Kết quả tán sỏi nội soi sỏi niệu quản đoạn dưới bằng nguồn tán laser tại Bệnh viện Đa khoa Trung tâm An Giang

Mục tiêu: Đánh giá kết quả tán sỏi nội soi ngược dòng sỏi niệu quản đoạn dưới bằng nguồn

tán laser tại Bệnh viện Đa khoa Trung tâm An Giang

Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: tiền cứu 85 bệnh nhân sỏi niệu quản đoạn dưới

được điều trị tán sỏi nội soi bằng nguồn tán laser tại Bệnh viện Đa khoa Trung tâm An Giang

từ tháng 12/2017 đến tháng 8/2018

Kết quả: nam: 21 TH (24,7%), nữ: 64 TH (75,3%); tuổi trung bình: 51 (16 – 85); kích thước

sỏi trung bình: 11,5mm. Tỉ lệ thành công: 98,8%; thời gian tán sỏi trung bình: 21 phút; thời

gian nằm viện sau thủ thuật: 3,0 ngày.

Kết luận: Tán sỏi nội soi ngược dòng bằng nguồn tán laser là một phương pháp điều trị an

toàn và hiệu quả cao, được chỉ định ưu tiên trong điều trị sỏi niệu quản đoạn dưới

pdf 5 trang phuongnguyen 200
Bạn đang xem tài liệu "Kết quả tán sỏi nội soi sỏi niệu quản đoạn dưới bằng nguồn tán laser tại Bệnh viện Đa khoa Trung tâm An Giang", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Kết quả tán sỏi nội soi sỏi niệu quản đoạn dưới bằng nguồn tán laser tại Bệnh viện Đa khoa Trung tâm An Giang

Kết quả tán sỏi nội soi sỏi niệu quản đoạn dưới bằng nguồn tán laser tại Bệnh viện Đa khoa Trung tâm An Giang
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2018 
Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 50 
KẾT QUẢ TÁN SỎI NỘI SOI SỎI NIỆU QUẢN ĐOẠN DƯỚI 
BẰNG NGUỒN TÁN LASER TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TRUNG TÂM AN GIANG 
Trần Văn Quốc, Trần Đức Anh, Hồ Thanh Nhàn 
TÓM TẮT 
 Mục tiêu: Đánh giá kết quả tán sỏi nội soi ngược dòng sỏi niệu quản đoạn dưới bằng nguồn 
tán laser tại Bệnh viện Đa khoa Trung tâm An Giang 
 Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: tiền cứu 85 bệnh nhân sỏi niệu quản đoạn dưới 
được điều trị tán sỏi nội soi bằng nguồn tán laser tại Bệnh viện Đa khoa Trung tâm An Giang 
từ tháng 12/2017 đến tháng 8/2018 
 Kết quả: nam: 21 TH (24,7%), nữ: 64 TH (75,3%); tuổi trung bình: 51 (16 – 85); kích thước 
sỏi trung bình: 11,5mm. Tỉ lệ thành công: 98,8%; thời gian tán sỏi trung bình: 21 phút; thời 
gian nằm viện sau thủ thuật: 3,0 ngày. 
 Kết luận: Tán sỏi nội soi ngược dòng bằng nguồn tán laser là một phương pháp điều trị an 
toàn và hiệu quả cao, được chỉ định ưu tiên trong điều trị sỏi niệu quản đoạn dưới 
 Từ khóa: sỏi niệu quản, tán sỏi nội soi ngược dòng, bệnh viện An Giang 
RESULTS OF DISTAL URETEROSCOPIC LASER LITHOTRIPSY 
AT AN GIANG CENTRAL GENERAL HOSPTTAL 
ABSTRACT 
 Purpose: To evaluate the results of distal ureteroscopic laser lithotripsy at An Giang 
Central General Hospital 
 Materials and methods: The prospective study was carried out on 85 patients with distal 
ureteral stones treated by retrograde ureteroscopy with laser lithotripsy at An Giang Central 
General Hospital from December 2017 to August 2018 
 Results: Gender: 21 males (24,7%), 64 female (75,3%); mean age: 51 (16 - 85); diameter 
average: 11,5mm. Success rate: 98,8%; the time of lithotripsy is average 21 minutes; post–
procedural recovery time: 3.0 days. 
 Conclusion: Retrograde URS with laser lithotripsy appears to be a safe and effective 
treatment modality, used as a primary treatment modality in distal ureteral stones 
 Keywords: ureteral stones, retrograde ureteroscopy, An Giang General Hospital 
ĐẶT VẤN ĐỀ: 
 Sỏi niệu quản chiếm khoảng 30 – 40% sỏi tiết niệu tuỳ theo tác giả, trong đó nhiều nhất là 
sỏi niệu quản đoạn dưới và là nguyên nhân gây ra cơn đau bão thận. Ngày nay, với sự phát 
triển vượt bậc trong lĩnh vực nội soi niệu, các phương pháp điều trị sỏi niệu ít xâm hại đang 
thay thế dần phẫu thuật kinh kiển. Trong đó, tán sỏi nội soi ngược dòng đã chứng tỏ vai trò của 
nó trong việc giải quyết sỏi niệu quản một cách nhanh chóng, rút ngắn thời gian nằm viện, 
tránh được một cuộc phẫu thuật (3). Tại Bệnh viện ĐKTT An Giang, từ năm 2017 chúng tôi đã 
triển khai tán sỏi nội soi ngược dòng bằng nguồn tán laser và thực hiện nghiên cứu này nhằm 
đánh giá kết quả bước đầu trong điều trị sỏi niệu quản đoạn dưới. 
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU: 
 Đánh giá kết quả tán sỏi nội soi ngược dòng sỏi niệu quản đoạn dưới bằng nguồn tán laser. 
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2018 
Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 51 
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
 1. Đối tượng nghiên cứu: 
 Tất cả bệnh nhân sỏi niệu quản đoạn dưới được chỉ định điều trị tán sỏi nội soi ngược 
dòng bằng nguồn tán laser từ tháng 12/2017 đến tháng 8/2018, tái khám đầy đủ tại Bệnh viện 
Đa khoa Trung Tâm An Giang và đồng ý tham gia nghiên cứu. 
 2. Phương pháp nghiên cứu: 
 Thiết kế nghiên cứu: tiền cứu, mô tả. 
 Cỡ mẫu: 
 Áp dụng công thức tính cỡ mẫu ước lượng một tỷ lệ: 
n= 
Z2 1 – α/2 x p (1 – p) 
 d2 
 Trong đó: 
 n: cỡ mẫu cần có 
 Z2 1 – α /2 = (1,96)
2 khi độ tin cậy 95% 
 d: Sai số cho phép, d = 0,05 
 p = 0,9722 theo nghiên cứu Vũ Nguyễn Khải Ca tại Bệnh viện Việt Đức [6]. 
Thay vào công thức tính được n = 41,531 bệnh nhân. 
 Như vậy, cỡ mẫu nghiên cứu ít nhất là 42 bệnh nhân. 
 Các biến số: 
- Kích thước sỏi: đo đường kính lớn nhất của sỏi trên phim KUB hoặc CT-Scans trước 
tán, tính bằng milimet. Đối với các TH steinstrasse sau tán sỏi ngoài cơ thể (tạm dịch chuỗi sỏi 
vụn), chúng tôi đo kích thước mảnh sỏi lớn nhất trên phim KUB. 
- Độ ứ nước thận bên tán: theo phân độ trên kết quả siêu âm bụng, gồm 3 độ. 
- Thời gian phát tia: từ lúc đầu tán phát tia đến khi sỏi vỡ hoàn toàn, tính bằng phút. 
- Thời gian tán sỏi: tính từ lúc đưa máy soi vào niệu đạo đến khi đặt thông niệu đạo, kết 
thúc thủ thuật, tính bằng phút. 
 Quy trình kỹ thuật: Thực hiện theo trình tự: 
- Vô cảm, cho bệnh nhân nằm tư thế sản khoa. 
- Dùng ống soi niệu quản loại cứng soi niệu đạo vào bàng quang rồi lên niệu quản (có 
guide wire dẫn đường). 
- Khi tiếp cận sỏi, đưa đầu tán LASER vào tán liên tục đến khi vỡ vụn sỏi. 
- Dùng rọ Dormia bắt hết các mảnh sỏi ra ngoài. 
- Dùng ống soi đang tán soi dọc niệu quản đến bể thận để kiểm tra độ sạch sỏi. 
- Đặt thông JJ. 
- Rút máy soi, đặt thông niệu đạo, kết thúc thủ thuật. 
 Phương tiện nghiên cứu: 
 - Ống soi niệu quản cứng Kalt Storz 9,5F. 
 - Máy tán sỏi Laser Kalt Storz Ho: YAG - fiber 400-600 micron. 
 - Hệ thống truyền dẫn hình ảnh và các vật tư y tế tiêu hao hỗ trợ: dây dẫn đường, rọ 
Dormia, thông JJ 
 Đánh giá kết quả: chúng tôi đánh giá kết quả trong quá trình tán sỏi và khi tái khám sau 
thủ thuật 01 tháng. 
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2018 
Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 52 
 - Tán sỏi thành công: tán vỡ sỏi, lấy toàn bộ hoặc phần lớn các mảnh sỏi vụn, không có 
tai biến trong cuộc phẫu thuật. 
 - Tán sỏi thất bại: không tán được sỏi, hoặc còn sót mảnh sỏi >3mm cần tán sỏi bổ 
sung, có tai biến trong thủ thuật hoặc chuyển phương pháp điều trị. 
 Xử lý số liệu: thống kê mô tả trên phần mềm SPSS 16.0 
KẾT QUẢ 
 Đặc điểm bệnh nhân: 
 Từ tháng 1/2018 đến tháng 8/2018, có 85 trường hợp (TH) sỏi niệu quản đoạn dưới được 
thực hiện thủ thuật và đưa vào mẫu nghiên cứu với các đặc điểm như sau: 
Bảng 1: Đặc điểm bệnh nhân (N = 85) 
Tuổi trung bình 51,1 ± 11,7 (16 – 85) 
Giới 
 Nam 21(24,7)* 
 Nữ 64 (75,3) 
Bên tán sỏi 
 Trái 48 (56,5) 
 Phải 33 (38,8) 
 2 bên 4 (4,7) 
Kích thước sỏi 
 Trung bình 11,5 ± 2,7 (5 – 18mm) 
Độ ứ nước thận 
 Độ 1 38 (44,7) 
 Độ 2 25 (29,4) 
 Độ 3 22 (25,9) 
Hình thái sỏi 
 Nhẵn 11 (12,9) 
 Xù xì 59 (69,4) 
 Sỏi khảm 11 (12,9) 
 Steinstrasse 3 (3,5) 
 Sỏi bám trên sonde JJ 1 (1,2) 
 * Số liệu trong ngoặc đơn là tần suất ( %) 
 Kết quả điều trị 
 79 TH được vô cảm bằng phương pháp tê tủy sống, 3 TH mê nội khí quản và 3 TH mê 
mask thanh quản. 
 Tán sỏi thành công 84 TH, đạt tỉ lệ 98,8%. Có 1 TH thất bại (1,2%) do không tiếp cận 
được sỏi do hẹp niệu quản, chuyển mổ mở; 
 Đặt thông niệu quản (ureteral stent): 77/85 TH (90,6%) đặt thông JJ, được rút sau 2 – 4 
tuần; 8 TH (9,4%) không đặt thông JJ. 
 Thời gian tán sỏi trung bình 21,0 phút (10 – 60 phút). Thời gian nằm viện sau thủ thuật 
trung bình 3,0 ngày (từ 1 – 6 ngày). 
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2018 
Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 53 
 Tai biến – biến chứng: Không có tai biến trong quá trình tán sỏi, sau thủ thuật có 4 TH 
nhiễm trùng niệu. Tỉ lệ BN có biến chứng là 4,7%. 
BÀN LUẬN 
 Trong số 85 BN đã thực hiện, có 4 TH được tán sỏi 2 bên cùng lúc, đây là một ưu thế rất lớn 
của phương pháp tán sỏi niệu quản ngược dòng; 1 TH tán sỏi niệu quản kết hợp phẫu thuật lấy 
sỏi thận cùng bên; 3 TH các mảnh sỏi tập hợp thành chuỗi sỏi ở niệu quản (steinstrasse), 11 TH 
(12,9%) sỏi khảm (impact stone). Đặc biệt, chúng tôi tán sỏi thành công cho 1 BN đang mang 
thai 24 tuần bị sỏi niệu quản và bàng quang bám chặt trên thông JJ do trước đó 2 tháng được 
điều trị thận ứ nước nhiễm trùng; sau tán sỏi chúng tôi rút thông JJ cho BN. 
 Có nhiều năng lượng được sử dụng tán sỏi như: laser, siêu âm, điện thủy lực, khí nén; tuy 
nhiên hiện nay tán sỏi bằng laser được triển khai khá phổ biến không chỉ do có nhiều ưu điểm 
mà còn vì có thể ứng dụng điều trị đối với nhiều vị trí sỏi đường tiết niệu, từ sỏi thận đến sỏi 
kẹt niệu đạo. Theo hầu hết các tác giả, hiệu quả của Laser Ho: YAG cao, có thể tán hầu hết các 
dạng sỏi và không ghi nhận trường hợp nào kháng tia, đôi lúc có gặp sỏi có nhân cứng, bao bọc 
bên ngoài là sỏi mềm bám, cần phải điều chỉnh năng lương phù hợp để tán được những nhân 
cứng (3)(4). 
 Tỉ lệ thành công của tán sỏi niệu quản bằng Ho:YAG laser đạt 90-100% và thất bại thường 
là do không tiếp cận được sỏi hoặc sỏi quá lớn (8). Tỉ lệ thành công trong nghiên cứu của 
chúng tôi là 98,8% (84/85 TH), có 1 TH không tiếp cận được do hẹp niệu quản dưới sỏi phải 
chuyển mổ mở. Theo Lê Anh Tuấn (2014), tán sỏi niệu quản bằng laser thành công 172/175 
(98,3%), 3 TH chuyển mổ mở do hẹp niệu quản, không tiếp cận được sỏi. Kết quả của chúng 
tôi cũng khá phù hợp với các tác giả như Trần Quốc Hòa (2013): 91%, Đỗ Lệnh Hùng (2010): 
96%, Hoàng Đức Minh và cs (2015): 93,7%, Vũ Nguyễn Khải Ca (2015): 97,2% (1)(2)(6)(7). 
 Thời gian tán sỏi trung bình trong nghiên cứu này là 21 phút (10 – 60 phút). Đối với 11 TH 
sỏi khảm, thời gian tán thường kéo dài (22 – 60 phút) do niêm mạc và polype che lấp một phần 
hoặc hoàn toàn viên sỏi, chúng tôi thường không luồn được dây dẫn đường (guide-wire) vượt 
qua viên sỏi. Tuy nhiên, với nguồn năng lượng Laser, chúng tôi tiến hành cắt polype, tiếp cận 
và tán sỏi từ trung tâm ra ngoại vi của viên sỏi để tạo đường hầm, sau đó luồn dây dẫn đường 
qua viên sỏi rồi tán tiếp. Tuy nhiên, với năng lượng cao, việc tán sỏi trong khi chưa có dây dẫn 
đường xuyên qua sỏi vẫn luôn là một thách thức cho các phẫu thuật viên vì có thể gây thủng 
niệu quản. Tỉ lệ thủng niệu quản trong các nghiên cứu từ 0 -1,6%. So với nghiên cứu tán sỏi 
niệu quản đoạn dưới bằng khí nén thực hiện tại Bệnh viện ĐKTTAG năm 2011 (5), với kích 
thước sỏi trung bình lớn hơn (11,5mm so với 8,6mm), nguồn tán laser cho tỉ lệ thành công 
tương đương (98,8% - 96%), tuy nhiên thời gian tán sỏi trung bình ngắn hơn rõ rệt (21 phút so 
với 36 phút), điều này cho thấy ưu điểm vượt trội của nguồn tán Ho: YAG laser. 
 Sau khi tán và lấy các mảnh sỏi, chúng tôi đặt thông JJ cho 77/85 TH (90,6%), 8 TH còn lại 
không đặt thông JJ do thời gian tán sỏi ngắn, niêm mạc niệu quản gần như không tổn thương 
trong quá trình làm thủ thuật. Chúng tôi chủ trương đặt thông JJ khi có sỏi thận cùng bên, sỏi 
khảm hoặc niêm mạc niệu quản có tổn thương trong quá trình tán; điều này phụ thuộc sự đánh 
giá của phẫu thuật viên. Việc đặt thông JJ sau tán sỏi vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau và tỉ 
lệ cũng khác nhau giữa các tác giả. Mục đích của việc đặt thông JJ sau tán sỏi nhằm dẫn lưu 
nước tiểu phòng tránh hẹp niệu quản, nhất là các trường hợp sỏi khảm đồng thời giúp thoát 
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2018 
Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 54 
nước muối sinh lý đã bơm để làm rõ quang trường trong quá trình tán sỏi. Tỉ lệ đặt thông JJ sau 
tán sỏi niệu quản bằng laser của các tác giả thay đổi khá nhiều, từ 53,4 - 100% (2)(3)(6). 
 Chúng tôi không gặp tai biến nào trong quá trình tán sỏi. Sau thủ thuật, có 4 TH nhiễm 
khuẩn niệu được điều trị ổn định, chiếm tỉ lệ 4,7%, không khác biệt so với các tác giả khác (5,0 
– 9,3%) (2)(6). Thời gian nằm viện sau thủ thuật ngắn, trung bình 3,0 ngày, tương đương với 
các tác giả Hoàng Đức Minh, Vũ Nguyễn Khải Ca (2,6 – 2,9 ngày) (2)(7). 
KẾT LUẬN 
 Tán sỏi nội soi ngược dòng bằng nguồn tán Ho: YAG laser là một phương pháp ít xâm hại 
có tỉ lệ thành công cao, an toàn, thời gian nằm viện sau thủ thuật ngắn, nên được chỉ định ưu 
tiên trong điều trị sỏi niệu quản đoạn dưới. So với nguồn tán khí nén, tán sỏi bằng laser có thời 
gian tán sỏi ngắn hơn, tán được sỏi lớn hơn, làm giảm tỉ lệ mổ mở trong điều trị sỏi niệu quản. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO: 
1. Đỗ Lệnh Hùng và CS. Hiệu quả của nội soi tán sỏi bằng laser trong điều trị sỏi niệu niệu quản chậu khảm. Y học 
TP.HCM (2010). 4, 1 tr 458-470. 
2. Hoàng Đức Minh và cs. Đánh giá an toàn và hiệu quả của nội soi niệu quản ngược dòng tán sỏi bằng laser trong điều 
trị sỏi niệu quản. Y học TP.HCM (2015).19, 4 tr 214-219. 
3. Lê Anh Tuấn, Nguyễn Tuấn Vinh. Hiệu quả của Holmium laser trong điều trị sỏi niệu quản. Y học TP.HCM 
(2014).8, 1 tr 323-325. 
4. Lingerman JE., Lifshitz DA., Evan AP.. Surgical management of urinary lithiasis. Campell’ Urology 2002; chapter 
99. 
5. Nguyễn Văn Khoa, Trần Văn Quốc, Đặng Tấn Mân. Kết quả tán sỏi nội soi sỏi niệu quản đoạn dưới tại Bệnh viện 
Đa khoa Trung tâm An Giang. Kỷ yếu Hội nghị Khoa học – Công nghệ Bệnh viện Đa khoa Trung tâm An Giang 
năm 2011 
6. Trần Quốc Hòa. Nghiên cứu tán sỏi niêu quản nội soi ngược dòng bằng laser holmium tại bệnh viện Đại học y Hà 
Nội. Tạp chí Y học thực hành. (2013). số 10, tr 60- 63 
7. Vũ Nguyễn Khải Ca và Cs. Đánh giá kết quả điều trị sỏi niệu quản theo phương pháp tán sỏi bằng holmium laser tại 
Bệnh viện đa khoa tỉnh Bắc Giang. Y học TP.HCM (2015).19, 4 tr 270-276. 
8. Wei Zheng, John D. Dentedt: Intracorporeal lithotripsy: Update on technology. The Urologic clinic of North 
America. 

File đính kèm:

  • pdfket_qua_tan_soi_noi_soi_soi_nieu_quan_doan_duoi_bang_nguon_t.pdf