Kết quả phẫu thuật thay khớp háng toàn phần với đường mổ bên ngoài trực tiếp tại Bệnh viện Quân Y 103

Có nhiều đường mổ trong phẫu thuật thay khớp háng, mỗi đường mổ đều có

những ưu điểm và nhược điểm riêng. Đường mổ bên ngoài trực tiếp là một trong những

đường mổ phổ biến, tuy nhiên chưa có nhiều nghiên cứu đánh giá đường mổ này trong

thay khớp háng toàn phần.

Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu mô tả cắt ngang, theo dõi

dọc trên 72 bệnh nhân được phẫu thuật thay khớp háng toàn phần lần đầu với đường

mổ bên ngoài trực tiếp tại Bệnh viện Quân Y 103 từ tháng 01/2012 đến tháng 10/2016

pdf 8 trang phuongnguyen 100
Bạn đang xem tài liệu "Kết quả phẫu thuật thay khớp háng toàn phần với đường mổ bên ngoài trực tiếp tại Bệnh viện Quân Y 103", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Kết quả phẫu thuật thay khớp háng toàn phần với đường mổ bên ngoài trực tiếp tại Bệnh viện Quân Y 103

Kết quả phẫu thuật thay khớp háng toàn phần với đường mổ bên ngoài trực tiếp tại Bệnh viện Quân Y 103
CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 
101
2 Bệnh viện Quân y 103/Học viện Quân y
Người phản hồi (Corresponding): Trần Hoài Nam ([email protected])
Ngày nhận bài: 11/8/2018, ngày phản biện: 25/8/2018
Ngày bài báo được đăng: 30/9/2018
KẾT QUẢ PHẪU THUẬT THAY KHỚP HÁNG TOÀN PHẦN 
VỚI ĐƯỜNG MỔ BÊN NGOÀI TRỰC TIẾP 
TẠI BỆNH VIỆN QUÂN Y 103
Trần Hoài Nam1, Vũ Nhất Định1
TÓM TẮT
Có nhiều đường mổ trong phẫu thuật thay khớp háng, mỗi đường mổ đều có 
những ưu điểm và nhược điểm riêng. Đường mổ bên ngoài trực tiếp là một trong những 
đường mổ phổ biến, tuy nhiên chưa có nhiều nghiên cứu đánh giá đường mổ này trong 
thay khớp háng toàn phần.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu mô tả cắt ngang, theo dõi 
dọc trên 72 bệnh nhân được phẫu thuật thay khớp háng toàn phần lần đầu với đường 
mổ bên ngoài trực tiếp tại Bệnh viện Quân Y 103 từ tháng 01/2012 đến tháng 10/2016.
Kết quả: tuổi trung bình 53,76 ± 13,31 tuổi (22 - 86 tuổi), tỷ lệ nam/nữ là 8/1. 
Kích thước vết mổ mổ 9,07 ± 1,29 cm (8 - 13cm), thời gian phẫu thuật 80,04 ± 18,99 
phút (45 - 140 phút), lượng máu truyền 479,17± 327,04 ml (250 - 2000ml). 1/72 (1,39%) 
tai biến vỡ xương đùi, liền vết mổ kỳ đầu 98,61%. Không gặp sai khớp sau mổ.
Xquang sau mổ: 100% khớp háng nhân tạo đúng vị trí với góc nghiêng ổ cối 
trung bình 48,57 ± 5,20 º, chuôi thẳng trục chiếm 76,4%, cân bằng chiều dài chi có 
61,1%.
Kết quả xa theo thang điểm Harris: 50/54 rất tốt với 39/54 đạt điểm tối đa, 4/54 tốt.
Kết luận: đường mổ bên ngoài trực tiếp phù hợp cho thay khớp háng toàn phần, 
tỷ lệ tai biến biến chứng thấp.
Từ khóa: Thay khớp háng bán phần, đường mổ bên ngoài trực tiếp.
SUMMARY
OUTCOMES OF TOTAL HIP ARTHROPLASTY SURGERY WITH 
DIRECT LATERAL APPROACH
Purpose: There are many approaches in hip replacement, each approach 
had its own advantages and disadvantages. The direct lateral approach is one of the 
popular approaches, however it had not many research about this approach in total hip 
replacement.
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 15 - 9/2018 
102
Subject and methods: The crosssectional research, longitudinal following up 
form in 72 patients were performed total hip arthroplasty with direct lateral approach 
at 103 Military Hospital from January 2012 to October 2016. 
Results: The average of age was 53.76 ± 13.31 years (range 22-86 years), the 
ration of male/female was 8/1. The average of incision length was 9.07 ± 1.29 cm, the 
average of surgical time was 80.04± 18.99 minutes, the average of blood transfusion 
was 479.17± 327.04 ml. 1/72 (1,39%) of femoral fracture. The skin heal on the primary 
period had 98.61%. There was not hip dislocation.
X-ray results after surgery accounted for: The average cup inclination angle 
was 48.57 ± 5.20 º, the neutral position had 76,4%, leg length discrepancy had 61.1%.
The early results accord to Harris Hip Score: 50/54 excellent, 4/54 very good.
Conclusion: the direct lateral approach was suitable with total hip arthroplasty.
Keywords: total hip arthroplasty, direct lateral approach.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Thay khớp háng (TKH) là một 
trong những kỹ thuật hiện đại trong chuyên 
ngành chấn thương chỉnh hình. Phẫu thuật 
thay khớp háng ngày càng phát triển mạnh 
mẽ trên thế giới cũng như tại Việt Nam. 
Cùng với sự phát triển của khớp háng nhân 
tạo là sự phát triển của các đường mổ, từ 
các đường kinh điển đến các đường mổ 
cải biên từ chúng. Mỗi đường mổ đều có 
những ưu điểm và nhược điểm riêng. Sự 
lựa chọn đường mổ của các phẫu thuật 
viên dựa trên rất nhiều yếu tố, trong đó 2 
yếu tố quan trọng nhất là kinh nghiệm của 
phẫu thuật viên và kỹ thuật họ được đào 
tạo. Theo thống kê của nhiều nghiên cứu, 
có thể chia đường mổ thay khớp háng làm 
4 nhóm chính: đường mổ phía sau (54%), 
đường mổ phía ngoài (37%), đường mổ 
phía trước và trước ngoài (3%), đường mổ 
ngoài cắt khối mấu chuyển lớn (1%), ngoài 
ra là nhóm các đường mổ xâm lấn tối thiểu 
(5%). Đường mổ bên ngoài trực tiếp được 
mô tả lần đầu tiên bởi Kocher năm 1902, 
được phát triển bởi McFacland và Osbone 
năm 1954, được Hardinge cải biên và phổ 
biến năm 1982. Tuy nhiên tại Việt Nam, 
chưa có nhiều báo cáo về kết quả thay 
khớp háng với đường mổ bên ngoài trực 
tiếp. Do đó, nghiên cứu này nhằm: Đánh 
giá kết quả gần phẫu thuật thay khớp háng 
toàn phần lần đầu với đường mổ bên ngoài 
trực tiếp và rút ra nhận xét về ưu nhược 
điểm của đường mổ này.
 ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu.
72 bệnh nhân (BN) được phẫu 
thuật thay khớp háng toàn phần với đường 
mổ bên ngoài trực tiếp tại Bệnh viện Quân 
y 103 từ tháng 01/2012 đến tháng 10/2016. 
Tiêu chuẩn lựa chọn: lựa chọn 
các bệnh nhân được phẫu thuật thay khớp 
háng toàn phần lần đầu không xi măng với 
đường mổ bên ngoài trực tiếp tại bệnh viện 
CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 
103
quân y 103 có đầy đủ hồ sơ bệnh án, phim 
X-Quang trước và sau mổ.
Tiêu chuẩn loại trừ: Thay lại khớp 
háng. Ung thư vùng khớp háng hoặc lao 
khớp háng. 
2. Phương pháp nghiên cứu: 
Nghiên cứu mô tả cắt ngang không đối 
chứng, theo dõi dọc. 
 Các bước tiến hành: thu thập 
hồ sơ bệnh án, phim XQ trước và sau mổ, 
tái khám. Đánh giá kết quả phẫu thuật dựa 
vào kích thước vết mổ, thời gian phẫu 
thuật, lượng máu truyền trong và sau mổ, 
tai biến trong mổ, thời gian tập vận động, 
diễn biến lâm sàng sau mổ. Đánh giá chức 
năng khớp háng dựa vào thang điểm khớp 
háng của Harris (Harris Hip Score).
Số liệu được xử lý trên phần mềm 
Epi-Info 3.5 và Epical 2000.
Phương pháp phẫu thuật:
Đường vào khớp: BN nằm 
nghiêng về bên đối diện. Đường rạch da ở 
mặt ngoài mấu chuyển lớn theo trục giữa 
của đầu trên mặt ngoài xương đùi. Rạch 
cơ căng cân đùi theo đường rạch da. Giải 
phóng điểm bám cơ mông nhỡ ở đường 
gian mấu. Mở bao khớp phía trước hình 
chữ T vào khớp háng (hình 1). 
Bộc lộ khớp háng với 2 Hohmann 
ở bờ trước và bờ sau cổ xương đùi. Lấy 
bỏ chỏm xương đùi bằng dụng cụ chuyên 
dụng hoặc làm trật khớp (khép, gấp và 
xoay ngoài đùi), cắt bỏ chỏm ở trên đỉnh 
mấu chuyển nhỏ 10-12mm.
Hình 1: Rạch cơ mông nhỡ và mở bao khớp phía trước
 Can thiệp vào ổ cối: Cho đùi 
thẳng, hơi dạng. Đóng 2 đinh Stemann 
bộc lộ bờ trên ổ cối, dùng van tự động và 
Farabeuf bộc lộ bờ trước và bờ sau, dùng 
Hoffman bộc lộ bờ dưới ổ cối. Doa ổ cối từ 
số nhỏ đến số lớn đến hết lớp sụn, đỉnh của 
hố dây chằng tròn là giới hạn cuối. Lắp ổ 
cối nhân tạo bằng với cỡ số doa lớn nhất, 
nghiêng dạng 450, nghiêng trước 10 - 150, 
bắt vít cố định ổ cối vào xương chậu, lắp 
Insert.
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 15 - 9/2018 
104
 Can thiệp vào đầu trên xương 
đùi: khép, gấp, xoay ngoài đùi, bộc lộ đầu 
trên xương đùi (hình 2). Ráp tạo khuôn 
cho chuôi khớp, lắp chuôi khớp nhân tạo 
thẳng trục với đầu trên xương đùi. 
Hình 2: Tư thế chi thể khi làm trật khớp và can thiệp vào đầu trên xương đùi.
Nắn chỉnh lại khớp, dẫn lưu khớp, 
khâu phục hồi lại bao khớp, khâu lại điểm 
bám của cơ mông nhỡ, khâu cơ căng cân 
đùi, đóng vết mổ.
Sau phẫu thuật, cố định gối duỗi, 
đùi dạng, xoay trong. Tập ngồi sau phẫu 
thuật 24 giờ và bắt đầu tập đứng và đi 
trong phòng sau phẫu thuật 3 ngày.
Đánh giá kết quả gần trong 3 tháng 
đầu sau phẫu thuật dựa vào diễn biến tại 
vết mổ, thời gian tập vận động. Các tai 
biến, biến chứng sớm. 
Đánh giá kết quả xa trên 1 năm 
sau phẫu thuật dựa vào thang điểm Harris.
Rất tốt: 90-100 điểm.
Tốt: 80-89 điểm.
Trung bình: 70-79 điểm.
Kém: <70 điểm.
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
1. Kết quả phẫu thuật
Bảng 1: Kết quả phẫu thuật (n=72)
Chỉ tiêu ẍ ± SD Min - Max
Kích thước vết mổ (cm) 9,07 ± 1,29 8 - 12
Thời gian phẫu thuật (phút) 80,04 ± 18,99 45 - 140
Lượng máu truyền trong và sau mổ (ml) 479,17 ± 327,04 250 - 2000
Thời gian nằm viện sau mổ (ngày) 8,67 ± 1,73 6 - 16
Thời điểm bắt đầu tập đi sau mổ (ngày) 4,44 ± 2,77 3 - 20
Kết quả Xquang sau mổ: 100% 
khớp háng nhân tạo đúng vị trí với góc 
nghiêng ổ cối trung bình là 48,57 ± 5,20 º, 
chuôi thẳng trục chiếm 76,4%, cân bằng 
CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 
105
chiều dài chi có 61,1%.
Tai biến, biến chứng:
Trong nghiên cứu của chúng tôi 
không có trường hợp nào tử vong trong 
mổ, không có trường hợp nào tổn thương 
mạch máu, không có trường hợp nào tổn 
thương thần kinh.
Gãy xương đùi : Có 1/72 (1,39%) 
trường hợp bị tai biến vỡ toác xương vùng 
mấu chuyển loại II, đường vỡ toác lan 
xuống chưa vượt đỉnh của chuôi khớp. 
Chúng tôi cho bệnh nhân tập vận động đi 
lại chậm hơn bệnh nhân khác, cho bệnh 
nhân tập đi có tì nén sau 3 tháng. Kết quả 
kiểm tra sau 1 năm, bệnh nhân đi lại bình 
thường, không đau. Điểm Harris = 100 
điểm. X Quang hình ảnh liền xương.
2. Tai biến vỡ xương đùi
Bảng 2: So sánh tỷ lệ tai biến vỡ xương đùi
Nghiên cứu Đường mổ Vỡ xương đùi
Nghiên cứu của chúng tôi Bên ngoài trực tiếp 1/72 (1,39%)
Hendel D [6] Bên ngoài 21/372(6%)
Jewett B.A [7] Phía trước 19/800(2,3%)
Bộc lộ đầu trên xương đùi không 
thỏa đáng cũng liên quan đến đường mổ, 
cưỡng bức trong quá trình mổ có thể dẫn 
tới gãy xương. Theo chúng tôi, đường mổ 
càng về phía trước, càng khó bộc lộ đầu 
trên xương đùi, nên sẽ có nguy cơ gãy vỡ 
xương khi ráp tạo khuôn cho chuôi khớp 
hoặc khi đóng chuôi khớp vào ống tủy 
xương đùi. 
3. Sai khớp háng sau mổ: 
Là biến chứng hàng đầu sau phẫu 
huật thay khớp háng toàn phần. Theo 
nghiên cứu của Barrack R.L (2003) [2] tỷ 
lệ sau khớp háng sau phẫu thuật thay khớp 
háng toàn phần lần đầu khoảng 0,6 - 7 %. 
Tổng hợp 16 nghiên cứu lớn với 35894 
trường hợp thay khớp háng toàn phần có 
804/35894 (2,24%) sai khớp háng sau 
mổ. Theo Kashif Abbas (2012) [1] trong 
19,6% tỷ lệ tai biến và biến chứng sau mổ, 
thì tỷ lệ biến chứng cao nhất là sai khớp 
háng với 6,5%. 
Đường mổ bên ngoài trực tiếp 
không can thiệp vào bao khớp ở mặt sau 
khớp háng. Tư thế nghỉ ngơi của khớp háng 
là tư thế đùi duỗi, tư thế hoạt động chủ yếu 
của khớp háng là tư thế ở đùi gấp khi bước 
đi hay ngồi với chỏm xương đùi hướng ra 
sau. Do đó, với đường mổ bên ngoài trực 
tiếp, bệnh nhân không hạn sợ hạn chế các 
động tác chính của đùi, bệnh nhân có thể 
hoạt động thoải mái với hầu hết các tư thế. 
Mặt khác, trong hoạt động sinh hoạt bình 
thường của người Việt Nam, ngồi bắt chéo 
chân và ngồi xổm là 2 động tác thói quen 
và nhiều trường hợp là cần thiết trong sinh 
hoạt và cuộc sống hàng ngày. Đặc biệt với 
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 15 - 9/2018 
106
tỷ lệ nông thôn ở Việt Nam là chủ yếu, 
người dân vẫn quen với tư thế ngồi xổm 
khi đi vệ sinh, thì việc chọn một đường 
mổ mà các động tác có thể thực hiện sau 
mổ phù hợp với điều kiện sinh hoạt thì dễ 
dàng hơn so với thay đổi thói quen và ý 
thức của một bộ phận người dân.
Việc ít ảnh hưởng tới thay đổi độ 
vững của khớp khi phẫu thuật với đường 
mổ bên ngoài trực tiếp làm hạn chế sai 
khớp háng sau mổ. Cụ thể trong nghiên 
cứu của chúng tôi không gặp trường hợp 
nào sai khớp háng sau mổ. Những nghiên 
cứu lớn hơn và có so sánh giữa các đường 
mổ đã cho thấy rõ điều này.
Theo nghiên cứu của Soong M 
(2004) [10] về sai khớp háng sau phẫu 
thuật thay khớp háng toàn phần, trong 
13203 trường hợp được phẫu thuật, tỷ lệ 
sai khớp háng liên quan tới đường mổ: có 
3,23% sai khớp theo đường mổ phía sau, 
2,18% theo đường mổ phía trước, 1,27% 
sai khớp theo đường mổ cắt mấu chuyển 
lớn, và chỉ có 0,55% sai khớp với đường 
mổ bên ngoài trực tiếp. 
Theo nghiên cứu của Berry D.J 
(2005) [3] với 21047 khớp háng, trong 
năm đầu có 2% sai khớp, 3% trong vòng 
5 năm, 3,8% trong 10 năm và 6,0% trong 
20 năm. Tỷ lệ sau khớp trong 10 năm liên 
quan tới đường mổ, có 3,1% sai khớp với 
đường mổ phía trước, 3,4% với đường mổ 
cắt mấu chuyển lớn và 6,9% với đường mổ 
phía sau. 
Theo nghiên cứu của De Geest T 
(2013) [4] nghiên cứu biến chứng sớm của 
đường mổ phía trước với 300 ca, có 0,66 
% bệnh nhân sai khớp háng sau mổ.
Nghiên cứu của Mulliken B.D 
(1998) [9] trên 770 BN thay khớp háng 
toàn phần với đường mổ bên ngoài trực 
tiếp, 0,4% bị sai khớp háng sau mổ. Trong 
khi đó các báo cáo thay khớp háng với 
đường mổ phía sau có tỷ lệ sai khớp 3%, 
đường mổ phía trước 0 - 3,3%. 
Nghiên cứu của Harwin S. F. 
(2005) [5] trong 1519 trường hợp được 
phẫu thuật thay khớp háng toàn phần với 
đường mổ bên ngoài trực tiếp, chỉ có 0,4% 
sai khớp háng sau mổ.
Như vậy, đường mổ bên ngoài trực 
tiếp có tỷ lệ sai khớp háng sau mổ thấp hơn 
các đường mổ khác.
4. Chức năng khớp háng:
Có 54/72 (75%) bệnh nhân có thời 
gian theo dõi xa ≥ 1 năm sau khi được phẫu 
thuật. Thời gian theo dõi xa trung bình là 
26,91 ± 11,51 tháng, bệnh nhân theo dõi 
được xa nhất là 53 tháng. Nhóm bệnh nhân 
theo dõi trong vòng 12 - 23 tháng sau phẫu 
thuật chiếm 44,44%. Có 3 bệnh nhân theo 
dõi được thời gian sau mổ > 4 năm.
Điểm Harris trung bình tại thời 
điểm kiểm tra là 98,18 ± 3,98 điểm. Trong 
đó 100% bệnh nhân có chức năng khớp 
háng tốt và rất tốt (HHS >80 điểm). 50/54 
(92,59%) bệnh nhân có chức năng khớp 
CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 
107
háng rất tốt, trong đó 39/54 (72,2%) bệnh 
nhân có điểm Haris đạt tối đa là 100 điểm, 
các bệnh nhân này đi lại sinh hoạt bình 
thường. Điểm Haris thấp nhất là 83 điểm 
gặp ở 2 bệnh nhân.
5. Về dáng đi sau mổ: Theo Kiss 
R.M (2012) [8] các đường mổ ảnh hưởng 
đến cấu trúc khác nhau xung quanh hông 
nên đặc điểm dáng đi sau phẫu thuật khác 
nhau và thời gian phục hồi cho dáng đi 
sau mổ khác nhau. Trong nghiên cứu của 
chúng tôi, có 47/54 (87%) bệnh nhân có 
dáng đi bình thường, có 7/54 (13%) có 
dáng đi khập khiễng do đau khớp háng đối 
diện hoặc đau khớp gối do thoái hóa khớp 
tuổi già. Chúng tôi chưa ghi nhận trường 
hợp nào thay đổi dáng đi do tổn thương 
thần kinh mông trên hay tổn thương cơ 
trong quá trình phẫu thuật.
 KẾT LUẬN
Đường mổ có kích thước trung 
bình 9,07 ± 1,29cm, tương đương với 
đường mổ nhỏ. Thời gian phẫu thuật trung 
bình 80,04 ± 18,99 phút, các ca phẫu thuật 
diễn ra trong thời gian từ 60 phút đến 90 
phút chiếm chủ yếu (88,1%). Lượng máu 
truyền không trung bình 479,17 ± 327,04 
ml, phù hợp với phẫu thuật lớn như thay 
khớp háng toàn phần.
98,61% BN liền vết mổ kỳ đầu, 
có thể ngồi dậy sau 24 giờ mà không thấy 
đau nhiều. Thời gian đứng dậy tập đi trung 
bình là 4,44 ngày, thời gian đi được không 
cần hỗ trợ là 26 ngày. 
Ưu, nhược điểm của đường mổ
Đường mổ bên ngoài trực tiếp là 
thích hợp trong TKH nói chung và TKH 
toàn phần nói riêng
Về ưu điểm, bệnh nhân nằm 
nghiêng nên thuận lợi cho cả người mổ 
chính và phụ mổ quan sát hình dung các 
mốc giải phẫu, trong thì bộc lộ vào ổ cối 
thì việc quan sát và đánh giá ổ cối là rất rõ 
ràng. Chỉ giải phóng một phần cơ mông 
nhỡ ở mặt trước khớp háng nên ít làm thay 
đổi độ vững khớp, do đó làm hạn chế tỷ lệ 
sai khớp háng sau mổ.
 Về nhược điểm, khó khăn trong 
thì chuẩn bị và can thiệp vào đầu trên xương 
đùi. Một nhược điểm khác của đường mổ 
bên ngoài trực tiếp được công bố trong các 
nghiên cứu là khả năng tổn thương thần 
kinh mông trên chi phối cho nhóm cơ 
dạng dẫn đến dáng đi Trendelenburg sau 
mổ. Tuy nhiên chúng tôi không gặp biến 
chứng này.
 TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Abbas K, Murtaza, G, Umer, 
M, et al (2012), “Complications of Total 
Hip Replacement”, Journal of the College 
of Physicians and Surgeons Pakistan Vol 
22, 575-578.
2. Barrack R. L. (2003), 
“Dislocation after total hip arthroplasty: 
implant design and orientation”, J Am 
Acad Orthop Surg, 11(2), 89-99.
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 15 - 9/2018 
108
3. Berry D.J, Knoch M.V, 
Schleck C. D, et al (2005), “Effect of 
femoral head diameter and operative 
approach on risk of dislocation after 
primary total hip arthroplasty”, J Bone 
Joint Surg Am, 87(11), 2456-2463.
4. De Geest T., Vansintjan P., 
De Loore G. (2013), “Direct anterior total 
hip arthroplasty: complications and early 
outcome in a series of 300 cases”, Acta 
Orthop Belg, 79(2), 166-173.
5. Harwin S. F. (2005), 
“Trochanteric heterotopic ossification 
after total hip arthroplasty performed using 
a direct lateral approach”, J Arthroplasty, 
20(4), 467-472.
6. Hendel D. Yasin M, Garti 
A., et al. (2002), “Fracture of the greater 
trochanter during hip replacement: a 
retrospective analysis of 21/372 cases”, 
Acta Orthop Scand, 73(3), 295-297.
7. Jewett B. A., Collis D. K. 
(2011), “High complication rate with 
anterior total hip arthroplasties on a 
fracture table”, Clin Orthop Relat Res, 
469(2), 503-507.
8. Kiss R. M., Illyes A. (2012), 
“Comparison of gait parameters in patients 
following total hip arthroplasty with a 
direct-lateral or antero-lateral surgical 
approach”, Hum Mov Sci, 31(5), 1302-
1316.
9. Mulliken B. D, Rorabeck, C. 
H, Bourne, R. B, et al (1998), “A modified 
direct lateral approach in total hip 
arthroplasty: a comprehensive review”, J 
Arthroplasty, 13(7), 737-747.
10. Soong M, Harry E.R, 
William, M (2004), “Dislocation After 
Total Hip Arthroplasty”, Journal of the 
American Academy of Orthopaedic 
Surgeons, 12(5), 314-321.

File đính kèm:

  • pdfket_qua_phau_thuat_thay_khop_hang_toan_phan_voi_duong_mo_ben.pdf