc điều trị, bắt đầu điều trị ARV.
3. Xử lý số liệu
Công cụ thu thập số liệu được xây dựng 
trên đề tài nghiên cứu đánh giá thực trạng hoạt 
động xét nghiệm HIV và các quy định của Bộ 
Y tế về việc ghi chép biểu mẫu báo cáo hoạt 
động xét nghiệm HIV 6, quản lý theo dõi điều 
trị ARV 7. 
Số liệu được thu thập từ các sổ tư vấn xét 
nghiệm HIV, xét nghiệm HIV, xét nghiệm T - 
CD4, quản lý trước điều trị, quản lý điều trị ARV. 
Số liệu sau khi thu thập sẽ được rà soát, đối 
chiếu số liệu đang quản lý trong phần mềm HIV 
info để bổ sung các thông tin còn thiếu. Số liệu 
được quản lý, phân tích bằng phần mềm thống 
kê SPSS 18.0 và thực hiện thống kê mô tả y 
học.
4. Đạo đức nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện với mục tiêu 
nghiên cứu khoa học, quá trình mô tả nghiên 
cứu và can thiệp mô hình xét nghiệm đảm bảo 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
176 TCNCYH 128 (4) - 2020
chất lượng, không ảnh hưởng đến quá trình 
khám và điều trị của bệnh nhân. Mô hình được 
sự cho phép thí điểm của Bộ Y tế tại Quyết 
định số 421/QĐ - BYT. Khách hàng đồng ý tự 
nguyện xét nghiệm, các thông tin thu thập của 
khách hàng được đảm bảo bí mật và chỉ phục 
vụ cho mục đích nghiên cứu khoa học. Nghiên 
cứu được hội đồng đạo đức của Trường Đại 
học Y tế công cộng thông qua tại Quyết định số 
301/2017YTCC - HD3, ngày 10/5/2017. 
III. KẾT QUẢ
1. Kết quả thực hiện xét nghiệm HIV
Có 3074 khách hàng xét nghiệm tiếp cận với mô hình can thiệp tại 2 huyện trong thời gian nghiên 
cứu.
Bảng 1. Phân bố kết quả thực hiện xét nghiệm theo địa bàn 
Kết quả thực hiện xét 
nghiệm
Theo địa bàn
Huyện Điện Biên Tuần Giáo Chung
n % n % n %
Sàng lọc HIV
Có phản ứng 59 4,7 70 3,8 129 4,2
Âm tính 1190 95,3 1755 96,2 2945 95,8
Khẳng định HIV
Dương tính 59 4,7 67 3,7 126 4,1
Âm tính 1190 95,3 1755 96,2 2945 95,8
Không xác định 0 0 3 0,2 3 0,1
So sánh kết quả giữa sàng 
lọc và khẳng định
Đồng nhất 1249 100 1825 100 3074 100
Không đồng nhất 0 0,0 0 0,0 0 0,0
Tổng 1249 100 1825 100 3074 100
Kết quả thực hiện xét nghiệm sàng lọc có 95,8% âm tính và 4,2% có phản ứng. Sau khi khách 
hàng có phản ứng sẽ được thực hiện chẩn đoán HIV bằng 3 sinh phẩm nhanh tại mô hình can thiệp 
có tỷ lệ khách hàng kết luận âm tính, không xác định, dương tính với HIV lần lượt là 95,8%; 0,1% và 
4,1%. Trong đó, kết quả phát hiện tỷ lệ khách hàng kết luận dương tính tại TTYT Huyện Điện Biên 
là 4,7% cao hơn so với tỷ lệ 3,7% ở TTYT Huyện Tuần Giáo.
100% kết quả giữa xét nghiệm sàng lọc và xét nghiệm chẩn đoán HIV theo chiến lược xét nghiệm 
ở 2 cơ sở y tế huyện đều là đồng nhất.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
177TCNCYH 128 (4) - 2020
Bảng 2. Phân bố kết quả nhận kết quả xét nghiệm chẩn đoán HIV theo địa bàn 
Khách hàng 
nhận kết quả xét nghiệm 
Địa bàn
Huyện Điện Biên Tuần Giáo Chung
n % n % n %
Dương tính 59 100 67 100 126 100
Âm tính 1190 100 1755 100 2945 100
Không xác định 0 0 3 100 3 100
Tổng 1249 100 1825 100 3074 100
 Tỷ lệ nhận kết quả xét nghiệm trong các nhóm khách hàng chung, khách hàng âm tính, 
khách hàng dương tính và khách hàng có kết quả không xác định với HIV ở 2 cơ sở y tế huyện 
không có sự khác biệt và đều đạt 100%. 
2. Kết quả kết nối chuyển gửi sau chẩn đoán HIV dương tính
Bảng 3. Phân bố kết quả chuyển tiếp của khách hàng dương tính HIV theo địa bàn 
Khách hàng
 dương tính HIV
Địa bàn
Huyện Điện Biên Tuần Giáo Chung
n % n % n %
Kết nối với phòng khám điều 
trị HIV 
43 72,9 61 91,0 104 82,5
Được điều trị ARV 43 72,9 61 91,0 104 82,5
Tỷ lệ kết nối cơ sở khám, điều trị HIV tại 2 
huyện tham gia nghiên cứu cao 82,5% và chỉ 
có 17,5% không kết nối với cơ sở chăm sóc 
điều trị do có 22 trường hợp mất dấu sau nhận 
kết quả xét nghiệm ở huyện Điện Biên (16 
trường hợp chiếm tỷ lệ 27,1%) và huyện Tuần 
Giáo (6 trường hợp chiếm 9%). 100% các bệnh 
nhân đã kết nối với cơ sở khám, điều trị HIV 
đều được điều trị ARV tuy nhiên tỷ lệ kết nối 
thành công từ khi xét nghiệm HIV dương tính 
đến được điều trị ARV đạt 82,5%, trong đó tỷ lệ 
bệnh nhân dương tính HIV được điều trị ARV 
ở huyện Điện Biên là 72,9% thấp hơn so với 
kết quả thực hiện ở huyện Tuần Giáo là 91%. 
Không có trường hợp nào bị mất dấu ở giai 
đoạn này ở cả 2 huyện. 
IV. BÀN LUẬN
Đây là kết quả nghiên cứu đầu tiên tại Việt 
Nam đánh giá kết quả áp dụng POCT chẩn 
đoán HIV tại tuyến huyện bằng việc theo dõi 
giám sát ca bệnh từ khi đến xét nghiệm HIV đến 
khi duy trì kết nối điều trị ARV, cung cấp cơ sở 
cho việc phát triển hệ thống giám sát ca bệnh 
đầy đủ và bằng chứng hiệu quả mô hình POCT 
chẩn đoán HIV trong việc khắc phục một số tồn 
tại của mô hình xét nghiệm tập trung tại thành 
thị đang thực hiện tại các khu vực miền núi.
Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng tỷ lệ phát 
hiện dương tính trong mô hình can thiệp là 4,1% 
cao hơn so với báo cáo phát hiện nhiễm HIV ở 
mô hình xét nghiệm HIV truyền thống đang áp 
dụng toàn quốc cùng thời điểm là 1,2% (2015), 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
178 TCNCYH 128 (4) - 2020
0,7% (2016) và tại địa bàn tỉnh Điện Biên là 
1,7% (2015) và 1,3% (2016).8 
Nghiên cứu cũng cho thấy việc cải thiện 
chất lượng xét nghiệm trong mô hình can thiệp 
đang áp dụng qua kết quả tỷ lệ đồng nhất kết 
quả giữa sàng lọc và khẳng định nhiễm HIV cao 
ở các site nghiên cứu. Không có trường hợp 
nào kết quả không đồng nhất giữa sàng lọc và 
chẩn đoán HIV theo quy định của chiến lược 
xét nghiệm, thấp hơn so với báo cáo chung của 
Tổ chức y tế thế giới tỷ lệ là 0,4 - 7,3%,9 báo 
cáo nghiên cứu áp dụng tại cơ sở chăm sóc 
sức khỏe ban đầu ở Los Angeles là 0,06%.4 Tỷ 
lệ dương tính giả trong xét nghiệm sàng lọc của 
nghiên cứu là 3/126 thấp hơn so với một số 
kết quả nghiên cứu trước đó như tỷ lệ 17/600 
trong nghiên cứu đánh giá chất lượng 7 sinh 
phẩm nhanh tại phòng xét nghiệm chuẩn thức 
năm 2011,10 1/347 trong nghiên cứu đánh giá 
3 sinh phẩm tại Viện Pasteur Tp. Hồ Chí Minh 
năm 2000 11 và 49/129 nghiên cứu thực hiện áp 
dụng xét nghiệm POCT HIV sàng lọc tại tuyến 
xã ở Điện Biên và Cần Thơ năm 2013.12 
Từ kết quả của nghiên cứu cho thấy rằng 
ở mô hình POCT chẩn đoán HIV cải thiện tỷ lệ 
nhận kết quả và giảm mất dấu ở giai đoạn này, 
cụ thể: tỷ lệ nhận kết quả xét nghiệm chung 
và của khách hàng dương tính rất cao đều là 
100%. Cao hơn so ghi nhận của hệ thống báo 
cáo trực tuyến toàn tỉnh cùng thời điểm ở tỉnh 
Điện Biên (95,8% và 90,6%),8 so sánh với kết 
quả nghiên cứu ở Sơn La năm 2011 (99,6% và 
99,1%),13 kết quả từ một số nghiên cứu áp dụng 
POCT chẩn đoán HIV tại phòng khám cho dân 
nhập cư gốc phi của Pháp (98,2%),14 nghiên 
cứu tại Phòng khám Lao của Ghana (100%),15 
nghiên cứu tại phòng khám sức khỏe cho vị 
thành niên ở Mỹ (91,3% sau 1 - 21 ngày),16 
nghiên cứu ở cơ sở chăm sóc sức khỏe ban 
đầu ở LosAngeles 100%.4 Tỷ lệ mất dấu trước 
khi nhận kết quả xét nghiệm là 0% trong khi đó 
các nghiên cứu khác cao hơn như nghiên cứu 
tại Mỹ là 4%,16 nghiên cứu tổng thể tại Mỹ có 
21% khách hàng không quay trở lại nhận kết 
quả xét nghiệm.3
Kết quả của nghiên cứu cho thấy mô hình 
đóng góp vào việc cải thiện kết nối thành công 
tới chăm sóc và điều trị với tỷ lệ là 82,5%, cao 
hơn nhiều so với nghiên cứu 59 cơ sở điều trị 
ARV ngoại trú giai đoạn 2012 - 2013 là 54,4%,17 
nghiên cứu tại Ninh Bình năm 2017 là 49%.18 
Một số nghiên cứu trên thế giới cho thấy kết 
quả kết nối tới chăm sóc và điều trị tùy thuộc 
vào địa điểm và cách thức áp dụng mô hình 
POCT chẩn đoán HIV như: tỷ lệ này là 73,3% 
tại POC ở New Jersey năm 2010;19 100% tại 
tại các cơ sở chăm sóc sức khỏe ban đầu ở 
Los Angeles năm 2009;4 90% tại phòng khám 
cho dân nhập cư gốc phi của Pháp năm 2015;14 
71,42% tại các phòng khám cấp cứu ở Mỹ năm 
2014;20 93% khi có sự hỗ trợ của nhân viên y 
tế tại phòng khám cấp cứu ở Mỹ năm 2016.21 
Nghiên cứu cũng chỉ ra 100% bệnh nhân đã kết 
nối đều được điều trị ARV, như vậy có 82,5% 
bệnh nhân chẩn đoán HIV được điều trị ARV, 
cao hơn so với kết quả nghiên cứu tại 59 cơ sở 
điều trị ngoại trú ARV toàn quốc giai đoạn 2012 
- 2013 là 46,3%,17 nghiên cứu tại tỉnh miền núi 
Sơn La năm 2013 với mô hình xét nghiệm tập 
trung là 20%.13 nghiên cứu ở tỉnh đồng bằng 
Ninh Bình năm 2015 với mô hình xét nghiệm 
tập trung là 80%.18
V. KẾT LUẬN
Tỷ lệ đồng nhất giữa kết quả xét nghiệm 
sàng lọc và khẳng định nhiễm HIV trong mô 
hình can thiệp là 100%, chứng tỏ chất lượng 
dịch vụ xét nghiệm HIV tại cơ sở can thiệp đang 
được cải thiện. Tỷ lệ khách hàng nhận được 
kết quả xét nghiệm ở tất cả các nhóm khách 
hàng đều đạt 100% cho thấy việc cải thiện nhận 
kết quả và giảm mất dấu trong giai đoạn xét 
nghiệm. Tỷ lệ kết nối tới cơ sở khám điều trị 
ARV cao đạt 82,5%, mô hình góp phần vào việc 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
179TCNCYH 128 (4) - 2020
cải thiện tỷ lệ bệnh nhân HIV được điều trị ARV. 
Vẫn còn khoảng 17,5% bệnh nhân bị mất dấu 
ở giai đoạn sau xét nghiệm và trước khi đến với 
cơ sở điều trị ARV. 
Cần tiếp tục duy trì và mở rộng mô hình can 
thiệp tại các địa bàn khó khăn về tiếp cận dịch 
vụ song song với việc giám sát tăng cường cải 
thiện duy trì chất lượng dịch vụ.Tăng cường 
hoạt động phối hợp giữa cán bộ tư vấn xét 
nghiệm HIV và cán bộ chăm sóc điều trị khi trả 
kết quả cho bệnh nhân để đồng thời thực hiện 
việc tư vấn điều trị cho bệnh nhân ngay cùng 
thời điểm. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Peeling RW, Holmes KK, Mabey D, 
Ronald A. Rapid tests for sexually transmitted 
infections (STIs): the way forward. Sexually 
transmitted infections. 2006;82.
2. Minichiello A, Swab M, Chongo M, et 
al. HIV point - of - care testing in Canadian 
settings: a scoping review. Frontiers in public 
health. 2017;5:76.
3. Gilbert M. Impact and Use of Point of 
Care HIV Testing: A Public Health Evidence 
Paper (updated October 2010). BC Centre 
for Disease Control, STI/HIV Prevention and 
Control; 2010.
4. Jacqueline R, Mike J, Peter K. Use of 
Three Rapid HIV test algorithm at Point of care 
Settings: Contry of Los Angeles, Department 
of Public Health Experience. Presented at The 
2010 HIV Diagnostics Conference; March 24 - 
26,, 2010; Orlando, FL.
5. Stevinsona K, Martinb EG, Marcellac 
S, Pauld SM. Cost effectiveness analysis of 
the New Jersey rapid testing algorithm for HIV 
testing in publicly funded testing sites. Journal 
of Clinical Virology. 2011.
6. Bộ Y tế. Quyết định số 868/QĐ - BYT 
về việc Ban hành 7 biểu mẫu sổ sách dùng cho 
phòng xét nghiệm HIV. 2005.
7. Bộ Y tế. Thông tư số 32/2013/TT - BYT 
hướng dẫn quản lý, theo dõi điều trị người 
nhiễm HIV và người phơi nhiễm với HIV. 2013.
8. Cục Phòng chống HIV/AIDS. Hệ thống 
báo cáo trực tuyến hoạt động phòng, chống 
HIV/AIDS định kỳ.
9. Johnson C, Fonner V, Sands A, et al. 
A report on the misdiagnosis of HIV status. 
Consolidated Guidelines on HIV Testing 
Services: 5Cs: Consent, Confidentiality, 
Counselling, Correct Results and Connection 
2015: World Health Organization; 2015.
10. Phạm Hồng Thắng, Nguyễn Anh Tuấn, 
Hoàng Thị Thanh Hà, et al. Đánh giá chất 
lượng 11 sinh phẩm xét nghiệm chẩn đoán 
HIV tại Việt Nam. Tạp chí Y học dự phòng. 
2012;XXII(8(135)):240 - 246.
11. Lien TX, Tien NTK, Chanpong GF, et 
al. Evaluation of rapid diagnostic tests for the 
detection of human immunodeficiency virus 
types 1 and 2, hepatitis B surface antigen, 
and syphilis in Ho Chi Minh City, Vietnam. 
The American journal of tropical medicine and 
hygiene. 2000;62(2):301 - 309.
12. Van NTT, Best S, Thang PH, et al. HIV 
point of care diagnosis: preventing misdiagnosis 
experience from a pilot of rapid test algorithm 
implementation in selected communes in 
Vietnam. Journal of the International AIDS 
Society. 2017;20(S6).
13. Đào Thị Minh An, Lê Minh Giang, Đàm 
Văn Hưởng, et al. Phân tích tháp dịch vụ xét 
nghiệm HIV tự nguyện - Điều trị ngoại trú HIV 
tại tỉnh Sơn La năm 2012. Y học thực hành. 
2013;889+890:417.
14. Bottero J, Boyd A, Gozlan J, et al. 
Simultaneous HIV - HBV - HCV point - of 
- care tests improve outcomes in linkage - 
to - care: Results of a randomized - control 
trial in persons without healthcare coverage. 
Paper presented at: Open Forum Infectious 
Diseases2015.
15. Appiah LT, Havers F, Gibson J, Kay M, 
Sarfo F, Chadwick D. Efficacy and acceptability 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
180 TCNCYH 128 (4) - 2020
of rapid, point - of - care HIV testing in two 
clinical settings in Ghana. AIDS patient care 
and STDs. 2009;23(5):365 - 369.
16. Mullins TLK, Braverman PK, Dorn LD, 
Kollar LM, Kahn JA. Adolescent preferences for 
human immunodeficiency virus testing methods 
and impact of rapid tests on receipt of results. 
Journal of Adolescent Health. 2010;46(2):162 - 
168.
17. Koirala S, Deuba K, Nampaisan O, 
Marrone G, Ekström AM. Facilitators and 
barriers for retention in HIV care between testing 
and treatment in Asia A study in Bangladesh, 
Indonesia, Lao, Nepal, Pakistan, Philippines 
and Vietnam. PloS one. 2017;12(5):e0176914.
18. Chau LB, Hoa ĐM, Hoang NM, Anh 
ND, Nương NT. Linkage between HIV diagnosis 
and care: Understanding the role of gender in a 
northern province in Vietnam. Health care for 
women international. 2017:1 - 13.
19. Eugene G. Martina, Gratian Salarua, 
Sindy M. Paulb, Cadoff EM. Use of a rapid HIV 
testing algorithm to improve linkage to care. 
Journal of Clinical Virology. 2011;2311.
20. Egan DJ, Nakao JH, VanLeer PM, Pati 
R, Sharp VL, Wiener DE. Increased rates of 
rapid point - of - care HIV testing using patient 
care technicians to perform tests in the ED. 
The American journal of emergency medicine. 
2014;32(6):651 - 654.
21. Signer D, Peterson S, Hsieh Y - H, 
et al. Scaling up HIV testing in an academic 
emergency department: An integrated testing 
model with rapid fourth - generation and 
point - of - care testing. Public health reports. 
2016;131(1_suppl):82 - 89.
 Summary
RESULTS OF IMPLEMENTING HIV CONFIRM TESTING MODEL AT 
TWO MOUNTAIN DISTRICT MEDICAL FACILITIES 
IN DIEN BIEN PROVINCE
HIV testing at the point of care and treatment (POCT) to diagnosis HIV is a testing model to 
confirm infective HIV using an HIV testing algorithm that uses a combination of three rapid diagnostic 
tests (RDTs) at district medical health facilities. It aims to provide quick, accurate, accessible testing 
to increase the effectiveness of testing in difficult traffic areas, where approach limitedly to health 
services. A cross - sectional descriptive study based on secondary data HIV testing logbooks during 
applying POCT to diagnosis HIV model. The paper describes the result performance of this model, thus 
evaluating the effectiveness of intervention. Information of patients at the intervention model includes 
results of screening tests, HIV confirmation, linkage to care and ART initiation which managed and 
analyzed by using SPSS 18.0 software. As a result, 3074 customers came to test HIV was studied. 
100% of tested clients have returned to receive their results, 4.1% among clients have HIV - positive, 
82.5% among HIV - positive clients were connected to care and treatment clinics and 100% of treatment 
connected clients have acquisition for ARV treatment. Intervention models for HIV confirmatory testing 
at the district health facilities has contributed to reducing loss follow up to patient before the results 
reach the patients’ hands and improve the proportion of people living with HIV taking ARV treatment. 
Keywords: HIV, HIV testing, POCT

File đính kèm:

  • pdfket_qua_thuc_hien_mo_hinh_xet_nghiem_chan_doan_hiv_tai_2_co.pdf