Kết quả sớm phẫu thuật Bentall tại Bệnh viện Bạch Mai

Nghiên cứu hồi cứu trên 44 bệnh nhân được

thực hiện phẫu thuật Bentall đơn thuần hoặc phối

hợp với phẫu thuật khác tại Bệnh viện Bạch Mai

từ tháng 1/2013 đến tháng 3/2016. Tuổi trung

bình 49,8 ± 13,8, nam giới chiếm 72,7%. Tăng

huyết áp là yếu tố nguy cơ gặp nhiều nhất với tỷ

lệ 45,5% và phần lớn bệnh nhân (72,7%) khi

nhập viện có NYHA III - IV. Thời gian chạy máy

tim phổi nhân tạo là 110,30 ± 58,69 (phút) và thời

gian cặp động mạch chủ là 64,46 ± 27,22 (phút).

Thời gian nằm viện trung bình là 15,16 ± 11,05

ngày với biến chứng sau mổ hay gặp nhất là tràn

dịch, tràn khí màng phổi (22,7%). Tử vong tại

viện là 9,1%. Đối với bệnh lý van và gốc ĐMC,

phẫu thuật Bentall là một sự lựa chọn hợp lý với

kết quả sớm tốt. Tuy nhiên để đánh giá một cách

đầy đủ thì cần có những nghiên cứu lâu dài hơn

pdf 7 trang phuongnguyen 140
Bạn đang xem tài liệu "Kết quả sớm phẫu thuật Bentall tại Bệnh viện Bạch Mai", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Kết quả sớm phẫu thuật Bentall tại Bệnh viện Bạch Mai

Kết quả sớm phẫu thuật Bentall tại Bệnh viện Bạch Mai
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 20 - THÁNG 5/2018 
 40 
KẾT QUẢ SỚM PHẪU THUẬT BENTALL 
TẠI BỆNH VIỆN BẠCH MAI 
Dương Đức Hùng* 
TÓM TẮT 
Nghiên cứu hồi cứu trên 44 bệnh nhân được 
thực hiện phẫu thuật Bentall đơn thuần hoặc phối 
hợp với phẫu thuật khác tại Bệnh viện Bạch Mai 
từ tháng 1/2013 đến tháng 3/2016. Tuổi trung 
bình 49,8 ± 13,8, nam giới chiếm 72,7%. Tăng 
huyết áp là yếu tố nguy cơ gặp nhiều nhất với tỷ 
lệ 45,5% và phần lớn bệnh nhân (72,7%) khi 
nhập viện có NYHA III - IV. Thời gian chạy máy 
tim phổi nhân tạo là 110,30 ± 58,69 (phút) và thời 
gian cặp động mạch chủ là 64,46 ± 27,22 (phút). 
Thời gian nằm viện trung bình là 15,16 ± 11,05 
ngày với biến chứng sau mổ hay gặp nhất là tràn 
dịch, tràn khí màng phổi (22,7%). Tử vong tại 
viện là 9,1%. Đối với bệnh lý van và gốc ĐMC, 
phẫu thuật Bentall là một sự lựa chọn hợp lý với 
kết quả sớm tốt. Tuy nhiên để đánh giá một cách 
đầy đủ thì cần có những nghiên cứu lâu dài hơn. 
SUMMARY 
Retrospective analysis of records of 44 
patients underwent Bentall procedure from 
January, 2013 to Mar, 2016. The mean age was 
49,8 ± 13,8 years, male patients were 72,7%. 
Hypertension was the major risk factor (45,5%) 
and of these patients, 72,7% were NYHA III - IV. 
Mean CPB time was 110,30 ± 58,69 (mins) and 
mean aortic cross clamp time was 64,46 ± 27,22 
(mins). Average hospital stay time was 15,16 ± 
11,05 (days). The most common complications 
postoperative was heamothorax and 
pneumothorax (22,7%). Hospital mortality rate 
was 9,1%. Bentall procedure provided good short 
- term results for treatment of diseases of aortic 
root at our hospital. 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Phẫu thuật thay gốc động mạch chủ (ĐMC) 
bằng ống mạch nhân tạo có gắn van và cắm lại 
các lỗ vành được Bentall và De Bono mô tả lần 
đầu năm 1968 [1]. Từ đó đến nay phẫu thuật này 
đã được áp dụng rộng rãi trong điều trị nhiều loại 
bệnh khác nhau liên quan đến van động mạch 
chủ, gốc động mạch chủ và động mạch chủ lên. 
Kỹ thuật mổ cũng đã có nhiều thay đổi, cải tiến 
để đem lại hiệu quả nhiều hơn cho bệnh nhân [2]. 
Tại Đơn vị Phẫu thuật Tim mạch, Bệnh viện 
Bạch Mai, phẫu thuật Bentall được áp dụng rộng 
rãi trong vài năm trở lại đây. Vì vậy, nghiên cứu 
hồi cứu này được tiến hành nhằm mục đích đánh 
giá kết quả sớm của phẫu thuật trên.* 
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
NGHIÊN CỨU 
Nghiên cứu hồi cứu mô tả trên 44 bệnh 
nhân (BN) được phẫu thuật Bentall tại Đơn vị 
Phẫu thuật tim mạch, Viện Tim mạch, Bệnh viện 
Bạch Mai từ tháng 01/2013 đến tháng 03/2016. 
Số liệu được xử lý bằng phần mềm SPSS 20.0. 
Chỉ định của phẫu thuật Bentall bao gồm: 
lóc tách ĐMC type A có hở van ĐMC nhiều 
không thể bảo tồn được; bệnh lý van ĐMC cần 
phải thay van nhân tạo có kèm theo gốc ĐMC 
giãn rộng trên 45 mm; bệnh lý van ĐMC và giãn 
ĐMC lên ở những bệnh nhân có hội chứng 
Marfan (gốc ĐMC giãn trên 55mm). 
Kỹ thuật mổ: mở ngực đường dọc giữa 
xương ức, đặt ống để chạy máy tim phổi nhân tạo 
theo một trong ba cách sau: động mạch (ĐM) 
nách - nhĩ phải, ĐMC lên - nhĩ phải hoặc ĐM đùi 
– tĩnh mạch (TM) đùi (tuỳ theo tổn thương và dự 
kiến cách thức phẫu thuật). Chạy máy không hạ 
* Bệnh Viện Bạch Mai 
Người chịu trách nhiệm khoa học: TS. Dương Đức Hùng 
Ngày nhận bài: 01/05/2018 - Ngày Cho Phép Đăng: 20/05/2018 
Phản Biện Khoa học: GS.TS. Bùi Đức Phú 
 PGS.TS. Đặng Ngọc Hùng 
KẾT QUẢ SỚM PHẪU THUẬT BENTALL TẠI BỆNH VIỆN BẠCH MAI 
 41 
thân nhiệt hoặc hạ xuống 32°C nếu không ngừng 
tuần hoàn và hạ xuống 28°C nếu có ngừng tuần 
hoàn. Sau khi cặp ĐMC, đầu trung tâm được thực 
hiện kỹ thuật Bentall: thay van ĐMC và ĐMC lên 
bằng ống mạch nhân tạo có gắn van (loại được 
chế tạo sẵn có van cơ học hoặc tự chế bằng khâu 
van sinh học vào ống mạch nhân tạo) theo một 
trong hai cách: bằng đường khâu vắt chỉ Prolene 
3.0 kim 26 hoặc bằng các mũi chỉ rời Ethibond 
2.0 có độn rồi cắm lại các lỗ mạch vành. Bơm 
keo sinh học (Bioglue) vào các đường khâu để 
cầm máu. Đầu ngoại vi được nối với ống mạch 
nhân tạo. Các phẫu thuật kèm theo có thể là bắc 
cầu chủ vành, phẫu thuật trên các van khác, thay 
quai hoặc bán quai ĐMC. 
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
3.1. Đặc điểm trước mổ 
Tuổi trung bình là 49,8 ± 13,8. 
Tuổi BN trẻ nhất là 20, già nhất là 73. 
Phần lớn BN là nam giới với tỷ lệ 72,7%. 
Bảng 3.1. Đặc điểm chung trước mổ 
Đặc điểm N (%) 
Đặc điểm chung 
 Tuổi (năm±SD) 49,80 ± 13,78 
 Nam/Nữ 32/12 (72,7/27,3) 
 BSA 1,57 ± 0,13 
Tiền sử 
 Tăng huyết áp 20 (45,5) 
 Đái tháo đường 3 (6,8) 
 COPD 1 (2,3) 
 Bệnh mạch vành 4 (9,1) 
 Mổ tim cũ 1 (2,3) 
 Tai biến mạch máu não cũ 3 (6,8) 
 Gia đình có tiền sử Marfan 3 (6,8) 
NYHA 
 I 1 (2,3) 
 II 11 (25,0) 
 III 28 (63,6) 
 IV 4 (9,1) 
Chỉ định mổ 
 Cấp cứu 14 (31,8) 
 Kế hoạch 30 (68,2) 
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 20 - THÁNG 5/2018 
 42 
Bảng 3.2. Đặc điểm bệnh lý gốc ĐMC và van ĐMC 
Đặc điểm N (%) 
Bệnh lý gốc ĐMC 
 Giãn sau hẹp 6 (13,6) 
 Phình gốc ĐMC do xơ vữa 5 (11,4) 
 Giãn ĐMC do hội chứng Marfan 13 (29,5) 
 Lóc tách ĐMC cấp 12 (27,3) 
 Lóc tách ĐMC mạn 8 (18,2) 
 Đường kính chỗ rộng nhất của gốc ĐMC (mm±SD) 61,62 ± 12,17 
Bệnh lý van ĐMC 
 Hở van ĐMC 
 Độ I (hoặc không hở) 5 (11,4) 
 Độ II 5 (11,4) 
 Độ III 3 (6,8) 
 Độ IV 31 (70,5) 
 Van ĐMC có 2 lá van 8 (18,2) 
Bệnh lý van tim khác 
 Van hai lá 8 (18,2) 
 Van ba lá 4 (9,1) 
3.2. Đặc điểm trong mổ 
Bảng 3.3. Đặc điểm chung trong mổ 
Đặc điểm N (%) 
Vị trí canul động mạch 
 ĐMC lên 22 (50,0) 
 ĐM nách phải 19 (43,2) 
 ĐM đùi 3 (6,8) 
Thời gian tuần hoàn ngoài cơ thể 
 Thời gian chạy máy (phút±SD) 110,30 ± 58,69 
 Thời gian cặp ĐMC (phút±SD) 64,46 ± 27,22 
 Thời gian ngừng tuần hoàn (phút±SD) 26,94 ± 15.30 
(n=17) 
Loại ống van 
 Cơ học 40 (90,9) 
 Sinh học 4 (9,1) 
KẾT QUẢ SỚM PHẪU THUẬT BENTALL TẠI BỆNH VIỆN BẠCH MAI 
 43 
Cỡ van 
 21 1 (2,3) 
 23 33 (75,0) 
 25 10 (22,7) 
Cách khâu van 
 Khâu mũi rời có độn 27 (61,4) 
 Khâu mũi vắt 17 (38,6) 
Phẫu thuật kèm theo 
 Sửa van hai lá 7 (15,9) 
 Thay van hai lá 2 (4,5) 
 Sửa van ba lá 3 (6,8) 
 Bắc cầu chủ vành 6 (13,6) 
 Thay bán quai ĐMC 15 (34,1) 
 Thay toàn bộ quai ĐMC 2 (4,5) 
 Thời gian chạy máy nhanh nhất là 51 phút, lâu nhất là 370 phút 
 Thời gian cặp ĐMC nhanh nhất là 28 phút, lâu nhất là 169 phút 
 Có 17 BN phải ngừng tuần hoàn để sửa chữa quai hoặc bán quai với thời gian ngừng tuần hoàn 
nhanh nhất là 9 phút, lâu nhất là 66 phút. 
3.3 So sánh thời gian cặp ĐMC và chạy máy giữa các kỹ thuật khâu van 
 Khâu vắt (n=17) Khâu rời (n=27) p 
Thời gian chạy máy (phút±SD) 98,41 ± 44,59 117,78 ± 65,75 0,29 
Thời gian cặp ĐMC (phút±SD) 59,82 ± 30,22 67,37 ± 25,30 0,38 
 Sự khác biệt về thời gian chạy máy cũng như thời gian cặp ĐMC giữa hai nhóm áp dụng kỹ 
thuật khâu vắt van và khâu rời là không có ý nghĩa thống kê. 
3.4. Kết quả sớm sau mổ 
Bảng 3.4. Kết quả sớm sau mổ 
Kết quả N (%) 
Tử vong 4 (9,1) 
Ngày nằm viện trung bình 15,16 ± 11,05 
Chế phẩm máu dùng trong và sau mổ 
 Khối HC 6,10 ± 4,24 
 Khối TC máy 1,93 ± 3,03 
 Khối plasma 4,12 ± 2,81 
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 20 - THÁNG 5/2018 
 44 
Biến chứng sớm sau mổ (n=42) 
 Mổ lại do chảy máu 0 (0,0) 
 Mổ do nguyên nhân khác 1 (2,3) 
 Block nhĩ thất các mức độ 0 (0,0) 
 Suy thận phải lọc máu 2 (4,5) 
 Suy đa tạng 2 (4,5) 
 Tràn dịch, tràn khí màng phổi 10 (22,7) 
 Nhiễm trùng vết mổ 3 (6,8) 
 Nhiễm trùng xương ức 1 (2,3) 
 Nhiễm trùng huyết 1 (2,3) 
 Nhiễm trùng phổi 3 (6,8) 
 Tai biến mạch máu não 2 (4,5) 
 Có 4 BN tử vong do hội chứng giảm cung lượng tim ngay sau mổ (3 BN) và do suy đa tạng (1 
BN). 4 BN trên có đặc điểm chung khác là phải thực hiện cùng lúc nhiều phẫu thuật: 2 BN phải thay 
bán quai ĐMC, 1 BN thay quai ĐMC và 1 BN bắc cầu chủ vành. 
 1 BN phải mổ do có tụ máu lớn quanh vết chọc động mạch cánh tay gây chèn ép. 
 Tràn dịch/tràn khí màng phổi phải dẫn lưu là biến chứng hay gặp nhất với tỷ lệ 22,7%. 
Bảng 3.5. Thay đổi kích thước và chức năng thất trái trước và sau mổ 
 Trước mổ (n=36) Sau mổ (n=36) p 
LVESD (mm±SD) 42,71 ± 10,79 37,95 ± 12,69 0,004 
LVEDD (mm±SD) 61,41 ± 9,95 51,16 ± 12,72 0,001 
LVEF (%) 56,99 ± 13,08 49,28 ± 15,88 0,002 
 Đường kính thất trái cuối thì tâm thu và cuối thì tâm trương sau mổ giảm một cách có ý nghĩa 
thống kê so với trước mổ với p<0,05. 
IV. BÀN LUẬN 
Hơn 4 thập kỷ trước (1968), Bentall và De 
Bono lần đầu tiên mô tả phương pháp thay toàn 
bộ gốc ĐMC trong những trường hợp phình gốc 
có kèm theo van ĐMC bị giãn. Các tác giả đã 
khâu ống mạch nhân tạo vào vòng van của một 
chiếc van bi Starr cỡ 13 rồi thay gốc ĐMC bằng 
cả cụm này. Các lỗ vành được khâu vào thành 
của ống mạch nhân tạo và đầu xa của ống mạch 
này được nối với ĐMC lên [1]. Trong những năm 
sau đó, kỹ thuật này với nhiều sửa đổi [2], đã trở 
thành phẫu thuật được lựa chọn và coi như là tiêu 
chuẩn vàng ở hầu hết các trung tâm phẫu thuật 
tim để giải quyết các bệnh lý liên quan đến van 
ĐMC, gốc ĐMC và ĐMC lên. 
Lựa chọn loại ống mạch có gắn van cơ học 
hay van sinh học để thay cho bệnh nhân phụ 
thuộc vào nhiều yếu tố như: tuổi, nguyện vọng 
không dùng thuốc chống đông hoặc chống chỉ 
định dùng thuốc này. Trên thị trường Việt Nam 
hiện nay mới chỉ cung cấp loại ống mạch nhân 
tạo có gắn sẵn van cơ học các cỡ khác nhau mà 
chưa có loại ống mạch gắn sẵn van sinh học. Để 
giải quyết vấn đề này, các trung tâm đã tự chế ra 
ống mạch nhân tạo có gắn van sinh học (khâu van 
sinh học vào ống mạch nhân tạo) rồi sử dụng cho 
KẾT QUẢ SỚM PHẪU THUẬT BENTALL TẠI BỆNH VIỆN BẠCH MAI 
 45 
bệnh nhân. Theo nghiên cứu của Etz CD, 
Bischoff MS, và cộng sự trên 597 BN được phẫu 
thuật Bentall cho thấy tỷ lệ sử dụng ống van sinh 
học chiếm nhiều hơn với 307 BN trong khi 290 
BN dùng ống van cơ học [3]. Ở nghiên cứu của 
chúng tôi có 4 BN (9,1%) dùng ống van sinh học 
(tự chế): ¾ là BN trên 65 tuổi và 1 BN nữ có nhu 
cầu sinh nở. 
Một trong những phần kỹ thuật chính của 
phẫu thuật Bentall là cách khâu vòng van nhân 
tạo vào với vòng van ĐMC. Hầu hết các tác giả 
đều thống nhất cách sử dụng mũi khâu rời với chỉ 
dệt 2.0 có kèm mảnh độn và khâu kiểu từ ngoài 
vào (everted) để cho vòng van nhân tạo được đặt 
nằm trong vòng van ĐMC (intra-anulus) [1]. Tại 
bệnh viện chúng tôi, ngoài kỹ thuật khâu rời này, 
trong một số trường hợp mà mô vòng van không 
quá mủn nát, chúng tôi thực hiện kỹ thuật khâu 
vắt với duy nhất một sợi chỉ Polypropylene 3.0. 
Lợi ích của kỹ thuật này là rút ngắn thời gian 
khâu và buộc chỉ, qua đó rút ngắn thời gian cặp 
động mạch chủ (59,82 ± 30,22 phút) cũng như 
thời gian chạy máy tuần hoàn ngoài cơ thể (98,41 
± 44,59 phút). Áp dụng kỹ thuật này đã làm giảm 
thời gian cặp ĐMC và thời gian chạy máy rất có 
ý nghĩa trong lâm sàng mặc dù chưa có ý nghĩa 
thống kê. Một BN trong nghiên cứu này được sử 
dụng kỹ thuật khâu vắt có thời gian cặp ĐMC là 
28 phút. Trong nghiên cứu của Etz CD và cộng 
sự trên 597 bệnh nhân, thời gian chạy máy và cặp 
ĐMC lần lượt là 252 ± 60 phút và 176 ± 49 phút 
[3]. Tác giả Hyun-Chel J với nghiên cứu gồm 218 
bệnh nhân trong vòng 28 năm cũng có kết quả 
tương tự (210 ± 78 phút và 146 ± 51 phút) [4]. Để 
rút ngắn được những thời gian trên, ngoài việc có 
kỹ năng thuần thục của phẫu thuật viên cũng như 
kíp mổ thì việc thay đổi những kỹ thuật cũ cũng 
góp phần quan trọng. Tuy nhiên để đánh giá đầy 
đủ lợi ích và biến chứng của kỹ thuật này, cần có 
những nghiên cứu được thiết kế chi tiết hơn được 
tiến hành trong thời gian tới. 
Kỹ thuật quan trọng nhất trong phẫu thuật 
Bentall là làm miệng nối lỗ vành vào ống gắn 
van. Cách nối 2 lỗ vành để nguyên cả thành ống 
ĐMC vào ống mạch mà Bentall và De Bono thực 
hiện lần đầu (inclusion technique) giờ đã không 
còn được sử dụng nữa do khả năng bị giả phồng 
miệng nối ĐM vành, đặc biệt ở những BN 
Marfan [4]. Thay vào đó là kỹ thuật cải tiến của 
Kouchoukos và cộng sự năm 1991 là cắt rời hoàn 
toàn hai lỗ vành thành hai núm (open button 
technique) rồi phẫu tích tự do ra khỏi tổ chức liên 
kết xung quanh để nối vào ống gắn van. Đây cũng 
là kỹ thuật từ trước đến nay được áp dụng cho tất 
cả các bệnh nhân được phẫu thuật Bentall tại 
trung tâm của chúng tôi. Ngoài ra, đối với những 
trường hợp đã từng có phẫu thuật tại gốc ĐMC, 
khi hai lỗ vành không thể phẫu tích rời ra, chúng 
tôi sử dụng kỹ thuật Cabrol: khâu 2 lỗ vành vào 
với một ống mạch nhân tạo số 6, rồi nối ống này 
vào ống gắn van [2]. Trong nghiên cứu này, 
chúng tôi không gặp bất cứ biến chứng sớm nào 
liên quan đến vấn đề mạch vành như nhồi máu cơ 
tim sau mổ, rò miệng nối lỗ mạch vành - ống 
van... Để đánh giá kết quả lâu dài, những bệnh 
nhân trong nghiên cứu này vẫn được chúng tôi 
tiếp tục thăm khám và theo dõi một cách liên tục. 
Chảy máu sau mổ trong phẫu thuật Bentall 
đòi hỏi phải mổ lại là một biến chứng không hiếm 
gặp. Tỷ lệ này khoảng 3,4% - 9,6% ở các trung 
tâm khác nhau [3][4][5]. Với việc sử dụng keo 
sinh học gia cố cho đường khâu trung tâm, đường 
khâu lỗ vành và đầu xa với ĐMC một cách hệ 
thống đã hạn chế tối đa biến chứng chảy máu ở 
trung tâm của chúng tôi: không có bệnh nhân nào 
phải mổ lại vì chảy máu sau mổ. 
Trong những năm gần đây, một số kỹ 
thuật mới gọi là bảo tồn van ĐMC được phát 
triển để áp dụng trong những trường hợp có 
giãn gốc ĐMC hoặc lóc tách ĐMC nhưng lá van 
vẫn chưa bị hỏng. Ưu điểm của phương pháp 
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 20 - THÁNG 5/2018 
 46 
này là tránh việc phải sử dụng thuốc chống đông 
để hạn chế những biến chứng của nó [6]. Tuy 
nhiên kỹ thuật này tương đối phức tạp và đòi 
hỏi sự thuần thục của phẫu thuật viên nên ảnh 
hưởng nhiều đến thời gian mổ cũng như kết quả 
lâu dài sau mổ. Để so sánh kết quả lâu dài giữa 
hai phương pháp, nghiên cứu cộng gộp của 
Benedetto và cộng sự gồm 11 nghiên cứu với 
1385 bệnh nhân có hội chứng Marfan được phẫu 
thuật hoặc theo kỹ thuật Bentall hoặc theo kỹ 
thuật bảo tồn đã được tiến hành. Kết quả cho 
thấy tỷ lệ tuyến tính phải can thiệp lại ở nhóm 
bảo tồn cao gấp 4 lần ở nhóm Bentall 
(1,3%/năm so với 0,3%/năm). Ngược lại, biến 
cố do xuất huyết ở nhóm bảo tồn thấp hơn so 
với nhóm Bentall (0,3%/năm so với 0,7%/năm, 
p = 0,01) [8]. Lựa chọn phương pháp nào trong 
những phương pháp trên cho từng trường hợp 
cụ thể vẫn là vấn đề còn tranh cãi [2][6][7][8], 
tuy nhiên với mức độ an toàn của phẫu thuật, 
khả năng thuần thục kỹ thuật cũng như kỳ vọng 
lâu dài, chúng tôi chọn kỹ thuật Bentall trong 
phần lớn những bệnh nhân có chỉ định ở trung 
tâm của mình. 
Tỷ lệ tử vong sớm sau phẫu thuật Bentall 
được báo cáo khoảng 1,9% - 7,3% tuỳ từng tác 
giả . Mặc dù có nhiều khác biệt về đặc điểm bệnh 
nhân giữa các nhóm nghiên cứu nhưng hầu hết 
các tác giả đều thống nhất là có sự khác biệt giữa 
nhóm mổ cấp cứu và nhóm theo kế hoạch 
[3][5][9]. Ở nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ tử 
vong là 9,1% (4/44) trong đó có đến 3/4 là mổ 
cấp cứu do lóc tách ĐMC. Tỷ lệ tử vong như vậy 
là chấp nhận được và cũng tương đồng với các 
nghiên cứu khác. Với kết quả sớm tốt, cho đến 
nay phẫu thuật Bentall vẫn là lựa chọn đầu tay 
trong điều trị bệnh lý van và gốc ĐMC không 
những ở bệnh viện của chúng tôi mà còn ở những 
trung tâm lớn khác. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bentall H, De Bono A. A technique for 
complete replacement of the ascending aorta. 
Thorax. 1968;4:338-9. 
2. Kouchoukos NT, Wareing TH, Murphy 
SF, Perrillo JB. Sixteen-year experience with 
aortic root replacement. Results of 172 
operations. Ann Surg. 1991;214:308-18. 
3. Etz CD, Bischoff MS, Bodian C, Roder 
F, Brenner R, Griepp RB, Luozzo GD. The 
Bentall procedure: is it the gold standard? A 
series of 597 consecutive cases. J Thorac 
Cardiovasc Surg. 2010;140(6S):64-70. 
4. Hyun-Chel J, Byung-Chul C, Young-
Nam Y, Kyung-Jong Y, Lee S. Clinical 
experience with the Bentall procedure: 28 years. 
Yonsei Med J. 2012;53(5):915-923. 
5. Mookhoek A, Korteland MN, 
Arabkhani B, Isabell DC, Lansac E, Bekkers JA, 
Bogers JC, Takkenberg JM. Bentall procedure: a 
systematic review and meta-analysis. Ann Thorac 
Surg. 2016. Artical in press. 
6. Svesson LG, Crowford ES, Hess KR, 
Coselli JS, Safi HJ. Composite valve graft 
replacement of the proximal aorta: comparison of 
techniques in 348 patients. Ann Thorac Surg. 
1992;54:427-37. 
7. Hagl C, Strauch JT, Spielvogel D, 
Galla JD, Lansman SL, Squitieri R, et al. Is the 
Bentall procedure for ascending aorta or aortic 
valve replacement the best approach for long-
term evet-free survival? Ann Thorac Surg. 
2003;76:698-703. 
8. Price J, Magruder JT, Young A, Grimm 
JC, Patel ND, Cameron DE, et al. Long-term 
outcomes of aortic root operations for Marfan 
syndrome: A comparision of Bentall versus aortic 
valve-sparing procedures. J Thorac Cardiovasc 
Surg. 2016;151(2):330-6. 
9. Matilde MG, Bertha MS, Clotilde FO, 
Manuel MM, Esteban VM, Fermin RO. Bentall 
procedure in ascending aoric aneurysm: hospital 
mortality. Cir Ciruj. 2010;78:43-49. 

File đính kèm:

  • pdfket_qua_som_phau_thuat_bentall_tai_benh_vien_bach_mai.pdf