Kết quả sớm và trung hạn sau nong bóng phủ thuốc (paclitaxel) trong điều trị tổn thương mạch nhỏ và tái hẹp trong stent tại Viện Tim mạch - Bệnh viện Bạch Mai

Mục tiêu: Nghiên cứu độ an toàn và hiệu quả sớm và trung hạn của nong bóng phủ thuốc (BPT) trong điều trị một số bệnh lí động mạch vành (BLĐMV) như tổn thương mạch nhỏ và tái hẹp trong stent.

Phương pháp: Có 60 bệnh nhân được đưa vào nghiên cứu can thiệp một nhóm có so sánh trước - Sau về bóng phủ thuốc paclitaxel tại Viện Tim mạch Việt Nam - Bệnh viện Bạch Mai, trong đó có 30 bệnh nhân tái hẹp trong stent và 30 bệnh nhân có tổn thương mạch nhỏ, được theo dõi kết quả sớm và trung hạn sau 12 tháng. Đánh giá sau can thiệp ở các thời điểm 3,6,12 tháng. Các bệnh nhân được đo đạc các chỉ số trên chụp mạch vành tiêu chuẩn ở các thời điểm trước, ngay sau can thiệp và từ sau 6 tháng theo dõi. Tiêu chí đánh giá chính là các biến cố tim mạch chủ yếu

pdf 8 trang phuongnguyen 80
Bạn đang xem tài liệu "Kết quả sớm và trung hạn sau nong bóng phủ thuốc (paclitaxel) trong điều trị tổn thương mạch nhỏ và tái hẹp trong stent tại Viện Tim mạch - Bệnh viện Bạch Mai", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Kết quả sớm và trung hạn sau nong bóng phủ thuốc (paclitaxel) trong điều trị tổn thương mạch nhỏ và tái hẹp trong stent tại Viện Tim mạch - Bệnh viện Bạch Mai

Kết quả sớm và trung hạn sau nong bóng phủ thuốc (paclitaxel) trong điều trị tổn thương mạch nhỏ và tái hẹp trong stent tại Viện Tim mạch - Bệnh viện Bạch Mai
nghiên cứu lâm sàng
TẠP CHÍ Tim mẠCH HọC việT nam - số 69.201590
TÓm TẮT
Mục tiêu: Nghiên cứu độ an toàn và hiệu 
quả sớm và trung hạn của nong bóng phủ 
thuốc (BPT) trong điều trị một số bệnh lí 
động mạch vành (BLĐMV) như tổn thương 
mạch nhỏ và tái hẹp trong stent.
Phương pháp: Có 60 bệnh nhân được 
đưa vào nghiên cứu can thiệp một nhóm có so 
sánh trước - sau về bóng phủ thuốc paclitaxel 
tại Viện Tim mạch Việt Nam - Bệnh viện Bạch 
Mai, trong đó có 30 bệnh nhân tái hẹp trong 
stent và 30 bệnh nhân có tổn thương mạch 
nhỏ, được theo dõi kết quả sớm và trung hạn 
sau 12 tháng. Đánh giá sau can thiệp ở các thời 
điểm 3,6,12 tháng. Các bệnh nhân được đo 
đạc các chỉ số trên chụp mạch vành tiêu chuẩn 
ở các thời điểm trước, ngay sau can thiệp và từ 
sau 6 tháng theo dõi. Tiêu chí đánh giá chính 
là các biến cố tim mạch chủ yếu. 
Kết quả: Thành công về thủ thuật đạt 100% 
các bệnh nhân. Tuổi trung bình là 64,1 ± 9,09 
năm, 71,7% có hội chứng vành cấp (HCVc) 
và 18,3% có bệnh lí 3 thân động mạch vành 
(ĐMV). Can thiệp bóng phủ thuốc cho các tổn 
thương mạch nhỏ có 50 % các bệnh nhân và 50% 
cho nhóm tái hẹp trong stent. Có hai tổn thương 
sau can thiệp cần đặt thêm stent sau đó chiếm 
3,4%. Đường kính bóng phủ thuốc trung bình 
là 2,76 ± 0,47 mm và chiều dài trung bình là 
25,9 ± 4,27 mm. Mức độ hẹp lại của lòng mạch 
sau can thiệp(LLL) là 0,38±0,7 mm. Có 3 bệnh 
nhân (chiếm 5%) cần phải tái can thiệp lại 
tổn thương đích trong quá trình theo dõi, 
có hai bệnh nhân có chảy máu đường tiêu 
hóa cao đã được điều trị Nội khoa ổn định, 
không còn các biến chứng tim mạch chính 
nào được ghi nhận. 
Kết luận: Nong bóng phủ thuốc cho các tổn 
thương tái hẹp và mạch nhỏ là khả thi, an toàn và 
có hiệu quả cao qua theo dõi với tỉ lệ tái can thiệp 
lại tổn thương đích là thấp (5%). 
ĐẶT VẤn ĐỀ
Việc áp dụng thủ thuật đặt stent động mạch 
vành (ĐMV) đã cải thiện đáng kể kỹ thuật can 
thiệp mạch vành qua da bởi hầu như loại bỏ hiện 
tượng co lại ngay sau nong mạch vành (recoil) 
Kết quả sớm và trung hạn sau nong bóng phủ thuốc 
(paclitaxel) trong điều trị tổn thương mạch nhỏ và 
tái hẹp trong stent tại Viện Tim mạch - 
Bệnh viện Bạch Mai
Nguyễn Lân Việt1, Phạm Mạnh Hùng1, Nguyễn Minh Hùng2, Nguyễn Ngọc Quang1, Nguyễn Quốc Thái2 
Hoàng Việt Anh2, Lê Thanh Bình2, Lê Xuân Thận2, Nguyễn Hữu Tuấn2, Trần Bá Hiếu2, Đinh Huỳnh Linh1 
 1Bộ môn Tim mạch Đại học Y Hà Nội, 2Viện Tim mạch Việt Nam - Bệnh viện Bạch Mai 
nghiên cứu lâm sàng
TẠP CHÍ Tim mẠCH HọC việT nam - số 69.2015 91
và giảm có ý nghĩa hiện tượng tái hẹp sau nong 
bóng thường (BT).1,2 Tuy nhiên hiệu quả lâu dài 
sau đặt stent kim loại trần (SKL) bị hạn chế do 
hiện tượng tái hẹp trong stent (THS) chiếm tỉ 
lệ khá cao từ 5%-35%.3 Stent phủ thuốc (SPT) 
đã làm giảm đáng kể tỉ lệ tái hẹp sau 6 tháng.4 Tỉ 
lệ các biến cố tim mạch chính sau 2-3 năm là từ 
7%-12%.5,6
Chiến lược điều trị trong các trường hợp tái 
hẹp trong stent (THS) vẫn còn gặp nhiều thách 
thức. Các lựa chọn là nong bóng thường hay đặt 
thêm stent hoặc là stent kim loại trần (SKL) hay 
là stent phủ thuốc (SPT). Nong với bóng thường 
hoặc đặt stent kim loại trần có tỉ lệ tái hẹp rất cao 
(39% và 38% tương ứng).7 Trong khi đó việc sử 
dụng stent phủ thuốc (SPT) trong điều trị tái 
hẹp sau đặt stent kim loại trần có tỉ lệ tái hẹp 
thấp hơn như với stent phủ thuốc Sirolimus 
là 13-20% (stent Cypher, Cordis J& J) và từ 15-
22% cho stent phủ thuốc Paclitaxel (stent Taxus, 
Boston Scientific). 8-10 Điều trị tái hẹp trong stent 
phủ thuốc bằng một stent khác đã được chứng 
minh làm tăng tỉ lệ tái hẹp sau can thiệp và các 
biến chứng tim mạch chính (MACE ). 11-14
 Để khắc phục những hạn chế về cấu trúc của 
stent phủ thuốc, một tiến bộ về công nghệ gần 
đây đã cho ra đời bóng phủ thuốc (BPT) có khả 
năng phân bố thuốc lên bề mặt mạch máu đồng 
đều hơn stent phủ thuốc. Một số các nghiên cứu 
quy mô nhỏ đã báo cáo kết quả sớm và ngắn hạn 
rất tốt sau khi sử dụng BPT so với bóng không 
phủ thuốc trong điều trị các tổn thương mới và 
tái hẹp sau đặt stent. 15,16 Một nghiên cứu lớn so 
sánh BPT với stent phủ thuốc (SPT) trong điều 
trị tái hẹp trong stent là nghiên cứu PEPCAD II-
ISR, nghiên cứu báo cáo kết quả sau 1 năm theo 
dõi cho thấy chỉ có 6,3% số bệnh nhân cần tái can 
thiệp tổn thương đích (TTĐ) trong nhóm BPT 
khi so sánh với 16,7 % số bệnh nhân trong nhóm 
tái can thiệp tổn thương đích với SPT.17 
Ở Việt Nam, từ năm 2002 đã áp dụng tim 
mạch can thiệp trong điều trị nhồi máu cơ tim. 
Đặc biệt trong vài năm trở lại đây, một số trung 
tâm Tim mạch trong nước đã bước đầu áp dụng 
bóng phủ thuốc trong điều trị tái hẹp trong stent, 
một số tổn thương mạch vành khác và bước đầu 
thu được kết quả đáng khích lệ. Trong bài báo này, 
chúng tôi báo cáo kết quả sớm và trung hạn trong 
nghiên cứu áp dụng bóng phủ thuốc tại Viện 
Tim mạch - Bệnh viện Bạch Mai.
Đối TƯỢng Và PhƯƠng PhÁP nghiÊn cứu
Phương pháp nghiên cứu 
 Chúng tôi tiến hành nghiên cứu can thiệp 
một nhóm có so sánh trước – sau cho tất cả các 
bệnh nhân đã can thiệp động mạch vành qua da 
được sử dụng bóng phủ thuốc paclitaxel tại Viện 
Tim mạch Việt Nam - Bệnh viện Bạch Mai. 
Đối tượng nghiên cứu
 Tổng cộng 60 bệnh nhân tham gia nghiên 
cứu này. Chỉ có những bệnh nhân được theo dõi 
lâm sàng sau 12 tháng mới được đưa vào nghiên 
cứu này. Cỡ mẫu nghiên cứu gồm 30 bệnh nhân 
được tiến hành nong BPT cho các tổn thương 
mạch vành nhỏ (< 2,5mm) và được định nghĩa 
là hẹp 70% hoặc hơn đường kính lòng mạch của 
động mạch vành và 30 bệnh nhân tái hẹp lại trong 
stent cũ được định nghĩa là hẹp lại 50% hoặc nhiều 
hơn đường kính lòng mạch trước đó. Đặc điểm 
lâm sàng ban đầu được thu thập theo mẫu nghiên 
cứu. Tất cả các tiến trình can thiệp được thực 
hiện thông qua cách tiếp cận sử dụng ống thông 
qua đường động mạch quay hoặc động mạch 
đùi. Tất cả bệnh nhân nhận được liều tấn công 
300mg hoặc 600 mg của Clopidogrel và 300 mg 
Aspirin trước can thiệp và sau đó duy trì Aspirin 
100 mg / ngày vô thời hạn và Clopidogrel 75 mg 
mỗi ngày trong vòng sáu tháng. Sử dụng heparin 
không phân đoạn với liều nạp 70-100 đơn vị / kg 
theo đường tĩnh mạch (TM). Các mô tả chi tiết 
các tiến trình can thiệp được ghi lại trên các bệnh 
án nghiên cứu. Bóng phủ thuốc Paclitaxel (Bóng 
Sequent Please, B-Braun, Malsungen AG Đức 
nghiên cứu lâm sàng
TẠP CHÍ Tim mẠCH HọC việT nam - số 69.201592
và bóng Dior, Eurocor), với đường kính bóng từ 
2,0 mm-4,0 mm và chiều dài bóng từ 10 mm đến 
30 mm, được sử dụng với tỷ lệ 1,1:1 đường kính 
bóng với đường kính mạch can thiệp. Bóng được 
phủ 3 micrograms / mm2 Paclitaxel với chất mang 
có hoạt tính sinh học có thể gắn kết vào thành 
mạch và phóng thích thuốc. Bóng được bơm lên ít 
nhất 30 giây theo khuyến cáo của nhà sản xuất. Tổn 
thương động mạch vành được phân loại theo tiêu 
chuẩn phân loại của ACC / AHA theo phương 
pháp chụp động mạch vành (QCA). Chúng tôi 
định nghĩa các tổn thương chỗ phân nhánh mạch 
vành theo phân loại của Medina.18 Các kết quả 
sớm và ngắn hạn và các biến chứng nhỏ (không 
cần truyền máu) hoặc lớn (đòi hỏi phải truyền 
máu) chảy máu, tách thành, tắc nghẽn đột ngột, 
cần phải đặt thêm stent ...được ghi lại. Bệnh nhân 
được theo dõi lâm sàng sau 3, 6 và 12 tháng. Kết 
quả chính đã được xác định là bao gồm các biến 
cố tim mạch chính (MACE) được định nghĩa 
như nhồi máu cơ tim (NMCT), tái tưới máu tổn 
thương đích (TTĐ) và tử vong. Phân tích thống 
kê được thực hiện bằng cách sử dụng phần mềm 
SPSS phiên bản 19.0 
KẾT quẢ
Bảng 1. Cho thấy các đặc điểm lâm sàng ban 
đầu của mẫu nghiên cứu. Tuổi trung bình là 64,1 
± 9,09 năm, nam giới chiếm đa số (85%). Đây 
là một quần thể có nguy cơ với một tỷ lệ mắc 
Số lượng (N) (%)
Cỡ mẫu:60
Tuổi trung bình 64,1 ± 9,09
Nam giới 51 85,0
Nữ giới 09 15,0
Chiều cao (cm) 161,7 ± 5,37 
Cân nặng (kg) 59,6 ± 6,39 
BMI (kg/m2) 22,8 ± 1,94 
Đái đường 13 22,0
Tăng huyết áp 44 73,0
Hút thuốc lá 48 80,0
Lipid máu (trung bình) mmol/l:
Cholesterol 4,22 ± 1,18
Tri-Glycerides
High Density Lipoprotein 
Low Density Lipoprotein 
2,27 ± 1,26
1,06 ± 0,27
2,21 ± 0,98
Chẩn đoán lâm sàng:
Đau ngực ổn định 17 28,3
Đau ngực không ổn định 33 55,0
NMCT 10 16,7
Bảng 1.
nghiên cứu lâm sàng
TẠP CHÍ Tim mẠCH HọC việT nam - số 69.2015 93
bệnh tiểu đường và cao huyết áp tương ứng 
là 21,7% và 73,3%. Hơn hai phần ba số bệnh 
nhân (70%) có trên hai yếu tố nguy cơ. Tăng 
LDL không phổ biến trong nhóm nghiên cứu 
này có thể do các bệnh nhân đang được điều 
trị tốt với các thuốc kiểm soát lipit máu. Hơn 
một nửa (71,7%) bệnh nhân nhập viện với hội 
chứng mạch vành cấp (ACS) bao gồm đau thắt 
ngực không ổn định (UA),nhồi máu cơ tim 
(NMCT). 
Bảng 2. Cho thấy hơn một phần ba số bệnh 
nhân (38,3%) có bệnh lí 2 hoặc 3 thân động 
mạch vành (ĐMV). ĐMLTTr (LAD) và ĐMV 
phải (RCA) là các vị trí hay gặp tổn thương nhất 
(tương ứng 50,0% và 30,0% ). Mức độ hẹp trung 
bình của ĐM mũ (LCX) là 77,5%; ĐMLTTr 
(LAD) là 79,6% và ĐMV phải (RCA) có tỉ lệ hẹp 
trung bình cao nhất là 79,9%. Mức độ (%) lòng 
mạch hẹp được mở rộng sau nong bóng phủ thuốc 
trung bình là 54,8% (95%CI từ 51,1- 58,6) với 
p< 0,001. Kích thước (mm) lòng mạch tối thiểu 
tăng lên sau can thiệp là 1,43mm (95%CI từ 1,31- 
1,55) với p<0,001. Ba mươi bệnh nhân (50,0%) 
có nong bóng phủ thuốc cho các tổn thương 
mạch nhỏ và có 30 bệnh nhân có tái hẹp trong 
stent (50,0%). Đối với các vị trí tổn thương, có 
14 bệnh nhân (23,3%) là tổn thương chỗ phân 
nhánh được nong bóng phủ thuốc, trong đó có 
tới 71,4% tổn thương phân nhánh có tổn thương 
phức tạp. Nong trước với bóng thường được 
tiến hành ở 54 bệnh nhân (90%). Nhóm bệnh 
nhân có tổn thương mạch nhỏ được điều trị với 
bóng phủ thuốc, tuy nhiên có 2 trường hợp phải 
đặt thêm stent sau đó do còn hẹp nhiều sau nong 
bóng. Trong 30 bệnh nhân có tái hẹp trong 
stent được nong bóng phủ thuốc, có 12 bệnh 
nhân tái hẹp trong stent thường và 18 bệnh 
nhân tái hẹp trong stent phủ thuốc, nhưng tất 
cả các bệnh nhân này không cần đặt thêm stent 
sau nong bóng phủ thuốc. Trong quá trình theo 
dõi có 1 bệnh nhân có biến chứng xuất huyết tiêu 
hoa cao nhưng kiểm soát được bằng điều trị Nội 
khoa tích cực. Không có bệnh nhân có các biến 
chứng nặng khác như tắc mạch cấp hoặc “dò” 
động mạch vành cần phải phẫu thuật cấp cứu. 
Bảng 2. Đặc điểm trên chụp mạch vành.
Bệnh động mạch vành ( n = 60) Số lượng (N) Phần trăm (%)
Bệnh 1 thân 37 61,7
Bệnh 2 thân 12 20,0
Bệnh 3 thân 11 18,3
Tổn thương mạch nhỏ 30 50,0
Tái hẹp trong stent 30 50,0
Huyết khối 0 -
Vị trí
LAD 30 50,0
LCX 12 20,0
RCA 18 30,0
Đoạn mạch can thiệp
Đoạn gần 13 21,7
Đoạn giữa 14 23,3
Đoạn xa 17 28,3
Nhánh Dig1 12 20,0
nghiên cứu lâm sàng
TẠP CHÍ Tim mẠCH HọC việT nam - số 69.201594
Trong 3 tháng theo dõi sau can thiệp, có 2 bệnh 
nhân trong nhóm tổn thương mạch nhỏ cần đặt 
stent sau 3 tháng. Và có thêm 1 bệnh nhân cần 
đặt thêm stent sau 12 tháng.
Bàn luẬn 
Hai thập kỷ qua đã có những tiến bộ quan 
trọng trong điều trị bệnh lí động mạch vành. Tuy 
nhiên, tái hẹp trong stent vẫn luôn là một thách 
thức. Khi BPT được áp dụng, chúng đã giảm 
đáng kể tỉ lệ tái hẹp đối với các tổn thương mới, 
những chưa rõ ràng trong trường hợp tái hẹp lại 
trong stent, đặc biệt trong nhóm stent phủ thuốc. 
Tái hẹp trong stent phủ thuốc là một thách thức 
trong tim mạch can thiệp. Kết quả ban đầu với 
việc sử dụng bóng thường hoặc khoan phá mảng 
xơ vữa có kết quả rất hạn chế với tỉ lệ tái hẹp sau 6 
tháng rất cao (51% tới 65% tương ứng).19,20 Kỹ 
thuật xạ trị trong mạch vành có kết quả ban đầu 
rất tốt, những lại có quá nhiều biến chứng như gây 
hẹp hai đầu stent do hiệu ứng góc ‘edge effect’ .21 
Trong tái hẹp trong stent thường được điều trị với 
kết quả tốt khi sử dụng stent phủ thuốc, tái hẹp 
Nhánh OM1 3 5,0
Nhánh PDA 1 1,7
Tổn thương chỗ phân nhánh 14 23,3
Kiểu tổn thương phân nhánh
0.0.1 2 3,3
1.0.1 1 1,7
1.1.0 1 1,7
1.1.1 10 16,7
Kiểu tổn thương tái hẹp 
IC 11 18,4
II 19 31,7
Tổng số Bóng phủ thuốc (n = 64)
Đường kính trung bình (mm) 2,76±0,47
Chiều dài trung bình (mm) 25,9±4,27
Áp lực trung bình (atm) 9,62±2,95
DS,% (trước-sau) 54,8[51,1-58,6]
MLD,mm (trước-sau) -1,43[-1,55-1,31]
LLL,mm 0,38±0,7 
Tỉ lệ thành công về thủ thuật 60 100
Tỉ lệ thành công về kỹ thuật 58 96,7
Tái can thiệp tổn thương đích 3 5
XHTH cao 2 3,3
 LAD: ĐMLTTr, LCX: ĐM mũ, RCA: ĐM vành phải; Dig1: nhánh chéo 1; OM1: nhánh bờ 1; PDA: 
nhánh liên thất sau; DS(%): mức dộ hẹp(%);MLD(mm): đường kính lòng mạch nhỏ nhất(mm); 
LLL(mm): mức hẹp lại lòng mạch theo thời gian(mm). 
(Tiếp bảng 2)
nghiên cứu lâm sàng
TẠP CHÍ Tim mẠCH HọC việT nam - số 69.2015 95
trong stent phủ thuốc, thậm chí nếu được điều 
trị với một stent phủ thuốc loại khác, tỉ lệ tái hẹp 
vẫn rất cao.12 Việc tồn tại nhiều lớp stent chồng 
lên nhau cũng như thành phần polyme - nơi cất 
trữ và phóng thích thuốc chống phân bào càng 
làm tăng nguy cơ biến chứng huyết khối muộn và 
tái hẹp, cũng như làm tăng nhu cầu điều trị lâu dài 
với nghiệm pháp tiểu cầu kép (DAPT).
Trên cơ sở những bằng chứng này, sẽ củng cố 
sự phát triển các thế hệ bóng phủ thuốc mới trong 
điều trị tái hẹp trong stent. Công nghệ bóng phủ 
thuốc cho những lợi thế về khả năng phủ thuốc 
đồng đều trên thành mạch khi so sánh với stent 
phủ thuốc, mà với cấu trúc của stent mà thuốc chỉ 
tập trung tại các thanh chống stent để lại khoảng 
trống không có thuốc chống phân bào và gây ra 
hiện tượng tái hẹp trong stent. Ngoài ra, bóng phủ 
thuốc lại có thêm lợi điểm khi không cần thêm 
một lớp kim loại và lớp polyme. Từ những kết quả 
đầy hứa hẹn trên mô hình nghiên cứu ở động vật, 
BPT đã được sử dụng trong một vài thử nghiệm 
lâm sàng với kết quả rất tốt sau sáu tháng với tỉ lệ 
tái hẹp là 5,5% trong các tổn thương mạch nhỏ 
và 6,3% ở các tổn thương tái hẹp trong stent.17 
Nghiên cứu này cũng cho thấy tỉ lệ huyết khối 
muộn là 0%, mà đây vẫn là mối nguy cơ quan 
trọng ở bệnh nhân đặt stent phủ thuốc do tái 
hẹp trong stent thường và stent phủ thuốc. Việc 
sử dụng BPT cũng đã loại bỏ nhu cầu cần dùng 
liệu pháp kép tiểu cầu kéo dài hơn một năm và 
giảm thiểu nguy cơ biến chứng chảy máu.
Đây là lần đầu tiên tại Việt nam, chúng tôi 
báo cáo kết quả sớm và ngắn hạn trong nghiên 
cứu can thiệp tiến cứu về BPT. Như trong phần 
báo cáo kết quả, mẫu nghiên cứu này thuộc nhóm 
nguy cơ cao, cả trên lâm sàng cũng như tổn thương 
giải phẫu. Chỉ số mất lòng mạch muộn (LLL,mm) 
tức là mức độ hẹp lại của lòng mạch theo thời 
gian trong nghiên cứu này là 0,38± 0,7 mm, tức 
là gần tương đương với bề dày của một lớp stent. 
Các kết quả này cho thấy tiềm năng tích cực cho 
việc sử dụng BPT cho cả tổn thương mới cũng 
như tổn thương tái hẹp trong stent , mặc dù số ca 
bệnh nghiên cứu còn nhỏ. Stent phủ thuốc được 
sử dụng tại Việt nam từ năm 2002, và như vậy có 
khả năng chúng ta sẽ gặp rất nhiều ca tái hẹp trong 
những năm tới. Công nghệ BPT cung cấp thêm 
một lựa chọn khả thi khi so sánh với phẫu thuật 
cầu nối chủ vành (CABG) cho những tổn thương 
phức tạp. Một vài chi tiết kĩ thuật cần lưu ý khi 
sử dụng BPT. Nong trước với bóng sẽ giúp làm 
mở rộng lòng mạch theo chu vi nhờ lực ép, tách 
lớp nội mạc và dãn ra của stent trước đó, tạo thuận 
cho thuốc chống phân bào phân bố đều hơn lên 
thành mạch. Một trong những lưu ý quan trọng 
nữa là chiều dài của BPT phải phù hợp với chiều 
dài của tổn thương mới. Việc sử dụng thêm một 
stent thường dài hơn BPT được sử dụng trước đó 
có nguy cơ lớn để lại một vùng mạch máu không 
được phủ thuốc chống phân bào, làm hạn chế hiệu 
quả điều trị của BPT. Chúng tôi có kế hoạch tiếp 
tục đưa các bệnh nhân này vào một quá trình theo 
dõi lâu dài hơn. Hơn nữa, cần thêm các nghiên 
cứu quy mô lớn để có thể đánh giá tốt hơn ý 
nghĩa và hiệu quả của BPT so sánh với stent 
phủ thuốc. 
KẾT luẬn
Can thiệp ĐMV bằng bóng phủ thuốc 
Paclitaxel trong điều trị tái hẹp lại trong stent và 
tổn thương mạch nhỏ là phương pháp điều trị rất 
hứa hẹn có tỷ lệ thành công cao, an toàn và hiệu 
quả phòng chống tái hẹp trong stent tốt.
nghiên cứu lâm sàng
TẠP CHÍ Tim mẠCH HọC việT nam - số 69.201596
ABSTRACT
Objectives: To study the safety and efficacy of paclitaxel-eluting balloon (PEB) in the treatment of small 
de-novo and in-stent restenotic coronary artery disease (CAD).
Methods: 
This was one - group intervented pre and post study. There were 60 patients using a Paclitaxel- eluting 
balloon(PEB) at Vietnam Heart Institute. All patients with symptomatic coronary artery disease including 
30 small vessel diseases and 30 in-stent restenosis (ISR) requiring percutaneous intervention (PCI) with a 
PEB were studied for short and intermediate term. Clinical follow-up was conducted at 3, 6 and 12 months. 
Serial angiographic measurement was performed before and after the procedure, as well as at 6-month 
follow-up. Primary outcome was a composite of major adverse cardiac events (MACE).
Results: Procedural success was achieved in all (100%) patients. Mean age was 64,1 ± 9,09 years, 71,7 
% presented with acute coronary syndrome (ACS) and 18,3 % had triple vessel CAD. PEB intervention 
for small CAD was done in 50 % patients and 50 % for ISR. However, bailout stent occurred in 2 PEB 
patients (3,4%). Mean PEB diameter was 2,76 ± 0,47 mm and mean length was 25,9 ± 4,27 mm. Late 
lumen loss was 0,38±0,7mm. Target lesion revascularization (TLR) occurred in 3 patients(5%) which 
were successfully treated with additional stents; upper gastrointestinal bleeding in presented 2 patient 
which was successfully treated with medical therapy, no MACE was observed in other patient.
Conclusion: The PEB intervention for ISR and small CAD is feasibility, safety, impressive 
results with 5 % target lesion revascularization (TLR) for both small and ISR lesions.
TÀi Liệu THAM KHẢO
1. Serruys PW, de Jaegere P, Kiemeneij F, Macaya C, Rutsch W, Heyndrickx G, et al. A comparison of 
balloon-expandable-stent implantation with balloon angioplasty in patients with coronary artery disease. 
Benestent Study Group. N Engl J Med 1994; 331: 489-95.
2. Fischman DL, Leon MB, Baim DS, Schatz RA, Savage MP, Penn I, et al. A randomized comparison 
of coronary-stent placement and balloon angioplasty in the treatment of coronary artery disease. Stent 
Restensin Study Inestigators. N Engl J Med 1994; 331: 496-501.
3. Stone GW, Ellis SG, Cannon L, Mann JT, Greenberg JD, Spriggs D, et al.
Comparison of a polymer-based pacli-taxel-eluting stent with a bare metal stent in patients with complex 
coronary artery disease: a randomized controlled trial. JAMA 2005; 294: 1215-23.
4. Morice MC, Serruys PW, Sousa JE, Fajadet J, BanHayashi E, Perin M, et al. A randomized comparison 
of a sirolimus-eluting stent with a standard stent for coronary revascularization. N Engl J Med 2002; 
346: 1773-80.
5. Tu JV, Bowen J, Chiu M, Ko DT, Austin PC, He Y, et al. Effectiveness and safety of drug-eluting stents in 
Ontario. N Eng J Med 2007; 357: 1393-402.
6. Kelbæk H, Kløvgaard L, Helqvist S, Lassen JF, Krusell LR, Engstrøm T, et al. Long-term outcome 
in patients treated with sirolimus-eluting stents in complex coronary artery lesions: 3-year results of 
the SCANDSTENT (Stenting Coronary Arteries in Non-Stress/Benestent Disease) trial. J Am Coll 
Cardiol 2008; 51: 2011-6.
7. Alfonso F, Zueco J, Cequier A, Mantilla R, Bethencourt A, Lopez-Minguez JR, et al. A randomized 
comparison of repeat stenting with balloon angioplasty in patients with in-stent restenosis. J Am Coll 
Cardiol 2003; 42: 796-805.
nghiên cứu lâm sàng
TẠP CHÍ Tim mẠCH HọC việT nam - số 69.2015 97
8. Kastrati A, Mehilli J, von Beckerath N, Dibra A, Hausleiter J, Pache J, et al.
Sirolimus-eluting stent or paclitaxel-eluting stent vs. balloon angioplasty for prevention of recurrences 
in patients with coronary in-stent restenosis: a randomized controlled trial. JAMA 2005; 293: 165-71.
9. Iofina E, Haager PK, Radke PW, Langenberg R, Blindt R, Ortlepp J, et al.
Sirolimus- and paclitaxel-eluting stents in comparison with balloon angioplasty for treatment of in-stent 
restenosis. Catheter Cardiovasc Interv 2005; 64: 28-34.
10. Alfonso F, Pérez-Vizcayno MJ, Hernández R, Bethencourt A, Martí V, López- Mínguez JR, et al. Long-
Term clinical benefit of sirolimus-eluting stents in patients with in-stent restenosis: results of the RIBS-II 
(Restenosis Intra-stent: Balloon angioplasty vs. elective sirolimus-eluting Stenting) Study. J Am Coll 
Cardiol 2008; 52: 1621-7.
11. Mishkel JG, Moore AL, Markwell S, Shelton MC, Shelton ME. Long-term outcomes after management 
of restenosis or thrombosis of drug-eluting stents. J Am Coll Cardiol 2007; 49: 181-4.
12. Steinberg DH, Gaglia MA Jr, Pinto Slottow TL, Roy P, Bonello L, De Labriolle A, et al. Outcome 
differences with the use of drug-eluting stents for the treatment of in-stent restenosis of bare-metal stents 
versus drug-eluting stents. Am J Cardiol 2009; 103: 491-5.
13. Garg S, Smith K, Torguson R, Okabe T, Slottow TL, Steinberg DH, et al.
Treatment of drug-eluting stent restenosis with the same versus different drug- eluting stent. Catheter 
Cardiovasc Interv 2007; 70: 9-14.
14. Lemos PA, Hoye A, Goedhart D, Arampatzis CA, Saia F, van der Giessen WJ, et al. Clinical, angiographic, 
and procedural predictors of angiographic restenosis after sirolimus-eluting stent implantation in 
complex patients: an evaluation from the Rapamycin-Eluting Stent Evaluated At Rotterdam Cardiology 
Hospital (RESEARCH) study. Circulation 2004; 109: 1366-70.
15. Fanggiday JC, Stella PR, Guyomi SH, Doevendans PA. Safety and efficacy of drug-eluting balloons 
in percutaneous treatment of bifurcation lesions: the DEBIUT (drug-eluting balloon in bifurcaton 
utrecht) registry. Catheter Cardiovasc Interv 2008; 71: 629-35.
16. Scheller B, Hehrlein C, Bocksch W, Rutsch W, Haghi D, Dietz U, et al. Treatment of coronary in-
stent restenosis with a paclitaxel-coated balloon catheter. N Eng J Med 2006; 355: 2113-24.
17. Unverdorben M, Vallbracht C, Cremers B, Heuer H, Hengstenberg C, Maikowski C, Werner G, Antoni 
D., Kleber F, Bocksch W, Leschke M, Ackermann H, Boxberger M, Speck U, Degenhardt R, Scheller 
B., Paclitaxel-Coated Balloon Catheter Versus Paclitaxel-Coated Stent for the Treatment of Coronary In-
Stent Restenosis. Circulation. 2009; 119: 2986-2994.
18. Colantonio R, Romagnoli E, Sangiorgi E., Coronary Bifurcation Disease and Bifucation stenting: A 
practical approach. EMJ Int Cardiol. 2014;1:62-72
19. Eltchaninoff H, Koning R, Tron C, Gupta V, Cribier A. Balloon angioplasty for the treatment of coronary 
in-stent restenosis: immediate results and 6-month angiographic recurrent restenosis rate. J Am Coll 
Cardiol 1998; 32: 980-4.
20. vom Dahl J, Dietz U, Haager PK, Silber S, Niccoli L, Buettner HJ, Rotational atherectomy does 
not reduce recurrent in-stent restenosis: results of the angioplasty versus rotational atherectomy for 
treatment of diffuse in-stent restenosis trial (ARTIST). Circulation 2002; 105: 583-8.
21. Waksman R, Cheneau E, Ajani AE, White RL, Pinnow E, Torguson R, Intracoronary radiation 
therapy improves the clinical and angiographic outcomes of diffuse in-stent restenotic lesions: results 
of the Washington Radiation for In- Stent Restenosis Trial for Long Lesions (Long WRIST) Studies. 
Circulation 2003; 107: 1744-9. 

File đính kèm:

  • pdfket_qua_som_va_trung_han_sau_nong_bong_phu_thuoc_paclitaxel.pdf