Kết quả phẫu thuật thay khớp háng toàn phần với đường mổ bên ngoài trực tiếp tại Bệnh viện Quân Y 103
Có nhiều đường mổ trong phẫu thuật thay khớp háng, mỗi đường mổ đều có
những ưu điểm và nhược điểm riêng. Đường mổ bên ngoài trực tiếp là một trong những
đường mổ phổ biến, tuy nhiên chưa có nhiều nghiên cứu đánh giá đường mổ này trong
thay khớp háng toàn phần.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu mô tả cắt ngang, theo dõi
dọc trên 72 bệnh nhân được phẫu thuật thay khớp háng toàn phần lần đầu với đường
mổ bên ngoài trực tiếp tại Bệnh viện Quân Y 103 từ tháng 01/2012 đến tháng 10/2016
Bạn đang xem tài liệu "Kết quả phẫu thuật thay khớp háng toàn phần với đường mổ bên ngoài trực tiếp tại Bệnh viện Quân Y 103", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Kết quả phẫu thuật thay khớp háng toàn phần với đường mổ bên ngoài trực tiếp tại Bệnh viện Quân Y 103
CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 101 2 Bệnh viện Quân y 103/Học viện Quân y Người phản hồi (Corresponding): Trần Hoài Nam ([email protected]) Ngày nhận bài: 11/8/2018, ngày phản biện: 25/8/2018 Ngày bài báo được đăng: 30/9/2018 KẾT QUẢ PHẪU THUẬT THAY KHỚP HÁNG TOÀN PHẦN VỚI ĐƯỜNG MỔ BÊN NGOÀI TRỰC TIẾP TẠI BỆNH VIỆN QUÂN Y 103 Trần Hoài Nam1, Vũ Nhất Định1 TÓM TẮT Có nhiều đường mổ trong phẫu thuật thay khớp háng, mỗi đường mổ đều có những ưu điểm và nhược điểm riêng. Đường mổ bên ngoài trực tiếp là một trong những đường mổ phổ biến, tuy nhiên chưa có nhiều nghiên cứu đánh giá đường mổ này trong thay khớp háng toàn phần. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu mô tả cắt ngang, theo dõi dọc trên 72 bệnh nhân được phẫu thuật thay khớp háng toàn phần lần đầu với đường mổ bên ngoài trực tiếp tại Bệnh viện Quân Y 103 từ tháng 01/2012 đến tháng 10/2016. Kết quả: tuổi trung bình 53,76 ± 13,31 tuổi (22 - 86 tuổi), tỷ lệ nam/nữ là 8/1. Kích thước vết mổ mổ 9,07 ± 1,29 cm (8 - 13cm), thời gian phẫu thuật 80,04 ± 18,99 phút (45 - 140 phút), lượng máu truyền 479,17± 327,04 ml (250 - 2000ml). 1/72 (1,39%) tai biến vỡ xương đùi, liền vết mổ kỳ đầu 98,61%. Không gặp sai khớp sau mổ. Xquang sau mổ: 100% khớp háng nhân tạo đúng vị trí với góc nghiêng ổ cối trung bình 48,57 ± 5,20 º, chuôi thẳng trục chiếm 76,4%, cân bằng chiều dài chi có 61,1%. Kết quả xa theo thang điểm Harris: 50/54 rất tốt với 39/54 đạt điểm tối đa, 4/54 tốt. Kết luận: đường mổ bên ngoài trực tiếp phù hợp cho thay khớp háng toàn phần, tỷ lệ tai biến biến chứng thấp. Từ khóa: Thay khớp háng bán phần, đường mổ bên ngoài trực tiếp. SUMMARY OUTCOMES OF TOTAL HIP ARTHROPLASTY SURGERY WITH DIRECT LATERAL APPROACH Purpose: There are many approaches in hip replacement, each approach had its own advantages and disadvantages. The direct lateral approach is one of the popular approaches, however it had not many research about this approach in total hip replacement. TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 15 - 9/2018 102 Subject and methods: The crosssectional research, longitudinal following up form in 72 patients were performed total hip arthroplasty with direct lateral approach at 103 Military Hospital from January 2012 to October 2016. Results: The average of age was 53.76 ± 13.31 years (range 22-86 years), the ration of male/female was 8/1. The average of incision length was 9.07 ± 1.29 cm, the average of surgical time was 80.04± 18.99 minutes, the average of blood transfusion was 479.17± 327.04 ml. 1/72 (1,39%) of femoral fracture. The skin heal on the primary period had 98.61%. There was not hip dislocation. X-ray results after surgery accounted for: The average cup inclination angle was 48.57 ± 5.20 º, the neutral position had 76,4%, leg length discrepancy had 61.1%. The early results accord to Harris Hip Score: 50/54 excellent, 4/54 very good. Conclusion: the direct lateral approach was suitable with total hip arthroplasty. Keywords: total hip arthroplasty, direct lateral approach. ĐẶT VẤN ĐỀ Thay khớp háng (TKH) là một trong những kỹ thuật hiện đại trong chuyên ngành chấn thương chỉnh hình. Phẫu thuật thay khớp háng ngày càng phát triển mạnh mẽ trên thế giới cũng như tại Việt Nam. Cùng với sự phát triển của khớp háng nhân tạo là sự phát triển của các đường mổ, từ các đường kinh điển đến các đường mổ cải biên từ chúng. Mỗi đường mổ đều có những ưu điểm và nhược điểm riêng. Sự lựa chọn đường mổ của các phẫu thuật viên dựa trên rất nhiều yếu tố, trong đó 2 yếu tố quan trọng nhất là kinh nghiệm của phẫu thuật viên và kỹ thuật họ được đào tạo. Theo thống kê của nhiều nghiên cứu, có thể chia đường mổ thay khớp háng làm 4 nhóm chính: đường mổ phía sau (54%), đường mổ phía ngoài (37%), đường mổ phía trước và trước ngoài (3%), đường mổ ngoài cắt khối mấu chuyển lớn (1%), ngoài ra là nhóm các đường mổ xâm lấn tối thiểu (5%). Đường mổ bên ngoài trực tiếp được mô tả lần đầu tiên bởi Kocher năm 1902, được phát triển bởi McFacland và Osbone năm 1954, được Hardinge cải biên và phổ biến năm 1982. Tuy nhiên tại Việt Nam, chưa có nhiều báo cáo về kết quả thay khớp háng với đường mổ bên ngoài trực tiếp. Do đó, nghiên cứu này nhằm: Đánh giá kết quả gần phẫu thuật thay khớp háng toàn phần lần đầu với đường mổ bên ngoài trực tiếp và rút ra nhận xét về ưu nhược điểm của đường mổ này. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. Đối tượng nghiên cứu. 72 bệnh nhân (BN) được phẫu thuật thay khớp háng toàn phần với đường mổ bên ngoài trực tiếp tại Bệnh viện Quân y 103 từ tháng 01/2012 đến tháng 10/2016. Tiêu chuẩn lựa chọn: lựa chọn các bệnh nhân được phẫu thuật thay khớp háng toàn phần lần đầu không xi măng với đường mổ bên ngoài trực tiếp tại bệnh viện CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 103 quân y 103 có đầy đủ hồ sơ bệnh án, phim X-Quang trước và sau mổ. Tiêu chuẩn loại trừ: Thay lại khớp háng. Ung thư vùng khớp háng hoặc lao khớp háng. 2. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang không đối chứng, theo dõi dọc. Các bước tiến hành: thu thập hồ sơ bệnh án, phim XQ trước và sau mổ, tái khám. Đánh giá kết quả phẫu thuật dựa vào kích thước vết mổ, thời gian phẫu thuật, lượng máu truyền trong và sau mổ, tai biến trong mổ, thời gian tập vận động, diễn biến lâm sàng sau mổ. Đánh giá chức năng khớp háng dựa vào thang điểm khớp háng của Harris (Harris Hip Score). Số liệu được xử lý trên phần mềm Epi-Info 3.5 và Epical 2000. Phương pháp phẫu thuật: Đường vào khớp: BN nằm nghiêng về bên đối diện. Đường rạch da ở mặt ngoài mấu chuyển lớn theo trục giữa của đầu trên mặt ngoài xương đùi. Rạch cơ căng cân đùi theo đường rạch da. Giải phóng điểm bám cơ mông nhỡ ở đường gian mấu. Mở bao khớp phía trước hình chữ T vào khớp háng (hình 1). Bộc lộ khớp háng với 2 Hohmann ở bờ trước và bờ sau cổ xương đùi. Lấy bỏ chỏm xương đùi bằng dụng cụ chuyên dụng hoặc làm trật khớp (khép, gấp và xoay ngoài đùi), cắt bỏ chỏm ở trên đỉnh mấu chuyển nhỏ 10-12mm. Hình 1: Rạch cơ mông nhỡ và mở bao khớp phía trước Can thiệp vào ổ cối: Cho đùi thẳng, hơi dạng. Đóng 2 đinh Stemann bộc lộ bờ trên ổ cối, dùng van tự động và Farabeuf bộc lộ bờ trước và bờ sau, dùng Hoffman bộc lộ bờ dưới ổ cối. Doa ổ cối từ số nhỏ đến số lớn đến hết lớp sụn, đỉnh của hố dây chằng tròn là giới hạn cuối. Lắp ổ cối nhân tạo bằng với cỡ số doa lớn nhất, nghiêng dạng 450, nghiêng trước 10 - 150, bắt vít cố định ổ cối vào xương chậu, lắp Insert. TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 15 - 9/2018 104 Can thiệp vào đầu trên xương đùi: khép, gấp, xoay ngoài đùi, bộc lộ đầu trên xương đùi (hình 2). Ráp tạo khuôn cho chuôi khớp, lắp chuôi khớp nhân tạo thẳng trục với đầu trên xương đùi. Hình 2: Tư thế chi thể khi làm trật khớp và can thiệp vào đầu trên xương đùi. Nắn chỉnh lại khớp, dẫn lưu khớp, khâu phục hồi lại bao khớp, khâu lại điểm bám của cơ mông nhỡ, khâu cơ căng cân đùi, đóng vết mổ. Sau phẫu thuật, cố định gối duỗi, đùi dạng, xoay trong. Tập ngồi sau phẫu thuật 24 giờ và bắt đầu tập đứng và đi trong phòng sau phẫu thuật 3 ngày. Đánh giá kết quả gần trong 3 tháng đầu sau phẫu thuật dựa vào diễn biến tại vết mổ, thời gian tập vận động. Các tai biến, biến chứng sớm. Đánh giá kết quả xa trên 1 năm sau phẫu thuật dựa vào thang điểm Harris. Rất tốt: 90-100 điểm. Tốt: 80-89 điểm. Trung bình: 70-79 điểm. Kém: <70 điểm. KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN 1. Kết quả phẫu thuật Bảng 1: Kết quả phẫu thuật (n=72) Chỉ tiêu ẍ ± SD Min - Max Kích thước vết mổ (cm) 9,07 ± 1,29 8 - 12 Thời gian phẫu thuật (phút) 80,04 ± 18,99 45 - 140 Lượng máu truyền trong và sau mổ (ml) 479,17 ± 327,04 250 - 2000 Thời gian nằm viện sau mổ (ngày) 8,67 ± 1,73 6 - 16 Thời điểm bắt đầu tập đi sau mổ (ngày) 4,44 ± 2,77 3 - 20 Kết quả Xquang sau mổ: 100% khớp háng nhân tạo đúng vị trí với góc nghiêng ổ cối trung bình là 48,57 ± 5,20 º, chuôi thẳng trục chiếm 76,4%, cân bằng CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 105 chiều dài chi có 61,1%. Tai biến, biến chứng: Trong nghiên cứu của chúng tôi không có trường hợp nào tử vong trong mổ, không có trường hợp nào tổn thương mạch máu, không có trường hợp nào tổn thương thần kinh. Gãy xương đùi : Có 1/72 (1,39%) trường hợp bị tai biến vỡ toác xương vùng mấu chuyển loại II, đường vỡ toác lan xuống chưa vượt đỉnh của chuôi khớp. Chúng tôi cho bệnh nhân tập vận động đi lại chậm hơn bệnh nhân khác, cho bệnh nhân tập đi có tì nén sau 3 tháng. Kết quả kiểm tra sau 1 năm, bệnh nhân đi lại bình thường, không đau. Điểm Harris = 100 điểm. X Quang hình ảnh liền xương. 2. Tai biến vỡ xương đùi Bảng 2: So sánh tỷ lệ tai biến vỡ xương đùi Nghiên cứu Đường mổ Vỡ xương đùi Nghiên cứu của chúng tôi Bên ngoài trực tiếp 1/72 (1,39%) Hendel D [6] Bên ngoài 21/372(6%) Jewett B.A [7] Phía trước 19/800(2,3%) Bộc lộ đầu trên xương đùi không thỏa đáng cũng liên quan đến đường mổ, cưỡng bức trong quá trình mổ có thể dẫn tới gãy xương. Theo chúng tôi, đường mổ càng về phía trước, càng khó bộc lộ đầu trên xương đùi, nên sẽ có nguy cơ gãy vỡ xương khi ráp tạo khuôn cho chuôi khớp hoặc khi đóng chuôi khớp vào ống tủy xương đùi. 3. Sai khớp háng sau mổ: Là biến chứng hàng đầu sau phẫu huật thay khớp háng toàn phần. Theo nghiên cứu của Barrack R.L (2003) [2] tỷ lệ sau khớp háng sau phẫu thuật thay khớp háng toàn phần lần đầu khoảng 0,6 - 7 %. Tổng hợp 16 nghiên cứu lớn với 35894 trường hợp thay khớp háng toàn phần có 804/35894 (2,24%) sai khớp háng sau mổ. Theo Kashif Abbas (2012) [1] trong 19,6% tỷ lệ tai biến và biến chứng sau mổ, thì tỷ lệ biến chứng cao nhất là sai khớp háng với 6,5%. Đường mổ bên ngoài trực tiếp không can thiệp vào bao khớp ở mặt sau khớp háng. Tư thế nghỉ ngơi của khớp háng là tư thế đùi duỗi, tư thế hoạt động chủ yếu của khớp háng là tư thế ở đùi gấp khi bước đi hay ngồi với chỏm xương đùi hướng ra sau. Do đó, với đường mổ bên ngoài trực tiếp, bệnh nhân không hạn sợ hạn chế các động tác chính của đùi, bệnh nhân có thể hoạt động thoải mái với hầu hết các tư thế. Mặt khác, trong hoạt động sinh hoạt bình thường của người Việt Nam, ngồi bắt chéo chân và ngồi xổm là 2 động tác thói quen và nhiều trường hợp là cần thiết trong sinh hoạt và cuộc sống hàng ngày. Đặc biệt với TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 15 - 9/2018 106 tỷ lệ nông thôn ở Việt Nam là chủ yếu, người dân vẫn quen với tư thế ngồi xổm khi đi vệ sinh, thì việc chọn một đường mổ mà các động tác có thể thực hiện sau mổ phù hợp với điều kiện sinh hoạt thì dễ dàng hơn so với thay đổi thói quen và ý thức của một bộ phận người dân. Việc ít ảnh hưởng tới thay đổi độ vững của khớp khi phẫu thuật với đường mổ bên ngoài trực tiếp làm hạn chế sai khớp háng sau mổ. Cụ thể trong nghiên cứu của chúng tôi không gặp trường hợp nào sai khớp háng sau mổ. Những nghiên cứu lớn hơn và có so sánh giữa các đường mổ đã cho thấy rõ điều này. Theo nghiên cứu của Soong M (2004) [10] về sai khớp háng sau phẫu thuật thay khớp háng toàn phần, trong 13203 trường hợp được phẫu thuật, tỷ lệ sai khớp háng liên quan tới đường mổ: có 3,23% sai khớp theo đường mổ phía sau, 2,18% theo đường mổ phía trước, 1,27% sai khớp theo đường mổ cắt mấu chuyển lớn, và chỉ có 0,55% sai khớp với đường mổ bên ngoài trực tiếp. Theo nghiên cứu của Berry D.J (2005) [3] với 21047 khớp háng, trong năm đầu có 2% sai khớp, 3% trong vòng 5 năm, 3,8% trong 10 năm và 6,0% trong 20 năm. Tỷ lệ sau khớp trong 10 năm liên quan tới đường mổ, có 3,1% sai khớp với đường mổ phía trước, 3,4% với đường mổ cắt mấu chuyển lớn và 6,9% với đường mổ phía sau. Theo nghiên cứu của De Geest T (2013) [4] nghiên cứu biến chứng sớm của đường mổ phía trước với 300 ca, có 0,66 % bệnh nhân sai khớp háng sau mổ. Nghiên cứu của Mulliken B.D (1998) [9] trên 770 BN thay khớp háng toàn phần với đường mổ bên ngoài trực tiếp, 0,4% bị sai khớp háng sau mổ. Trong khi đó các báo cáo thay khớp háng với đường mổ phía sau có tỷ lệ sai khớp 3%, đường mổ phía trước 0 - 3,3%. Nghiên cứu của Harwin S. F. (2005) [5] trong 1519 trường hợp được phẫu thuật thay khớp háng toàn phần với đường mổ bên ngoài trực tiếp, chỉ có 0,4% sai khớp háng sau mổ. Như vậy, đường mổ bên ngoài trực tiếp có tỷ lệ sai khớp háng sau mổ thấp hơn các đường mổ khác. 4. Chức năng khớp háng: Có 54/72 (75%) bệnh nhân có thời gian theo dõi xa ≥ 1 năm sau khi được phẫu thuật. Thời gian theo dõi xa trung bình là 26,91 ± 11,51 tháng, bệnh nhân theo dõi được xa nhất là 53 tháng. Nhóm bệnh nhân theo dõi trong vòng 12 - 23 tháng sau phẫu thuật chiếm 44,44%. Có 3 bệnh nhân theo dõi được thời gian sau mổ > 4 năm. Điểm Harris trung bình tại thời điểm kiểm tra là 98,18 ± 3,98 điểm. Trong đó 100% bệnh nhân có chức năng khớp háng tốt và rất tốt (HHS >80 điểm). 50/54 (92,59%) bệnh nhân có chức năng khớp CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 107 háng rất tốt, trong đó 39/54 (72,2%) bệnh nhân có điểm Haris đạt tối đa là 100 điểm, các bệnh nhân này đi lại sinh hoạt bình thường. Điểm Haris thấp nhất là 83 điểm gặp ở 2 bệnh nhân. 5. Về dáng đi sau mổ: Theo Kiss R.M (2012) [8] các đường mổ ảnh hưởng đến cấu trúc khác nhau xung quanh hông nên đặc điểm dáng đi sau phẫu thuật khác nhau và thời gian phục hồi cho dáng đi sau mổ khác nhau. Trong nghiên cứu của chúng tôi, có 47/54 (87%) bệnh nhân có dáng đi bình thường, có 7/54 (13%) có dáng đi khập khiễng do đau khớp háng đối diện hoặc đau khớp gối do thoái hóa khớp tuổi già. Chúng tôi chưa ghi nhận trường hợp nào thay đổi dáng đi do tổn thương thần kinh mông trên hay tổn thương cơ trong quá trình phẫu thuật. KẾT LUẬN Đường mổ có kích thước trung bình 9,07 ± 1,29cm, tương đương với đường mổ nhỏ. Thời gian phẫu thuật trung bình 80,04 ± 18,99 phút, các ca phẫu thuật diễn ra trong thời gian từ 60 phút đến 90 phút chiếm chủ yếu (88,1%). Lượng máu truyền không trung bình 479,17 ± 327,04 ml, phù hợp với phẫu thuật lớn như thay khớp háng toàn phần. 98,61% BN liền vết mổ kỳ đầu, có thể ngồi dậy sau 24 giờ mà không thấy đau nhiều. Thời gian đứng dậy tập đi trung bình là 4,44 ngày, thời gian đi được không cần hỗ trợ là 26 ngày. Ưu, nhược điểm của đường mổ Đường mổ bên ngoài trực tiếp là thích hợp trong TKH nói chung và TKH toàn phần nói riêng Về ưu điểm, bệnh nhân nằm nghiêng nên thuận lợi cho cả người mổ chính và phụ mổ quan sát hình dung các mốc giải phẫu, trong thì bộc lộ vào ổ cối thì việc quan sát và đánh giá ổ cối là rất rõ ràng. Chỉ giải phóng một phần cơ mông nhỡ ở mặt trước khớp háng nên ít làm thay đổi độ vững khớp, do đó làm hạn chế tỷ lệ sai khớp háng sau mổ. Về nhược điểm, khó khăn trong thì chuẩn bị và can thiệp vào đầu trên xương đùi. Một nhược điểm khác của đường mổ bên ngoài trực tiếp được công bố trong các nghiên cứu là khả năng tổn thương thần kinh mông trên chi phối cho nhóm cơ dạng dẫn đến dáng đi Trendelenburg sau mổ. Tuy nhiên chúng tôi không gặp biến chứng này. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Abbas K, Murtaza, G, Umer, M, et al (2012), “Complications of Total Hip Replacement”, Journal of the College of Physicians and Surgeons Pakistan Vol 22, 575-578. 2. Barrack R. L. (2003), “Dislocation after total hip arthroplasty: implant design and orientation”, J Am Acad Orthop Surg, 11(2), 89-99. TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 15 - 9/2018 108 3. Berry D.J, Knoch M.V, Schleck C. D, et al (2005), “Effect of femoral head diameter and operative approach on risk of dislocation after primary total hip arthroplasty”, J Bone Joint Surg Am, 87(11), 2456-2463. 4. De Geest T., Vansintjan P., De Loore G. (2013), “Direct anterior total hip arthroplasty: complications and early outcome in a series of 300 cases”, Acta Orthop Belg, 79(2), 166-173. 5. Harwin S. F. (2005), “Trochanteric heterotopic ossification after total hip arthroplasty performed using a direct lateral approach”, J Arthroplasty, 20(4), 467-472. 6. Hendel D. Yasin M, Garti A., et al. (2002), “Fracture of the greater trochanter during hip replacement: a retrospective analysis of 21/372 cases”, Acta Orthop Scand, 73(3), 295-297. 7. Jewett B. A., Collis D. K. (2011), “High complication rate with anterior total hip arthroplasties on a fracture table”, Clin Orthop Relat Res, 469(2), 503-507. 8. Kiss R. M., Illyes A. (2012), “Comparison of gait parameters in patients following total hip arthroplasty with a direct-lateral or antero-lateral surgical approach”, Hum Mov Sci, 31(5), 1302- 1316. 9. Mulliken B. D, Rorabeck, C. H, Bourne, R. B, et al (1998), “A modified direct lateral approach in total hip arthroplasty: a comprehensive review”, J Arthroplasty, 13(7), 737-747. 10. Soong M, Harry E.R, William, M (2004), “Dislocation After Total Hip Arthroplasty”, Journal of the American Academy of Orthopaedic Surgeons, 12(5), 314-321.
File đính kèm:
ket_qua_phau_thuat_thay_khop_hang_toan_phan_voi_duong_mo_ben.pdf

