Kết quả phục hồi chức năng vận động cho người bệnh tai biến mạch máu não điều trị tại Bệnh viện Y dược cổ truyền Sơn La năm 2019

Nghiên cứu cắt ngang sử dụng phương pháp lấy số liệu sẵn có từ hồ sơ bệnh án của 50 người bệnh tai

biến mạch máu não được chăm sóc phục hồi chức năng nhằm mô tả kết quả phục hồi chức năng vận động

cho người bệnh tai biến mạch máu não điều trị tại bệnh viện Y dược cổ truyền Sơn La năm 2019. Kết quả cho

thấy 56% người bệnh được phục hồi chức năng sau 15 ngày vào viện; khả năng vận động của người bệnh

bao gồm: ngồi, đứng, đi sau phục hồi chức năng được được cải thiện so với trước khi phục hồi chức năng (p

0,05); khả năng thực hiện các hoạt động sống hàng ngày như: ăn uống, tắm, sử dụng nhà tiêu, chăm sóc bản

thân, thay quần áo và leo bậc thang cũng được cải thiện so với trước phục hồi chức năng (p < 0,05).="" phục="">

chức năng cho người bệnh tai biến mạch máu não là hết sức cần thiết giúp người bệnh cải thiện được chức

năng vận động và khả năng tự chủ trong sinh hoạt hàng ngày, giảm tối đa các di chứng, đưa bệnh nhân sớm

trở lại với cuộc sống độc lập của họ trong gia đình và cộng đồng, chất lượng cuộc sống được nâng cao rõ rệt.

pdf 8 trang phuongnguyen 200
Bạn đang xem tài liệu "Kết quả phục hồi chức năng vận động cho người bệnh tai biến mạch máu não điều trị tại Bệnh viện Y dược cổ truyền Sơn La năm 2019", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Kết quả phục hồi chức năng vận động cho người bệnh tai biến mạch máu não điều trị tại Bệnh viện Y dược cổ truyền Sơn La năm 2019

Kết quả phục hồi chức năng vận động cho người bệnh tai biến mạch máu não điều trị tại Bệnh viện Y dược cổ truyền Sơn La năm 2019
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
57TCNCYH 130 (6) - 2020
Tác giả liên hệ: Trần Thị Nga,
Trường Đại học Y Hà Nội
Email: [email protected]
Ngày nhận: 19/05/2020
Ngày được chấp nhận: 13/08/2020
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Tai biến mạch máu não là nguyên nhân gây 
tử vong thường gặp thứ hai ảnh hưởng tới 15 
triệu người trên toàn thế giới. Trong số những 
người bệnh tai biến mạch máu não, 5 triệu 
người tử vong và 5 triệu người khác bị tàn tật 
vĩnh viễn mỗi năm, làm nó trở thành nguyên 
nhân đứng thứ tư gây gánh nặng bệnh tật khi 
đánh giá bằng số năm sống với tàn tật (chỉ số 
DALY).1 Bên cạnh đó, tai biến mạch máu não 
có xu hướng trẻ hóa, gây ảnh hưởng nhiều đến 
những người trong độ tuổi lao động và là trụ cột 
chính trong gia đình, đặt gánh nặng lên gia đình 
và xã hội.2-5
Tai biến mạch máu não thuộc loại đa tàn tật 
vì ngoài giảm khả năng vận động, người bệnh 
còn kèm theo nhiều rối loạn về ngôn ngữ, rối 
loạn cảm giác, rối loạn tri giác, nhận thức, tâm 
lý và rối loạn chức năng tùy thuộc mức độ và 
loại khiếm khuyết tìm thấy trên người bệnh. 
Khiếm khuyết do tai biến mạch máu não làm 
người bệnh giảm hoặc mất khả năng độc lập, 
phải phụ thuộc vào người khác trong sinh hoạt 
hàng ngày, làm giảm khả năng tái hội nhập xã 
hội của người bệnh. Một nghiên cứu ở Việt 
Nam cho thấy sau tai biến mạch máu não, 
phần lớn người bệnh có nhu cầu phục hồi chức 
năng giúp họ có thể tự thực hiện các hoạt động 
thường ngày cũng như khả năng tái hội nhập 
cộng đồng.6
Để cải thiện những thương tật thứ cấp cho 
bệnh nhân sau tai biến mạch máu não, chương 
trình phục hồi chức năng tại cơ sở y tế đóng vai 
trò rất quan trọng đặc biệt là trong những ngày 
đầu của bệnh. Bệnh viện Y Dược Cổ truyền 
Sơn La thực hiện dịch vụ chăm sóc phục hồi 
chức năng cho người bệnh tai biến mạch máu 
não, vì vậy chúng tôi thực hiện nghiên cứu 
KẾT QUẢ PHỤC HỒI CHỨC NĂNG VẬN ĐỘNG CHO 
NGƯỜI BỆNH TAI BIẾN MẠCH MÁU NÃO ĐIỀU TRỊ TẠI
 BỆNH VIỆN Y DƯỢC CỔ TRUYỀN SƠN LA NĂM 2019
Trần Thị Nga , Cao Thị Ngọc Anh1, Hà Thị Bích Liên2
1Viện Đào tạo YHDP&YTCC, Trường Đại học Y Hà Nội 
2Bệnh viện Y học Cổ truyền Sơn La
Nghiên cứu cắt ngang sử dụng phương pháp lấy số liệu sẵn có từ hồ sơ bệnh án của 50 người bệnh tai 
biến mạch máu não được chăm sóc phục hồi chức năng nhằm mô tả kết quả phục hồi chức năng vận động 
cho người bệnh tai biến mạch máu não điều trị tại bệnh viện Y dược cổ truyền Sơn La năm 2019. Kết quả cho 
thấy 56% người bệnh được phục hồi chức năng sau 15 ngày vào viện; khả năng vận động của người bệnh 
bao gồm: ngồi, đứng, đi sau phục hồi chức năng được được cải thiện so với trước khi phục hồi chức năng (p < 
0,05); khả năng thực hiện các hoạt động sống hàng ngày như: ăn uống, tắm, sử dụng nhà tiêu, chăm sóc bản 
thân, thay quần áo và leo bậc thang cũng được cải thiện so với trước phục hồi chức năng (p < 0,05). Phục hồi 
chức năng cho người bệnh tai biến mạch máu não là hết sức cần thiết giúp người bệnh cải thiện được chức 
năng vận động và khả năng tự chủ trong sinh hoạt hàng ngày, giảm tối đa các di chứng, đưa bệnh nhân sớm 
trở lại với cuộc sống độc lập của họ trong gia đình và cộng đồng, chất lượng cuộc sống được nâng cao rõ rệt.
Từ khóa: Tai biến mạch máu não, phục hồi chức năng.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
58 TCNCYH 130 (6) - 2020
nhằm mục tiêu mô tả kết quả phục hồi chức 
năng vận động của người bệnh tai biến mạch 
máu não điều trị tại bệnh viện Y dược cổ truyền 
Sơn La năm 2019.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
Người bệnh tai biến mạch máu não điều trị 
nội trú.
Tiêu chuẩn lựa chọn: Người bệnh có hồ sơ 
bệnh án ghi chép đầy đủ, rõ ràng; có hạn chế 
chức năng vận động chung (ngồi, đứng, đi) 
hoặc hạn chế khả năng sinh hoạt.; .
Tiêu chuẩn loại trừ: Hồ sơ bệnh án không 
đầy đủ thông tin, thông tin không chính xác. 
2. Phương pháp
Thiết kế nghiên cứu: Mô tả cắt ngang so 
sánh trước và sau phục hồi chức năng.
Thời gian và địa điểm: từ tháng 11/2019 
đến tháng 6/2020 tại khoa Phục hồi chức năng, 
bệnh viện Y dược cổ truyền Sơn La.
Cỡ mẫu: so sánh hai tỷ lệ theo công thức: 
N = [Z (1 - α/2) +Z (1 - β) ] 2/ (P1 - P2)
Z (1 - α/2): hệ số giới hạn tin cậy với mức tin cậy 
95% Z (1 - α/2) = 1,96; β = 0,2 thì Z (1 - β) = 0,83; 
P1: tỷ lệ phục hồi chức năng sau khi đánh giá, 
ước tính = 0,70; P2: tỷ lệ phục hồi chức năng 
trước khi đánh giá, ước tính = 0,25.7
 n = 50 người bệnh.
Phương pháp chọn mẫu: Chọn mẫu chủ 
đích, chọn tất cả người bệnh tai biến mạch máu 
não có giảm chức năng vận động (ngồi, đứng, 
đi) hoặc giảm khả năng sinh hoạt tại khoa Phục 
hồi chức năng.
Thu thập số liệu: Thu thập số liệu sẵn có 
từ hồ sơ bệnh án bằng mẫu bệnh án nghiên 
cứu bệnh nhân tai biến mạch máu não và phiếu 
đánh giá mức độ độc lập trong sinh hoạt hàng 
ngày của bệnh nhân sau tai biến mạch máu 
não.
Biến số nghiên cứu: 
 - Khả năng ngồi/đứng/đi của người bệnh: 
chia thành 3 mức độ: Không tự làm được/ Cần 
trợ giúp/ Tự làm được. 
 - Giảm chức năng vận động: người bệnh 
không ngồi/đứng/đi được hoặc cần trợ giúp.
 - Khả năng sinh hoạt của người bệnh: Khả 
năng thực hiện các hoạt động hàng ngày (ăn 
uống, tắm, kiểm soát đi tiểu, kiểm soát đi ngoài, 
chăm sóc bản thân, thay quần áo, sử dụng nhà 
xí, di chuyển, leo bậc thang): chia thành 3 mức 
độ: Không tự làm được/ Cần trợ giúp/ Tự làm 
được.
 - Giảm khả năng sinh hoạt: người bệnh 
không tự làm được hoặc cần trợ giúp. 
3. Xử lý số liệu
Số liệu sau khi thu thập được mã hóa và 
xử lý theo phương pháp Thống kê Y học trên 
SPSS. Sử dụng thống kê mô tả để tính tần 
suất, tỷ lệ, sử dụng test X2 để so sánh sự khác 
biệt giữa 2 tỷ lệ.
4. Đạo đức nghiên cứu
Đề cương nghiên cứu được hội đồng khoa 
học của Viện Đào tạo YHDP&YTCC phê duyệt. 
Nghiên cứu được sự chấp thuận của lãnh đạo 
bệnh viện, kết quả nghiên cứu nhằm cung cấp 
bằng chứng cho các nhà quản lý đề xuất giải 
pháp nâng cao chất lượng dịch vụ.
III. KẾT QUẢ
Bảng 1. Đặc điểm của người bệnh tai biến mạch máu não trước phục hồi chức năng (n = 50)
Đặc điểm của người bệnh n %
Mức độ tổn thương
Nhồi máu não 24 48,0
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
59TCNCYH 130 (6) - 2020
Đặc điểm của người bệnh n %
Chảy máu não 26 52,0
Khả năng ngồi
Không làm được 15 30,0
Cần trợ giúp 32 64,0
Tự làm được 3 6,0
Khả năng đứng
Không làm được 27 54,0
Cần trợ giúp 14 28,0
Tự làm được 9 18,0
Khả năng đi
Không làm được 32 64,0
Cần trợ giúp 10 20,0
Tự làm được 8 16,0
Người bệnh tai biến mạch máu não khi vào viện được chẩn đoán là chảy máu não chiếm tỷ lệ 
cao hơn thể nhồi máu não (48,0%). Đánh giá khả năng vận động của người bệnh cho thấy: người 
bệnh tự ngồi được chiếm tỷ lệ rất thấp (6,0%), 30% người bệnh không tự ngồi được; tự đứng được 
(18,0%), 54% người bệnh không tự đứng được; người bệnh tự đi được (16,0%) và không tự đi được 
chiếm 64%.
Biểu đồ 1. Thời gian từ khi tai biến mạch máu não đến khi phục hồi chức năng của người 
bệnh tai biến mạch máu não (n = 50)
56% người bệnh được phục hồi chức năng sau 15 ngày, chỉ có 4% người bệnh được phục hồi 
chức năng trước 15 ngày tính từ khi người bệnh nhập viện.
44%
30%
26%
Dưới 15 ngày Từ 16 - 25 ngày Trên 25 ngày
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
60 TCNCYH 130 (6) - 2020
Bảng 2. Kết quả phục hồi chức năng vận động của 
người bệnh tai biến mạch máu não (n = 50)
Kết quả phục hồi chức năng vận 
động
Trước phục hồi 
chức năng
Sau phục hồi chức 
năng P
n % n %
Khả năng ngồi
Không ngồi được 15 30 7 14
 < 0,05
Cần trợ giúp 32 64 15 30
Tự ngồi 3 6 28 56
Khả năng đứng
Không đứng được 27 54 19 38
 < 0,05
Cần trợ giúp 14 28 9 18
Tự đứng 9 18 22 44
Khả năng đi
Không đứng được 27 54 19 38
 < 0,05
Cần trợ giúp 14 28 9 18
Tự đứng 9 18 22 44
Sau phục hồi chức năng khả năng vận động của người bệnh tai biến mạch máu não được cải 
thiện rõ rệt, cụ thể: Khả năng ngồi dậy: sau phục hồi chức năng tỷ lệ người bệnh có khả năng tự 
ngồi dậy tăng đáng kể (56%) so với trước khi phục hồi chức năng (6%). Khả năng đứng dậy: sau 
phục hồi chức năng tỷ lệ người bệnh có khả năng tự đứng dậy tăng đáng kể (44%) so với trước khi 
phục hồi chức năng (18%). Khả năng tự đi: sau phục hồi chức năng tỷ lệ người bệnh có khả năng 
tự ngồi dậy tăng đáng kể (30%) so với trước khi phục hồi chức năng (16%), sự khác biệt có ý nghĩa 
thống kê với p < 0,05.
Biểu đồ 2. Khả năng thực hiện các hoạt động sống hàng ngày
của người bệnh trước và sau phục hồi chức năng (n = 50)
Chăm sóc phục hồi chức năng giúp người bệnh cải thiện được các hoạt động trong sinh hoạt 
74
6
20
50
22
28
Phụ thuộc hoàn toàn Phụ thuộc một phần Độc lập
Trước tập Sau tập
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
61TCNCYH 130 (6) - 2020
hàng ngày. Tỷ lệ người bệnh phải phụ thuộc hoàn toàn giảm từ 74% xuống 50%, tỷ lệ người bệnh 
có thể sinh hoạt độc lập tăng từ 20% lên 28%. 
Bảng 3. Mức độ thực hiện hoạt động sống hàng ngày của người bệnh
theo thang điểm Barthel (n = 50)
Hoạt động sống
Trước phục hồi 
chức năng
Sau phục hồi 
chức năng p
n % n %
Ăn uống
Tự ăn 12 24,0 22 44,0
 < 0,05
Cần trợ giúp 21 42,0 17 34,0
Phụ thuộc hoàn toàn 17 34,0 11 22,0
Tắm
Tự tắm 12 24,0 19 38,0
 < 0,05Cần trợ giúp 38 76,0 31 62,0
Sử dụng 
nhà vệ sinh
Tự đi đại, tiểu tiện 22 44,0 27 54,0
 < 0,05
Cần trợ giúp lúc ngồi và lấy 
giấy
14 28,0 12 24,0
Không sử dụng được 14 28,0 11 22,0
Chăm sóc 
bản thân
Tự chải đầu, rửa mặt 28 56,0 41 82,0
 < 0,05Cần trợ giúp 22 44,0 9 18,0
Thay quần 
áo
Tự thay quần áo, đi giày dép 15 30,0 39 78,0
 < 0,05
Cần trợ giúp 22 44,0 3 6,0
Phụ thuộc hoàn toàn 13 26,0 8 16,0
Leo bậc 
thang
Tự lên xuống cầu thang 5 10,0 16 32,0
 < 0,05
Leo được nhưng phải vịn 32 64,0 28 56,0
Không leo được 13 26,0 6 12,0
Khả năng thực hiện các hoạt động sống 
hàng ngày của người bệnh tai biến mạch máu 
não được cải thiện đáng kể so với trước khi 
phục hồi chức năng, cụ thể: Ăn uống: người 
bệnh có thể tự gắp ăn tăng từ 24% lên 44%, tỷ 
lệ người bệnh phải phụ thuộc hoàn toàn giảm 
từ 34% xuống 22%. Tắm: Tỷ lệ người bệnh 
có thể tự tắm được tang từ 24% lên 38%. Sử 
dụng nhà vệ sinh: người bệnh có thể tự sử 
dụng được nhà vệ sinh tăng từ 44% lên 54%, 
tỷ lệ người bệnh không thể tự sử dụng nhà vệ 
sinh giảm từ 28% xuống còn 22%. Chăm sóc 
bản thân: tỷ lệ người bệnh có thể tự chải đầu, 
rửa mặt tăng từ 56% lên 82%. Thay quần áo: 
tỷ lệ người bệnh có thể tự thay quần áo, tự 
đi giày dép tăng từ 30% lên 78%, tỷ lệ người 
bệnh phụ thuộc hoàn toàn giảm từ 26% xuống 
10%. Leo bậc thang: tỷ lệ người bệnh có thể 
tự lên xuống cầu thang tăng từ 10% lên 32%, 
tỷ lệ người bệnh không thể tự leo giảm từ 26% 
xuống 12%.
IV. BÀN LUẬN
Trong 50 đối tượng nghiên cứu, 52% được 
chẩn đoán là chảy mãu não chiếm tỷ lệ cao hơn 
so với thể nhồi máu não. Kết quả này tương 
đồng với kết quả nghiên cứu của tác giả Đỗ 
Thị Mai Huyền khi thực hiện tại khoa Thần kinh 
bệnh viện Bạch Mai từ năm 1995 - 1997 cho 
thấy tỷ lệ người bệnh chảy máu não là 60,2%8 
và khác với kết quả nghiên cứu của Trần Văn 
Chương khi tỷ lệ người bệnh tai biến mạch máu 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
62 TCNCYH 130 (6) - 2020
não thể nhồi máu não chiếm tỷ lệ cao hơn.9 
Người bệnh tai biến mạch máu não có thời gian 
từ khi tai biến đến khi được phục hồi chức năng 
dưới 15 ngày chiếm 44%. Đây là khoảng thời 
gian mà bệnh nhân tai biến mạch máu não đã 
được điều trị giai đoạn cấp, người bệnh được 
chuyển đến bệnh viện phục hồi chức năng Sơn 
La để điều trị phục hồi chức năng. Tuy nhiên, 
vẫn còn 30% bệnh nhân tai biến mạch máu não 
có thời gian từ khi điều trị tai biến mạch máu 
não đến phục hồi chức năng là 16 - 25 ngày và 
26% có thời gian trên 25 ngày vì nhiều người 
bệnh phải mất một thời gian dài nằm điều trị tại 
các bệnh viện do bệnh nặng. 
Theo kết quả nghiên cứu của chúng tôi, 
sau 15 ngày chăm sóc phục hồi chức năng, 
các hoạt động ngồi, đứng, đi của người bệnh 
đều có sự cải thiện và sự khác biệt này có ý 
nghĩa thống kê (p < 0,05). Tỷ lệ người bệnh 
có thể tự ngồi dậy chiếm 56% và tự đứng dậy 
chiếm 44%, thấp hơn so với kết quả nghiên cứu 
của một số tác giả khác. Theo Sanchez Blanco 
(1999), 70% bệnh nhân tự làm được các vận 
động mà không cần ai trợ giúp10 và theo nghiên 
cứu của Nguyễn Thị Nga, bệnh nhân tự làm 
được các vận động chung chiếm 60%.11
Trước khi phục hồi chức năng, người bệnh 
phụ thuộc hoàn toàn trong sinh hoạt hàng ngày 
chiếm 6%, phụ thuộc một phần là 74%. Kết 
quả này tương đồng với kết quả nghiên cứu 
của tác giả Trần Văn Chương thực hiện trên 
115 người bệnh cho kết quả: tỷ lệ người bệnh 
độc lập hoàn toàn trong sinh hoạt hàng ngày 
chiếm 1,7%, người bệnh phụ thuộc hoàn toàn 
chiếm 86,1%.12 Sau 15 ngày phục hồi chức 
năng, tỷ lệ bệnh nhân phụ thuộc hoàn toàn và 
phụ thuộc một phần đều giảm, tỷ lệ bệnh nhân 
độc lập trong sinh hoạt hàng ngày tăng từ 20% 
lên 28%. Kết quả này thấp hơn so với kết quả 
nghiên cứu của Nguyễn Văn Triệu: tỷ lệ người 
bệnh độc lập hoàn toàn trong sinh hoạt hàng 
ngày chiếm 30,5%.13 Kết quả đánh giá mức độ 
độc lập trong thực hiện các hoạt động sinh hoạt 
hàng ngày của người bệnh theo các nghiên cứu 
ở trong nước thấp hơn các kết quả nghiên cứu 
của nước ngoài có thể là do điều kiện kinh tế và 
sự phát triển y học ở các nước tốt hơn, người 
bệnh được phục hồi chức năng tại cơ sở y tế 
có trang thiết bị tốt hơn. Theo kết quả nghiên 
cứu của Đỗ Mai Huyền ở bệnh nhân tai biến 
mạch máu não trên 45 tuổi tại bệnh viện Bạch 
Mai cho thấy không có sự khác biệt rõ ràng về 
chức năng vận động sau 1 tuần phục hồi chức 
năng.8 Năm 1990, Loewen S.C, Anderson B.A 
tiến hành một nghiên cứu tại trung tâm vật lý 
và thần kinh học ở Canada nhằm đánh giá sự 
thay đổi kết quả phục hồi chức năng vận động 
ở những bệnh nhân sau tai biến mạch máu 
não. Kết quả cho thấy không có sự thay đổi rõ 
rệt sau 3 ngày, 1 tuần mà sau 1 tháng mới có 
sự thay đổi 1 cách rõ rệt.14 Kết quả này chứng 
tỏ thời gian phục hồi chức năng 15 ngày có tác 
dụng cải thiện chức năng vận động của người 
bệnh tai biến mạch máu não, tuy nhiên thời 
gian phục hồi chức năng trong 15 ngày còn khá 
ngắn nên kết quả phục hồi chức năng cho bệnh 
nhân còn chưa cao. 
V. KẾT LUẬN
Với người bệnh tai biến mạch máu não 
được chăm sóc phục hồi chức năng trong 15 
ngày đã cho thấy sự cải thiện về chức năng vận 
động và mức độ thực hiện các hoạt động sống 
hàng ngày. Chức năng vận động: tỷ lệ người 
bệnh sau phục hồi chức năng có thể tự ngồi 
dậy (56%), tự đứng (44%) và tự đi được (30%) 
tăng có ý nghĩa thống kê so với trước phục hồi 
chức năng (tỷ lệ lần lượt là 6%; 18%; 16%). 
Khả năng thực hiện các hoạt động sống hàng 
ngày: tỷ lệ người bệnh sau phục hồi chức năng 
có thể tự làm độc lập tăng lên so với trước phục 
hồi chức năng (28%; 20%) và tỷ lệ người bệnh 
sống phụ thuộc hoàn toàn giảm đi so với trước 
phục hồi chức năng (74%; 50%).
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
63TCNCYH 130 (6) - 2020
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Minh T.H.C. Hội Nghị về Đột Quỵ Khu Vực 
Châu Á Thái Bình Dương. 2014, 2.
2. Krishnamurthi RV and et al. Global and 
regional burden of first - ever ischaemic and 
haemorrhagic stroke during 1990 - 2010: 
findings from the Global Burden of Disease 
Study 2010. Lancet Glob Health. 2013 Nov;1 
(5):e259 - 81. doi: 10.1016/S2214 - 109X 
(13)70089 - 5, accessed 14/5/2020.
3. Banerjee T.K. and Das S.K. Epidemiology of 
stroke in India. Neurology Asia. 2006, 4.
4. Dương Đình Chỉnh và cs. Một số đặc điểm 
dịch tễ học tai biến mạch máu não tại Nghệ An 
(2000 – 2007). Tạp chí Y học thực hành. 2011; 
4 (760), 113 - 116.
5. Béjot Y and et al. Trends in the incidence of 
ischaemic stroke in young adults between 1985 
and 2011: the Dijon Stroke Registry. Neurol 
Neurosurg Psychiatry. 2014 May;85 (5):509 
- 13. doi: 10.1136/jnnp - 2013 - 306203, 
accessed: 14/5/2020.
6. Trần Văn Tuấn và cs. Thực trạng độc lập 
chức năng sinh hoạt hàng ngày sau đột quỵ 
não và hiệu quả can thiệp phục hồi chức năng 
tại nhà ở thành phố Thái Nguyên. Đề tài khoa 
học và công nghệ cấp đại học. Trường Đại học 
Y Dược Thái Nguyên. 2019, 49.
7. Đỗ Văn Liêm và cs. Đánh giá kết quả phục hồi 
chức năng vận động bệnh nhân liệt nửa người 
do tai biến mạch máu não tại BVĐK tỉnh Thanh 
Hóa năm 2013 - 2014. 
com.vn/tin - tuc/bai - viet - chuyen - mon/danh 
- gia - ket - qua - phuc - hoi - chuc - nang - van 
- dong - benh - nhan - liet - nua - nguoi - do - 
tbmmn - tai - bvdk - tinh - thanh - hoa.57.html#.
XsKufGgzY2x, accessed 14/5/2020.
8. Đỗ Mai Huyền. Nghiên cứu một số đặc điểm 
tai biến mạch máu não ở người trên 45 tuổi tại 
khoa thần kinh bệnh viện Bạch Mai từ 1995 - 
1997. Luận văn thạc sỹ Y học, Trường Đại học 
Y Hà Nội. 1998.
9. Trần Văn Chương và cs. Bước đầu nghiên 
cứ một số yếu tố tiên lượng phục hồi vận động 
của bệnh nhân liệt nửa người do tai biến mạch 
máu não. Kỷ yếu công trình nghiên cứu khoa 
học, hội phục hồi chức năng Việt Nam, NXB Y 
học, 1998, 65 - 75.
10. Sánchez - Blanco I. and et al. Predictive 
model of functional independence in stroke 
patients admitted to a rehabilitation programme. 
Clin Rehabil, 1999, 13 (6), 464–475.
11. Nguyễn Thị Nga. Đánh giá kết quả can thiệp 
phục hồi chức năng vận động bằng phương 
pháp Bobath ở người bệnh liệt nửa người sau 
tai biến mạch máu não tại cộng đồng. Luận văn 
thạc sĩ, 2002, 49 - 53.
12. Trần Văn Chương. Nghiên cứu phương 
pháp phục hồi chức năng vận động cho bệnh 
nhân liệt nửa người do tai biến mạch máu não. 
Luận án tiến sỹ y học, Trường Đại học Y Hà 
Nội. 2002.
13. Nguyễn Văn Triệu. Nghiên cứu thực trạng 
bệnh nhân sau tai biến mạch máu não về yếu 
tố liên quan đến khả năng phục hồi, tái hội nhập 
cộng đồng. Luận án tiến sĩ Y học, Trường Đại 
học Y Hà Nội. 2005.
14. Loewen S.C., Anderson BA. Predictation of 
stroke outcome using objective measurement 
scales, Pubmed, 1990 Jan;21 (1): 78 - 81, 
accessed 14/5/2020.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
64 TCNCYH 130 (6) - 2020
Summary
REHABILITATION OUTCOMES OF STROKE PATIENTS 
TREATED AT SON LA PROVINCE HOSPITAL 
OF TRADITIONAL MEDICINE IN 2019
This is a cross-sectional study using available data from medical records of 50 patients with stroke 
undergoing rehabilitation treatment to describe the rehabilitation results. Patients were treated at Son La 
hospital of Traditional Medicine in 2019. The results showed that 56% of patients receiving rehabilitation 
after 15 days admission improved significantly in gross motor skills such as eating, bathing, taking care of 
themselves, getting dressed or climbing the stairs when compared to before the rehabilitation program. 
We concluded that rehabilitation is extremely important to improve the abilities to lead an independent 
life, to reduce the sequelae of cerebrovascular disease, thus enriching the quality of patients lives.
Keywords: Stroke, rehabilitation.

File đính kèm:

  • pdfket_qua_phuc_hoi_chuc_nang_van_dong_cho_nguoi_benh_tai_bien.pdf