Kết quả tán sỏi qua da qua đường hầm nhỏ tư thế nằm nghiêng dưới hướng dẫn của siêu âm

Mục đích của nghiên cứu này là để đánh giá tính hiệu quả và an toàn của tán sỏi qua da qua đường hầm

nhỏ tư thế nằm nghiêng 90 độ dưới hướng dẫn của siêu âm trong điều trị sỏi thận. Chúng tôi tiến hành nghiên

cứu mô tả hồi cứu gồm 118 bệnh nhân với 119 phẫu thuật trong thời gian từ tháng 1 đến tháng 6 năm 2020.

Tuổi trung bình là 53,6 ± 11,1 và kích thước trung bình của sỏi là 25,7 ± 9,8 mm. Có 3 phẫu thuật sử dụng nhiều

đường hầm trong cùng một lần tán sỏi, 13,4% phẫu thuật không đặt dẫn lưu thận và thời gian phẫu thuật trung

bình là 68,5 phút. Tỷ lệ sạch sỏi sau lần phẫu thuật thứ nhất và thứ 2 lần lượt là 83,3% và 89,9%. Tỷ lệ sốt sau

mổ là 5,9% và không ghi nhận trường hợp nào có biểu hiện sốc nhiễm trùng. Tỷ lệ phải truyền máu là 3,4% và

nút mạch chọn lọc là 2,5%. Thời gian nằm viện trung bình sau mổ là 3,9 ± 2,6 ngày. Từ các kết quả thu được

như trên cho thấy đây là một phương pháp đảm bảo được tính hiệu quả và an toàn trong điều trị sỏi tiết niệu

pdf 7 trang phuongnguyen 120
Bạn đang xem tài liệu "Kết quả tán sỏi qua da qua đường hầm nhỏ tư thế nằm nghiêng dưới hướng dẫn của siêu âm", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Kết quả tán sỏi qua da qua đường hầm nhỏ tư thế nằm nghiêng dưới hướng dẫn của siêu âm

Kết quả tán sỏi qua da qua đường hầm nhỏ tư thế nằm nghiêng dưới hướng dẫn của siêu âm
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
109TCNCYH 134 (10) - 2020
Tác giả liên hệ: Nguyễn Đình Bắc, 
Bệnh viện Đại học Y Hà Nội
Email: [email protected]
Ngày nhận: 10/10/2020
Ngày được chấp nhận: 03/12/2020
Sỏi thận là bệnh lý thường gặp, gây ra nhiều 
hậu quả về kinh tế xã hội và ảnh hưởng xấu 
đến sức khỏe. Hơn thế nữa sỏi thận là một 
bệnh lý có tỷ lệ tái phát cao với nguy cơ tái 
phát trên 50%.1 Với sự phát triển nhanh chóng 
của khoa học công nghệ ngày càng có nhiều 
phương pháp can thiệp ít xâm lấn ra đời đặc 
biệt là tán sỏi qua da đã dần thay thế mổ mở 
trong điều trị sỏi thận.2 Tán sỏi qua da là phẫu 
thuật có tính hiệu quả cao tuy nhiên đây vẫn là 
một phẫu thuật khó và có thể gặp một số biến 
chứng nặng.3 Để làm giảm các biến chứng liên 
quan đến dụng cụ phẫu thuật cũng như cách 
thức phẫu thuật, tán sỏi qua da qua đường 
hầm tiêu chuẩn đã có nhiều cải tiến. Một trong 
những cải tiến quan trọng là thu nhỏ kích thước 
của đường hầm tán sỏi và về sau được gọi 
là tán sỏi qua da qua đường hầm nhỏ. Helal 
và cộng sự là những người đầu tiên mô tả kỹ 
thuật này để tán sỏi thận ở trẻ em và về sau kỹ 
thuật này được áp dụng cho cả người trưởng 
thành.4 Ban đầu tán sỏi qua da được đặt ở tư 
thế nằm sấp và đã chứng minh được tính hiệu 
quả, tuy nhiên nhược điểm của tư thế này là sẽ 
gây ra khó khăn cho gây mê đặc biệt là những 
bệnh nhân có vấn đề về hô hấp, tim mạch. Vì 
vậy một số tác giả trên thế giới đã báo cáo kết 
quả tán sỏi qua da ở tư thế nằm nghiêng, nằm 
ngửa và cũng đã cho những kết quả tốt.5 Xuất 
phát từ những lí do trên chúng tôi báo cáo kết 
quả tán sỏi qua da qua đường hầm nhỏ ở tư 
thế nằm nghiêng dưới hướng dẫn của siêu âm 
để để đánh giá tính hiệu quả và an toàn của 
phẫu thuật này cũng như xem xét lại một số 
thay đổi về chỉ định, cách thức phẫu thuật của 
phẫu thuật này.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
Đối tượng nghiên cứu của chúng tôi gồm 
các bệnh nhân được tán sỏi qua da qua đường 
KẾT QUẢ TÁN SỎI QUA DA QUA ĐƯỜNG HẦM NHỎ TƯ THẾ 
NẰM NGHIÊNG DƯỚI HƯỚNG DẪN CỦA SIÊU ÂM
Hoàng Long, Trần Quốc Hòa, Chu Văn Lâm, 
Nguyễn Thị Hằng Trang và Nguyễn Đình Bắc 
Bệnh viện Đại Học Y Hà Nội.
Mục đích của nghiên cứu này là để đánh giá tính hiệu quả và an toàn của tán sỏi qua da qua đường hầm 
nhỏ tư thế nằm nghiêng 90 độ dưới hướng dẫn của siêu âm trong điều trị sỏi thận. Chúng tôi tiến hành nghiên 
cứu mô tả hồi cứu gồm 118 bệnh nhân với 119 phẫu thuật trong thời gian từ tháng 1 đến tháng 6 năm 2020. 
Tuổi trung bình là 53,6 ± 11,1 và kích thước trung bình của sỏi là 25,7 ± 9,8 mm. Có 3 phẫu thuật sử dụng nhiều 
đường hầm trong cùng một lần tán sỏi, 13,4% phẫu thuật không đặt dẫn lưu thận và thời gian phẫu thuật trung 
bình là 68,5 phút. Tỷ lệ sạch sỏi sau lần phẫu thuật thứ nhất và thứ 2 lần lượt là 83,3% và 89,9%. Tỷ lệ sốt sau 
mổ là 5,9% và không ghi nhận trường hợp nào có biểu hiện sốc nhiễm trùng. Tỷ lệ phải truyền máu là 3,4% và 
nút mạch chọn lọc là 2,5%. Thời gian nằm viện trung bình sau mổ là 3,9 ± 2,6 ngày. Từ các kết quả thu được 
như trên cho thấy đây là một phương pháp đảm bảo được tính hiệu quả và an toàn trong điều trị sỏi tiết niệu.
Từ khóa: Tán sỏi qua da, tán sỏi qua da, tán sỏi qua da qua đường hầm nhỏ.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
110 TCNCYH 134 (10) - 2020
hầm nhỏ ở tư thế nằm nghiêng 90 độ dưới 
hướng dẫn của siêu âm tại Bệnh viện Đại Học 
Y Hà Nội trong khoảng thời gian từ tháng 1 đến 
tháng 6 năm 2020. Chỉ định tán sỏi qua da qua 
đường hầm nhỏ trong nghiên cứu này gồm: sỏi 
thận (sỏi bể thận, sỏi đài thận và sỏi san hô 
thận), sỏi niệu quản 1/3 trên và sỏi nhiều vị trí 
(sỏi bể thận phối hợp với sỏi ở các đài thận, sỏi 
thận phối hợp với sỏi niệu quản.
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu mô tả hồi 
cứu gồm 118 bệnh nhân với 119 phẫu thuật tán 
sỏi qua da qua đường hầm nhỏ dưới hướng 
dẫn của siêu âm. Các chỉ số trước mổ (tuổi, 
giới, vị trí sỏi, kích thước sỏi), trong mổ (các 
phẫu thuật kèm kèm theo, số lượng đường hầm 
khi tán sỏi, vị trí tạo đường hầm, đặt dẫn lưu 
thận và thời gian phẫu thuật) và sau mổ (phẫu 
thuật lần 2, tỷ lệ sạch sỏi, tỷ lệ biến chứng và 
thời gian nằm viện) được thu thập vào trong 
nghiên cứu này. Trong đó, tính hiệu quả của 
phẫu thuật được đánh giá dựa vào thời gian 
phẫu thuật, tỷ lệ sạch sỏi sau mổ và thời gian 
nằm viện sau mổ. Tính an toàn được đánh giá 
dựa trên tỷ lệ các biến chứng trong và sau mổ. 
3. Xử lý số liệu
Các chỉ số thu được sẽ được phân tích bằng 
phần mềm SPSS 20.0. 
4. Đạo đức trong nghiên cứu
Các thông tin của bệnh nhân được giữ bí 
mật và đảm bảo tính trung thực.
III. KẾT QUẢ
1. Đặc điểm trước mổ
Nghiên cứu gồm 118 bệnh nhân với 119 
phẫu thuật tán sỏi qua da qua đường hầm nhỏ. 
Tuổi trung bình là 53,6 tuổi, có 74 bệnh nhân 
nam (62,7%) và 44 bệnh nhân nữ (37,3%). 
Có 22 sỏi san hô (18,5%), 20 sỏi bể thận đơn 
thuần (16,8%), 9 sỏi khu trú ở các nhóm đài 
(7,6%), 4 sỏi niệu quản 1/3 trên (3,4%), 55 vừa 
có sỏi bể thận vừa có sỏi đài thận (46,2%) và 
9 sỏi niệu quản 1/3 trên phối hơp với sỏi ở các 
đài thận (7,6%). Kích thước trung bình của sỏi 
khi đo trên cắt lớp vi tính là 25,7 mm (bảng 1).
Bảng 1. Đặc điểm trước mổ
Đặc điểm Kết quả
Tuổi trung bình 53,6 ± 11,1
Giới
Nam 74 (62,7%)
Nữ 44 (37,3%)
Vị trí 
sỏi
Sỏi san hô 22 (18,5%)
Bể thận 20 (16,8%)
Đài thận 9 (7,6%)
Niệu quản 4 (3,4%)
Bể thận + đài 55 (46,2%)
Niệu quản + đài 9 (7,6%)
Kích thước sỏi trung bình 
(mm)
25,7 ± 9,8
2. Đặc điểm trong mổ
Trong 119 phẫu thuật tán sỏi qua da có 11 
phẫu thuật (9,2%) có phối hợp với các phẫu 
thuật khác. Có 3 phẫu thuật sử dụng nhiều hơn 
1 đường hầm (2,5%) (hình 1) và 116 phẫu thuật 
chỉ sử dụng 1 đường hầm (97,5%), trong đó 
hầu hết các đường hầm đều đi qua nhóm đài 
giữa. Có 16 phẫu thuật (13,4%) không đặt dẫn 
lưu thận. Thời gian phẫu thuật trung bình là 
68,5 phút (bảng 2).
Hình 1. Sử dụng nhiều đường hầm trong 
một lần tán sỏi
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
111TCNCYH 134 (10) - 2020
Bảng 2. Đặc điểm trong mổ
Đặc điểm Kết quả
Phẫu thuật khác 11 (9,2%)
Số lượng 
đường 
hầm
Một
Trên 2 (1,7%)
Giữa 108 (90,8%)
Dưới 6 (5,0%)
Nhiều 3 (2,5%)
Dẫn lưu 
thận
Có 103 (86,6%)
Không 16 (13,4%)
Thời gian phẫu thuật trung 
bình (phút)
68,5
3. Đặc điểm sau mổ
Có 12 phẫu thuật (9,9%) cần phẫu thuật 
lần 2, trong đó có 10 phẫu thuật lấy sỏi qua 
đường hầm cũ, 1 phẫu thuật tán sỏi nội soi 
ngược dòng và 1 phẫu thuật tán sỏi bằng ống 
soi mềm. Tỷ lệ sạch sỏi sau 1 lần phẫu thuật là 
83,3% và sau 2 lần phẫu thuật là 89,9%. Có 4 
phẫu thuật sau mổ phải truyền máu (3,4%), 3 
phẫu thuật phải can thiệp nút mạch chọn lọc 
(2,5%), 7 phẫu thuật có sốt sau mổ (5,9%) và 
không ghi nhận phẫu thuật nào có biểu hiện 
của sốc nhiễm trùng. Thời gian nằm viện trung 
bình là 3,9 ngày (bảng 3).
Bảng 3. Đặc điểm sau mổ
Đặc điểm Kết quả
Phẫu 
thuật 
lần 2
Lấy sỏi qua 
đường hầm cũ
10 (8,3%)
Tán sỏi nội soi 
ngược dòng
1 (0,8%)
Tán sỏi nôi soi 
bằng ống mềm
1 (0,8%)
Sạch sỏi
Sau lần 1 99 (83,3%)
Sau lần 2 107 (89,9%)
Biến 
chứng
Sốc nhiễm trùng 0 (0%)
Sốt 7 (5,9%)
Nút mạch 3 (2,5%)
Truyền máu 4 (3,4%)
Đặc điểm Kết quả
Thời gian nằm viện trung 
bình sau mổ(ngày)
3,9 ± 2,6 
IV. BÀN LUẬN
Năm 1976 Fernstrom và Johanson đã thực 
hiện thành công 4 trường hợp tán sỏi qua da 
tuy nhiên các tác giả này lại cho rằng phương 
pháp này chỉ áp dụng được trong các trường 
hợp sỏi đơn giản và tình trạng toàn thân kém.6 
Đến năm 1985, Segura báo cáo kinh nghiệm 
qua 1000 trường hợp tán sỏi qua da đã nhận 
xét đây là phẫu thuật an toàn và hiệu quả.7 Ban 
đầu tán sỏi qua da được chỉ định cho sỏi bể thận 
hoặc đài thận lớn hơn 20mm.2 Tuy nhiên nhờ 
tính hiệu quả và an toàn mà phẫu thuật này được 
mở rộng cho cả các trường hợp sỏi thận nhỏ hơn 
20 mm, sỏi niệu quản 1/3 trên, sỏi đài thận và sỏi 
san hô thận.8-10 Trong nghiên cứu của chúng tôi 
tán sỏi qua da qua đường hầm nhỏ được chỉ 
định cho các trường hợp sỏi thận (sỏi bể thận, 
sỏi khu trú ở các đài thận và sỏi san hô thận), 
sỏi niệu quản 1/3 trên và các trường hợp sỏi 
nhiều vị trí (sỏi bể thận phối hợp với các đài 
thận, sỏi niệu quản 1/3 trên phối hợp với sỏi 
thận) (bảng 1). Như vậy, chỉ định tán sỏi qua da 
qua đường hầm nhỏ ngày càng được mở rộng 
so với trước đây trong việc điều trị sỏi tiết niệu.
Ban đầu tán sỏi qua da được tiến hành ở 
tư thế nằm sấp và đã chứng minh được tính 
hiệu quả. Năm 1998 Valdivia Uria và cộng sự 
đã mô tả kỹ thuật tán sỏi qua da ở tư thế nằm 
ngửa như là một lựa chọn thay nhằm giảm 
nguy cơ biến chứng hô hấp và tim mạch ở các 
bệnh nhân nguy cơ cao.11 Đến năm 2010 Liu 
và cộng sự đã so sánh kết quả tán sỏi qua da 
ở tư thế nằm sấp với tư thế nằm ngửa và nhận 
thấy cả 2 phương pháp cho kết quả tương tự 
nhau về tính hiệu quả và an toàn.5 Ưu điểm của 
tư thế nằm ngửa so với nằm sấp là giảm được 
thời gian để chuyển tư thế, giảm các nguy cơ 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
112 TCNCYH 134 (10) - 2020
tai biến tim mạch và hô hấp ở các bệnh nhân 
nguy cơ cao. Ngược lại tư thế nằm sấp lại giúp 
tiếp cận sỏi đài sau với ít nguy cơ chảy máu nhu 
mô và ít tổn thương các tạng lân cận hơn so với 
khi tán sỏi qua da ở tư thế nằm ngửa.12 Tư thế 
nằm sấp cũng dễ dàng để tạo ra các đường hầm 
đa dạng và tránh làm giảm tầm nhìn do sự đổ 
sập xuống của các tạng trong ổ bụng trong tư thế 
nằm ngửa.12 Trong nghiên cứu này của chúng 
tôi tất cả các bệnh nhân được đặt ở tư thế nằm 
nghiêng 90 độ khi tán sỏi, đây là tư thế trung gian 
giữa tư thế nằm sấp và tư thế nằm ngửa. Với 
tư thế này chúng tôi có thể giảm các nguy cơ tai 
biến tim mạch, hô hấp ở các bệnh nhân có nguy 
cơ cao so với tư thế nằm sấp và có thể tạo ra 
được các đường hầm đa dạng để tán sỏi cũng 
như hạn chế sự đổ sập xuống của các tạng trong 
ổ bụng so với tư thế nằm ngửa. Tuy nhiên, trên 
thực tế mỗi tư thế bệnh nhân khi tán sỏi đều có 
những ưu và nhược điểm riêng và không có tư 
thế nào gọi là ưu thế tuyệt đối. Chính vì vậy tùy 
theo kinh nghiệm của từng phẫu thuật viên cũng 
như tùy theo từng bệnh nhân cụ thể mà phẫu 
thuật viên có thể lựa chọn tư thế để tán sỏi phù 
hợp.
Đường hầm vào bể thận thường sử dụng 
là đường qua nhóm đài sau - dưới hoặc đài 
giữa.8 Lựa chọn vị trí chọc dò phụ thuộc vào vị 
trí của sỏi cũng như số lượng sỏi. Đa số bệnh 
nhân trong nghiên cứu của chúng tôi được chọc 
dò qua nhóm đài giữa vì với đường chọc dò này 
thường thuận lợi cho việc tiếp cận để tán sỏi bể 
thận, niệu quản và có thể đưa máy soi vào các 
đài để tán sỏi nếu có. Việc chọc dò vào nhóm 
đài trên hoặc dưới thường được chỉ định cho 
các trường hợp sỏi khu trú ở các nhóm đài, trong 
nghiên cứu này của chúng tôi có 6,7% trường 
hợp được chọc vào nhóm đài trên hoặc dưới. 
Với các sỏi san hô và sỏi phức tạp, để đảm bảo 
cho việc tán sỏi thuận lợi và lấy tối đa các mảnh 
sỏi một số tác giả đã khuyến cáo sử dụng nhiều 
đường hầm trong cùng một lần tán sỏi.9-10 Trong 
nghiên cứu này của chúng tôi có 3 bệnh nhân 
(2,5%) sử dụng nhiều đường hầm trong một lần 
tán sỏi trong đó có 2 bệnh nhân là sỏi san hô và 
1 bệnh nhân có sỏi bể thận kèm theo nhiều sỏi 
khu trú ở các đài thận. Việc sử dụng nhiều đường 
hầm sẽ giúp tiếp cận sỏi ở những vị trí mà đường 
hầm ban đầu không tiếp cận được qua đó giúp 
làm tăng tỷ lệ sạch sỏi, tuy nhiên với việc chọc 
nhiều đường hầm cũng sẽ làm tăng nguy cơ các 
tai biến đặc biệt là giả phình mạch sau tán sỏi. 
Chính vì vậy khi quyết định sử dụng nhiều đường 
hầm để tán sỏi phẫu thuật viên cần phải cân nhắc 
kĩ về hiệu quả mang lại so với các nguy cơ có thể 
xảy ra.. 
Mục đích của dẫn lưu thận sau tán sỏi qua 
da là dẫn lưu nước tiểu từ bể thận và có thể để 
sử dụng đường hầm này để lấy nốt các mảnh 
sỏi còn lại. Tuy nhiên việc đặt dẫn lưu thận sẽ 
làm cho bệnh nhân khó chịu và đau sau mổ 
nhiều hơn. Theo nghiên cứu của Lu Y cho thấy 
những bệnh nhân tán sỏi qua da qua đường 
hầm nhỏ không dẫn lưu thận có thời gian nằm 
viện ngắn hơn và đau lưng giảm đáng kể so với 
nhóm bệnh nhân có dẫn lưu thận. Tuy nhiên 
không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê 
về thời gian phẫu thuật, tỷ lệ sạch sỏi và biến 
chứng giữa hai nhóm này.13 Trong nghiên cứu 
của chúng tôi có 13,4% bệnh nhân không dẫn 
lưu thận và hầu hết các trường hợp này đều có 
sỏi đơn giản. Theo kinh nghiệm của chúng tôi 
cũng như khuyến cáo của một số tác giả khác 
việc không dẫn lưu thận chỉ nên áp dụng cho 
các trường hợp sỏi đơn giản, trong mổ không 
chảy máu, không có biểu hiện của nhiễm trùng 
và kiểm soát được sạch sỏi trong mổ.
Các nghiên cứu trước đây đã chứng minh 
tán sỏi qua da qua đường hầm nhỏ là một 
phương pháp có tính hiệu quả cao trong điều 
trị sỏi thận kể cả những trường hợp sỏi phức 
tạp. Trong những nghiên cứu ban đầu liên quan 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
113TCNCYH 134 (10) - 2020
đến tán sỏi qua da qua đường hầm nhỏ thường 
có tỷ lệ sạch sỏi cao vì kích thước sỏi trong 
các nghiên cứu này nhỏ.14 Khi chỉ định được mở 
rộng tỷ lệ sạch sỏi đã được báo cáo thay đổi từ 
77,5% - 97,8% tùy nghiên cứu.15 Theo nghiên 
cứu tổng quan có hệ thống của Liu và cộng sự 
cho thấy, tỷ lệ sạch sỏi khi tán sỏi qua da ở tư 
thế nằm ngửa và nằm sấp lần lượt là 83,5% và 
81,6%, thời gian phẫu thuật trung bình thay đổi từ 
43 – 74,7 phút ở tư thế nằm ngửa và 68 – 106,9 
phút ở tư thế nằm sấp, thời gian nằm viện sau 
mổ trung bình thay đổi từ 2,5 – 5,9 ngày ở tư 
thế nằm ngửa và 3,3 – 5,4 ngày ở tư thế nằm 
sấp.5 Như vậy theo kết quả ở bảng 2 và bảng 
3 cho thấy thời gian phẫu thuật trung bình, tỷ lệ 
sạch sỏi sau mổ và thời gian nằm viện sau mổ 
trong nghiên cứu của chúng tôi tương tự các 
nghiên cứu của các tác giả khác khi tán sỏi ở tư 
thế nằm sấp và nằm ngửa. Sạch sỏi là một trong 
những tiêu chí quan trọng nhất trong đánh giá 
tính hiệu quả của tán sỏi qua da, trong nghiên 
cứu của chúng tôi ghi nhận 20 phẫu thuật không 
đạt được sạch sỏi sau lần tán thứ nhất và hầu 
hết các trường hợp này là sỏi san hô thận hoặc 
sỏi nhiều vị trí. Trong đó có 6 phẫu thuật còn các 
mảnh sỏi trên phim X-quang nhưng ít có nguy cơ 
ảnh hưởng đến chức năng thận sau khi rút JJ vì 
vậy chúng tôi không chỉ định can thiệp tán sỏi lần 
hai, 2 phẫu thuật trong quá trình tán sỏi chúng tôi 
phát hiện có u bể thận và tiến hành sinh thiết cho 
kết quả ung thư biểu mô đường niệu sau đó bệnh 
nhân được chỉ định cắt thận niệu quản tận gốc, 
10 phẫu thuật được chỉ định lấy sỏi qua đường 
hầm dẫn lưu thận, 1 phẫu thuật được phối hợp 
với nội soi ngược dòng tán sỏi bằng ống soi cứng 
và 1 phẫu thuật được phối hợp với nội soi tán sỏi 
bằng ống soi mềm để xử lí các mảnh sỏi còn lại 
sau lần tán sỏi thứ nhất. Như vậy, nếu xét về các 
khía cạnh tỷ lệ sạch sỏi, thời gian phẫu thuật và 
thời gian nằm viện sau mổ thì tán sỏi qua da ở 
thư thế nằm nghiêng 90 độ vẫn đảm bảo được 
tính hiệu quả so với tán sỏi qua da ở tư thế nằm 
sấp và nằm ngửa - là các tư thế đã chứng minh 
được tính hiệu quả và an toàn trong các nghiên 
cứu trước đây.
Tính an toàn là một trong những tiêu chí quan 
trọng trong phẫu thuật. Khái niệm tán sỏi qua 
da qua đường hầm nhỏ được đưa ra dựa trên 
giả thuyết là việc sử dụng một đường hầm 
nhỏ hơn sẽ giúp giảm các biến chứng nghiêm 
trọng, giảm đau sau mổ và rút ngắn thời gian 
nằm viện. Một trong những biến chứng nặng, 
thường gặp và đòi hỏi xử lí sớm trong tán sỏi 
qua da là chảy máu do giả phình mạch. Theo 
nghiên cứu của Yang Liu cho thấy tỷ lệ giả 
phình mạch cần can thiệp mạch sau tán sỏi 
qua da qua đường hầm nhỏ ở tư thế nằm sấp 
là 4,1%.16 Trong nghiên cứu của chúng tôi có 
3 trường hợp cần can thiệp mạch chiếm 2,5%, 
trong đó có 2 trường hợp giả phình ở nhánh 
của động mạch thận và có 1 trường hợp là giả 
phình của động mạch dưới sườn. Giả phình 
động mạch dưới sườn là một tai biến rất hiếm 
gặp sau tán sỏi qua da tuy nhiên tổn thương 
này cũng đã được Xiaobo Ding báo cáo.17 Các 
nghiên cứu trước đây cũng cho thấy tỷ lệ bệnh 
nhân phải truyền máu sau tán sỏi qua da qua 
đường hầm nhỏ ít hơn đáng kể so với tán sỏi 
qua da qua đường hầm tiêu chuẩn (2,2% so 
với 3,2%). Trong nghiên cứu này của chúng tôi 
có 3,4% bệnh nhân cần phải truyền máu sau 
mổ và tất cả các trường hợp này đều là những 
trường hợp sỏi phức tạp hoặc thể trạng bệnh 
nhân kém. Sốc nhiễm trùng là tai biến nghiêm 
trọng nhất trong tán sỏi qua da, theo Liu và 
cộng sự tỷ lệ sốc nhiễm trùng sau tán sỏi qua 
da là 2,4% và có 0,3% bệnh nhân tử vong do 
tai biến này.18 Nghiên cứu của chúng tôi không 
ghi nhận bệnh nhân nào sốc nhiễm trùng sau 
mổ mà chỉ có 5,9% phẫu thuật có biểu hiện sốt 
sau mổ và các trường hợp này đều được điều 
trị ổn định bằng kháng sinh. Theo kinh nghiệm 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
114 TCNCYH 134 (10) - 2020
của chúng tôi một trong những phương pháp 
hiệu quả nhất để giảm tỷ lệ nhiễm trùng là cần 
phải đánh giá và điều trị tình trạng nhiễm trùng 
trước mổ. Chính vì vậy tất cả bệnh nhân của 
chúng tôi được làm tổng phân tích nước tiểu 
và nuôi cấy vi khuẩn nước tiểu trước mổ, với 
các trường hợp nuôi cấy vi khuẩn dương tính 
sẽ được điều trị kháng sinh theo kháng sinh đồ 
5 ngày và cấy lại nước tiểu, còn những trường 
hợp nuôi cấy vi khuẩn âm tính nhưng bạch cầu 
niệu cao hoặc nitrit dương tính chúng tôi cũng 
cho điều trị kháng sinh trước mổ và ưu tiên các 
kháng sinh phổ rộng. Từ những kết quả thu 
được như trên cho thấy tán sỏi qua da ở tư thế 
nằm nghiêng vẫn đảm bảo được tính an toàn 
của phẫu thuật này trong điều trị sỏi thận.
V. KẾT LUẬN
Tán sỏi qua da qua đường hầm nhỏ tư thế 
nằm nghiêng dưới hướng dẫn của siêu âm là 
phương pháp phẫu thuật đảm bảo được tính 
an toàn và tính hiệu quả trong điều trị sỏi thận. 
Ngoài ra phẫu thuật này cũng đã có một số cải 
tiến về cách thức phẫu thuật và các chỉ định 
của nó ngày càng được mở rộng so với phẫu 
thuật thuật ban đầu. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Prezioso D, Di Martino M, Galasso R et 
al. Laboratory Assessment. Urol Int. 2007; 79 
(1): 20–5. 
2. Türk C, Knoll T, Petrik A et al. Guidelines 
on Urolithiasis. Arnhem (The Netherlands): 
European Association of Urology (EAU) 2 013.
3. Michel MS, Trojan L, Rassweiler 
JJ. Complications in percutaneous 
nephrolithotomy. Eur Urol. 2007; 51: 899-906. 
4. Helal M, Black T, Lockhart J, et al. The 
Hickman peel-away sheath: Alternative for 
pediatric percutaneous nephrolithotomy. J 
Endourol. 1997; 11: 171–2.
5. Liu L, Zheng S, Xu Y, et al. Systematic 
review and meta-analysis of percutaneous 
nephrolithotomy for patients in the supine 
versus prone position. J Endourol. 2010; 24: 
1941–6. 
6. Raney. A.M. Electrohydraulic lithotripsy: 
experimental study and case reports with the 
stone disintegrator. J Urol. 1995; 113 (3): 345-
347.
7. Segura. J. W. Percutaneous removal of 
kidney stones: review of 1000 cases. J. Urol. 
1985; 134: 1077-1081.
8. Nagele U, Schilling D, Sievert KD, et al. 
Management of lower-pole stones of 0.8 to 1.5 
cm maximal diameter by the minimally invasive 
percutaneous approach. J Endourol. 2008; 22: 
1851–3.
9. Zhong W, Zeng G, Wu W, et al. Minimally 
invasive percutaneous nephrolithotomy with 
multiple mini tracts in a single session in treating 
staghorn calculi. Urol Res. 2011; 39: 117–22. 
10. Zeng G, Zhao Z, Wan S, et al. Minimally 
invasive percutaneous nephrolithotomy for 
simple and complex renal caliceal stones:A 
comparative analysis of more than 10,000 
cases. J Endourol. 2013; 27: 1203–8. 
11. Valdivia Uría JG, Valle Gerhold J, López 
López JA et al. Technique and complications 
of percutaneous nephroscopy: Experience 
with 557 patients in the supine position. J Urol. 
1998; 160: 1975–8. 
12. de la Rosette JJ, Tsakiris P, Ferrandino 
MN, et al. Beyond prone position in percutaneous 
nephrolithotomy: A comprehensive review. Eur 
Urol. 2008; 54: 1262–9.
13. Lu Y, Ping JG, Zhao XJ, et al. 
Randomized prospective trial of tubeless versus 
conventional minimally invasive percutaneous 
nephrolithotomy. World J. Urol. 2013; 31: 1303–
7. 
14. Jackman SV, Hedican SP, Peters CA, 
et al. Percutaneous nephrolithotomy in infants 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
115TCNCYH 134 (10) - 2020
and preschool age children: Experience with a 
new technique. Urolog. 1998; 52: 697–701. 
15. Nikolaos F, Marios S. Mini percutaneous 
nephrolithotomy in the treatment of renal and 
upper ureteral stones: Lessons learned from a 
review of the literature. Urol Ann. 2015; 7 (2): 
141–148.
16. Yang L, Jad A, Wei Z, et al. Comparison 
of supermini PCNL (SMP) versus Miniperc 
for stones larger than 2 cm: a propensity 
scorematching study. World Journal of Urology. 
2018; 36 (6): 955-961.
17. Xiaobo D, Jingjing G, Jingyan T, et al. 
Subcostal artery bleeding after percutaneous 
nephrolithotomy: a case report and literature 
review. Journal of International Medical 
Research. 2018; 46 (10): 4350–4353.
18. Liu C, Zhang X, Liu Y, et al. Prevention 
and treatment of septic shock following mini-
percutaneous nephrolithotomy: A single-center 
retrospective study of 834 cases. World J Urol. 
2013; 31: 1593–7.
Summary
OUTCOMES OF MINI-PERCUTANEOUS NEPHROLITHOTRIPSY 
UNDER ULTRASOUND GUIDANCE 
Abstract: To assess the efficacy and safety of mini percutaneous nephrolithotripsy under ultrasound 
guidance while lying on one side position. A retrospective study was performed between January and 
June 2020. There were 118 patients with 119 procedures collected for the study. The mean age of 
patients was 53.6 ± 11.1 years and stone size was 25.7 ± 9.8 mm. There were 3 procedures requiring 
multiple tracts, tubeless procedure rate was 13.4% and the mean operative time was 68.5 min. The 
initial stone-free rate was 83.3 % after the first procedure and this figure rose to 89.9 % after the 
second procedure. The postoperative fever rate was 5.9%, blood transfusion rate was 3.4%, arterial 
embolization rate was 2.5%, mean post-operative hospital stay was 3.9 ± 2.6 days. It was evident 
from the study that mini-PCNL lying on one side position is an efficacious and safe procedure.
Keywords: Percutaneous nephrolithotomy, PCNL, mini percutaneous nephrolithotomy, mini-
PCNL

File đính kèm:

  • pdfket_qua_tan_soi_qua_da_qua_duong_ham_nho_tu_the_nam_nghieng.pdf