Kết quả phẫu thuật nội soi ngực phải điều trị ung thư thực quản tại Bệnh viện Ung bướu Nghệ An
Đặt vấn đề: Phẫu thuật điều trị ung thư thực quản có tỉ lệ biến chứng cao ngay cả ở những trung tâm
chuyên sâu. Với sự tiến bộ của phẫu thuật nội soi, phẫu thuật nội soi đã và đang được áp dụng thành công
trong điều trị ung thư thực quản.
Mục tiêu: Đánh giá tính khả thi, kết quả phẫu thuật nội soi ngực phải điều trị ung thư thực quản tại Bệnh
viện Ung Bướu Nghệ An.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Trong thời gian từ 1/2015 tới tháng 5/2019, tại Bệnh viện
Ung Bướu Nghệ An chúng tôi đã thực hiện cắt thực quản nội soi ngực phải cho 31 trường hợp ung thư thực
quản 2/3 dưới. Tuổi bệnh nhân trung bình là 53,4 (từ 40 tới 73). Vị trí ung thư 1/3 giữa: 18 ca, 1/3 dưới: 13 ca.
Chúng tôi thực hiện qua nội soi đường ngực và qua đường bụng: 4 ca. Thực quản và dạ dày được lấy qua một
đường rạch nhỏ mũi ức. Dạ dày được tạo hình đưa qua trung thất sau lên cổ và nối với thực quản đoạn cổ.
Dẫn lưu khoang màng phổi phải và mở thông hỗng tràng nuôi ăn được thực hiện ở tất cả các trường hợp.
Kết quả: 18 trường hợp u nằm 1/3 giữa (58,1%), 13 u ở 1/3 dưới (41,9%). Thời gian mổ trung bình 246,9
phút. Không có trường hợp nào tử vong. Biến chứng 6 trường hợp: 1 trường hợp chảy máu sau mổ được phẫu
thuật lại, 1 trường hợp áp xe phổi sau mổ, 3 trường hợp rò miệng nối thực quản dạ dày ở cổ được điều trị bảo
tồn, 1 trường hợp hẹp miệng nối điều trị bằng nong. Số ngày nằm viện trung bình 9,6 ngày.
Kết luận: Cắt thực quản nội soi ngực phải là kỹ thuật tương đối an toàn, hiệu quả và có thể sử dụng
thường qui trong điều trị ung thư thực quản
Tóm tắt nội dung tài liệu: Kết quả phẫu thuật nội soi ngực phải điều trị ung thư thực quản tại Bệnh viện Ung bướu Nghệ An
PHỔI - LỒNG NGỰC TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 169 KẾT QUẢ PHẪU THUẬT NỘI SOI NGỰC PHẢI ĐIỀU TRỊ UNG THƯ THỰC QUẢN TẠI BỆNH VIỆN UNG BƯỚU NGHỆ AN NGUYỄN QUANG TRUNG1, NGUYỄN ĐÌNH HIẾU2 TÓM TẮT Đặt vấn đề: Phẫu thuật điều trị ung thư thực quản có tỉ lệ biến chứng cao ngay cả ở những trung tâm chuyên sâu. Với sự tiến bộ của phẫu thuật nội soi, phẫu thuật nội soi đã và đang được áp dụng thành công trong điều trị ung thư thực quản. Mục tiêu: Đánh giá tính khả thi, kết quả phẫu thuật nội soi ngực phải điều trị ung thư thực quản tại Bệnh viện Ung Bướu Nghệ An. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Trong thời gian từ 1/2015 tới tháng 5/2019, tại Bệnh viện Ung Bướu Nghệ An chúng tôi đã thực hiện cắt thực quản nội soi ngực phải cho 31 trường hợp ung thư thực quản 2/3 dưới. Tuổi bệnh nhân trung bình là 53,4 (từ 40 tới 73). Vị trí ung thư 1/3 giữa: 18 ca, 1/3 dưới: 13 ca. Chúng tôi thực hiện qua nội soi đường ngực và qua đường bụng: 4 ca. Thực quản và dạ dày được lấy qua một đường rạch nhỏ mũi ức. Dạ dày được tạo hình đưa qua trung thất sau lên cổ và nối với thực quản đoạn cổ. Dẫn lưu khoang màng phổi phải và mở thông hỗng tràng nuôi ĕn được thực hiện ở tất cả các trường hợp. Kết quả: 18 trường hợp u nằm 1/3 giữa (58,1%), 13 u ở 1/3 dưới (41,9%). Thời gian mổ trung bình 246,9 phút. Không có trường hợp nào tử vong. Biến chứng 6 trường hợp: 1 trường hợp chảy máu sau mổ được phẫu thuật lại, 1 trường hợp áp xe phổi sau mổ, 3 trường hợp rò miệng nối thực quản dạ dày ở cổ được điều trị bảo tồn, 1 trường hợp hẹp miệng nối điều trị bằng nong. Số ngày nằm viện trung bình 9,6 ngày. Kết luận: Cắt thực quản nội soi ngực phải là kỹ thuật tương đối an toàn, hiệu quả và có thể sử dụng thường qui trong điều trị ung thư thực quản. Từ khóa: Cắt thực quản nội soi ngực phải, ung thư thực quản. ABSTRACT The endoscopic surgery results of right thoracoscopy in esophageal cancer treatment at Nghe An Oncology Hospital Objective: To evaluate the ability and the endoscopic surgery results of right thoracospy in esophageal cancer treatment at Nghe An Oncology Hospital. Methods: From 1/2015 to 5/2019, we have performed 31 cases of eosophagectomy right thoracoscopy and laparoscopy for treatment of the middle and lower third esophageal cancer in Nghe An Oncology Hospital. Average patient ages was 53,4 (range, 40 to 73). Tumors located in the middle third of esophagus 18 cases, lower third 13 cases. The esophagus was mobilized via right thorax thoracoscopy and mediastinal lymph nodes dissection was done. The esophageal reconstruction by gastric tube and dissection of lymph nodes around cardia were done by laparoscopy. The gastric tube was then introduced through the posterior mediastinum to the cervical level to anastomose with the cervical eosophage. Jejunostomy and right chest tube was done in all cases. Results: Tumors located in the mid third in 18 cases (58,1%), lower third in 13 cases (41,9%). Mean operative time was 246,9 minutes. Complications occurred in 6 cases: 1 pneumonia, 3 cervical anastomotic leak which had been managed conservatively, 1 anastomotic stenosis required dilation. Mean hospital stay was 9.6 days. Conclusions: Right thoracoscopic esophagectomy appears to be a safe, effective option and could be used routinely in management of esophageal cancer. Keywords: Right thoracoscopic esophagectomy, esophageal cancer. 1 TS.BS. Giám đốc Bệnh viện Ung Bướu Nghệ An 2 ThS.BS. Trưởng Khoa Ngoại Tổng hợp - Bệnh viện Ung Bướu Nghệ An PHỔI - LỒNG NGỰC TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 170 ĐẶT VẤN ĐỀ Ung thư thực quản (UTTQ) là bệnh lý ác tính thường gặp của hệ tiêu hóa, chẩn đoán UTTQ không khó nhưng đa số bệnh được phát hiện thường ở giai đoạn muộn, vì vậy việc phát hiện bệnh sớm để điều trị triệt cĕn là rất quan trọng[1]. Điều trị UTTQ là một vấn đề khó khĕn, phức tạp, phải điều trị đa mô thức với sự phối hợp đồng bộ của nhiều chuyên khoa, trong đó phẫu thuật là lựa chọn được ưu tiên hàng đầu[2]. Hiện nay, UTTQ vẫn là bệnh lý có tiên lượng kém và bệnh nhân thường đến muộn nên khả nĕng cắt bỏ triệt cĕn khối u chưa đến 1/3 các trường hợp. Phẫu thuật cắt bỏ thực quản là một phương pháp can thiệp ngoại khoa nặng nề, có tỷ lệ biến chứng và tử vong cao (6-7%)[3,4]. Do đó, sự phát triển phẫu thuật nội soi dường như mang đến một giải pháp hợp lý nhằm khắc phục những nhược điểm của phẫu thuật mở kinh điển. Ngoài những ưu điểm không thể phủ nhận được của phẫu thuật nội soi như tính thẩm mỹ, hồi phục nhanh, ít đau, giảm thiểu biến chứng... thì các vần đề rất được quan tâm đối với UTTQ là khả nĕng cắt bỏ triệt cĕn tổn thương và nạo vét hạch. Bởi vì nhiều nghiên cứu cho thấy đây là hai yếu tố có ý nghĩa giúp cải thiện thời gian sống thêm sau mổ[3,4,5]. Một số nghiên cứu đã thông báo cắt thực quản nội soi ngực phải có thể cải thiện được thời gian mổ, giảm biến chứng hô hấp, bộc lộ tổn thương tốt hơn và cho phép thao tác phẫu thuật thuận lợi hơn[3,5,6]. Tại Bệnh viện Ung Bướu Nghệ An, phẫu thuật cắt thực quản nội soi ngực phải đã được áp dụng điều trị cho 31 bệnh nhân UTTQ. Mục tiêu đề tài - Đánh giá tai biến, biến chứng sớm của phẫu thuật cắt thực quản nội soi ngực phải. - Đánh giá kết quả phẫu thuật cắt thực quản nội soi ngực phải điều trị bệnh lý UTTQ. ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Phương pháp nghiên cứu Nghiên cứu theo phương pháp mô tả, cắt ngang. Đối tượng nghiên cứu 31 bệnh nhân nam UTTQ được phẫu thuật cắt thực quản nội soi ngực phải tại Bệnh viện Ung Bướu Nghệ An từ 1/2015 - 5/2019, độ tuổi trung bình 56,8 (40 - 73 tuổi). Thu thập và xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 20.0. Tiêu chuẩn lựa chọn Bệnh nhân UTTQ được phẫu thuật nội soi cắt thực quản đường ngực phải. U ở giai đoạn T1- T3, không có di cĕn xa. Có kết quả GPB trước mổ là carcinoma tế bào vảy hoặc carcinoma tuyến. Tiêu chuẩn loại trừ U giai đoạn T4, có di cĕn xa. Có tiền sử điều trị dày dính màng phổi phải, phẫu thuật mở vùng ngực phải. Kỹ thuật mổ nội soi ngực phải Vô cảm: Bệnh nhân được gây mê NKQ với ống Carlène thông khí một phổi trái. Thì ngực: + Bệnh nhân nằm sấp, nghiêng trái. + Vị trí trocar: Chúng tối thường sử dụng 3 trocar: trocar 10mm đầu tiên đặt ở KLS 4 - 5 đường nách giữa để đưa camera, 1 trocar 10mm thứ 2 đặt ở KLS 7 - 8 đường nách giữa, 1 trocar 5mm đặt KLS 8-9 đường nách sau để đưa dụng cụ vào thao tác (hình 1). Hình 1. Tư thế bệnh nhân thì ngực + Đưa camera vào quan sát đánh giá toàn bộ khoang lồng ngực phải, đánh giá vị trí, kích thước khối u và sự xâm lẫn của khối u đối với các tạng lân cận. Phẫu tích toàn bộ thực quản bắt đầu từ màng phổi trung thất che phủ thực quản, cắt dây chằng phổi dưới (nếu có), quai tĩnh mạch đơn (quai tĩnh mạch Azygos), nạo vét hạch trung thất thành một khối, đặt 1 dẫn lưu khoang màng phổi phải và nở phổi phải. Thì bụng: Trước đây, chúng tôi thường phẫu thuật mở để giải phóng, tạo hình dạ dày, nạo vét hạch bụng, tuy nhiên thời gian gần đây chúng tôi chuyển sang phẫu thuật nội soi hoàn toàn thì bụng : + Bệnh nhân nằm ngửa, hai chân dạng, đặt lại ống nội khí quản thường. PHỔI - LỒNG NGỰC TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 171 + Vị trí và số lượng trocar: 2 trocar 10mm đặt ở rốn (camera) và ngang rốn trên đường giữa đòn phải (phẫu tích), 2 trocar 5mm đặt lần lượt ở dưới sườn phải trên đường giữa đoàn phải (cầm nắm) và dưới ức (vén gan) (hình 2). Hình 2. Tư thế bệnh nhân nội soi thì bụng + Tạo hình ống dạ dày: Bắt đầu từ giải phóng bờ cong lớn bảo tồn vòng mạch bờ cong lớn, thắt và cắt động mạch vị trái cùng nạo hạch từ tâm vị, bờ cong nhỏ dạ dày, nhóm động mạch gan, vị trái, động mạch lách qua nội soi bụng. Mở nhỏ mũi ức 4 - 5cm, tạo hình ống dạ dày ngoài ổ bụng. Mở thông hỗng tràng nuôi ĕn. Thì cổ: Bộc lộ thực quản cổ qua đường mở cổ trái bờ trước cơ ức đòn chũm, đưa ống dạ dày lên qua trung thất sau nối với thực quản cổ. Đánh giá kết quả với các thông số: thời gian mổ, lượng máu mất - truyền trong mổ, số hạch nạo được trong mổ, tai biến trong mổ, biến chứng sau mổ, thời gian nằm viện sau mổ. Các chỉ tiêu nghiên cứu Đặc điểm đối tượng nghiên cứu: tuổi, giới Một số chỉ tiêu về lâm sàng và cận lâm sàng. Đặc điểm tổn thương GPB: vị trí u, giai đoạn khối u, type mô bệnh học. Kết quả phẫu thuật: thời gian mổ, tai biến trong mổ, biến chứng sau mổ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Trong giai đoạn từ 1/2015 đến 5/2019 chúng tôi đã thực hiện 31 trường hợp nam giới cắt thực quản nội soi ngực phải, trong đó có 26 trường hợp đầu tiên thực hiện mở bụng ngay từ đầu, từ trường hợp thứ 27 chúng tôi thực hiện nội soi 2 thì ngực- bụng từ đầu. Tuổi trung bình là 53,4 ± 7,6, thấp nhất là 40 tuổi, cao nhất 73 tuổi. Ung thư biểu mô vảy chiếm đa số với 22/31 (70,9%), ung thư biểu mô tuyến 9/31 (29,1%). Bảng 1. Triệu chứng lâm sàng Nuốt nghẹn 31 100 Sút cân 14 41,1 Đau sau xương ức 4 12,9 Nôn ra máu 0 0 Bảng 2. Hình ảnh nội soi U sùi 18 58,1 Loét thâm nhiễm 9 29,1 Chít hẹp 4 12,8 Bảng 3. Đặc điểm khối U K thực quản 1/3 giữa 18 58,1 K thực quản 1/3 dưới 13 41,9 T1 2 6,4 T2 7 22,5 T3 18 58,1 T4 4 13 N0 17 54,8 N1 6 19,4 N2 8 25,8 Bảng 4. Phẫu thuật Hạch trung thất 3,7 Hạch bụng 5,2 Lượng máu mất trung bình 46ml Thời gian mổ trung bình (phút) 246,9 Bảng 5. Tai biến - biến chứng Tổn thương ống ngực 1 3,2 Chảy máu sau mổ 1 3,2 Áp xe phổi sau mổ 1 3,2 Xì miệng nối ở cổ 3 9,6 Khàn tiếng 3 9,6 Hẹp miệng nối cổ sau mổ 1 3,2 Tổn thương khí phế quản 0 0 Tử vong 0 0 PHỔI - LỒNG NGỰC TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 172 Thời gian nằm viện trung bình: 9,6 ± 4,3 (7- 26 ngày). Mổ lại: 02 trường hợp (6,4%). Tử vong: 0 trường hợp. BÀN LUẬN Trong thời gian 1/2015 - 5/2019 chúng tôi thực hiện 31 ca mổ cắt thực quản nội soi ngực phải. Phẫu thuật xâm hại tối thiểu cắt thực quản đã bắt đầu được thực hiện từ nĕm 1992[7], kể từ đó, phẫu thuật này không ngừng phát triển và đã được sử dụng ở hầu hết các trung tâm phẫu thuật lớn trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Phẫu thuật cắt bỏ thực quản với 3 đường mổ (cổ, ngực và bụng) điều trị UTTQ nhìn chung được chấp nhận là triệt để, nhưng là một can thiệp ngoại khoa nặng nề với tỷ lệ biến chứng và tử vong khá cao. Đặc biệt cắt thực quản mở ngực với các biến chứng hô hấp, đau, hạn chế hô hấp do cắt rạch lớn cơ thành ngực hay khó khĕn thao tác do phẫu trường hạn chế là những vấn đề được quan tâm và đây chính là lí do mà phẫu thuật nội soi ngực - bụng cắt thực quản được lựa chọn thay thế ưu việt hơn, cho phép khắc phục được những nhược điểm trên[1,3,6]. Hiện tại chúng tôi đang triển khai phẫu thuật cắt thực quản nội soi 2 thì ngực và thì bụng, lúc đó, việc phẫu tích giải phóng, tạo hình dạ dày kèm nạo vét hạch ổ bụng sẽ được thực hiện hoàn toàn qua nội soi. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi Thời gian mổ: Thời gian mổ trung bình của chúng tôi 246,9 ± 15 phút, nhanh nhất 168 phút, chậm nhất 285 phút. Ở những ca đầu tiên tự triển khai phẫu thuật còn nhiều bỡ ngỡ nên mất nhiều thời gian, càng về sau khi đã thực hiện kỹ thuật được hoàn thiện, các thao tác được nhanh gọn hơn nên thời gian phẫu thuât được rút ngắn đáng kể, kết quả này gần tương đồng với một số tác giả: Triệu Triều Dương là 210 phút[8], Phạm Đức Huấn 227 phút[9]. Trong mổ, chúng tôi gặp 1 trường hợp tổn thương ống ngực được phát hiện trong mổ nhờ kiểm tra lại ống ngực sau khi nạo vét hạch xung quanh thực quản và được xử lý bằng kẹp clip qua nội soi, sau mổ trường hợp này không có rò dưỡng chấp, không có trường hợp nào tổn thương khí phế quản, chảy máu trong mổ hay phải chuyển mổ mở. Biến chứng sau mổ: Tỷ lệ biến chứng chung sau mổ 32,2%, trong đó: + Chảy máu sau mổ: Có 1 trường hợp chảy máu sau mổ 10 tiếng, đây là bệnh nhân thứ 8 trong 31 bệnh nhân. Sau mổ bệnh nhân có máu không đông chảy qua dẫn lưu nhỏ ổ bụng, số lượng tĕng dần, xét nghiệm lại công thức máu cấp cứu sau ml: Số lượng hồng cầu giảm 3,2T/L, hyết sắc tố 88G/L, bệnh nhân được chuyền 500ml khối hồng cầu, theo dõi dẫn lưu ổ bụng thì lượng máu giảm dần. Tuy nhiên sau đó bệnh nhân có tụt huyết áp, kiểm tra lại dẫn lưu ổ bụng thì dẫn lưu bị tắc do máu cục. Bệnh nhân được mở bụng kiểm tra có 1 nhánh động mạch phía bờ cong nhỏ dạ dày đang chảy máu thành tia, nguyên nhân được xác định là do dùng stapler tạo hình dạ dày không cầm được mạch máu, mặc dù bệnh nhân này đã được khâu tĕng cường bằng chỉ vincryl 4.0. Bệnh nhân được cầm máu và ổn định, ra viện ngày 10 sau mổ. + Áp xe màng phổi phải: Đây là bệnh nhân thứ 27 (bệnh nhân đầu tiên được thực hiện nội soi 2 thì ngực- bụng, sau mổ 4 ngày có xuất hiện sốt cao 39ºC, khó thở, vùng cổ phải sưng nề, tách mép vết mổ vùng cổ có mùi hôi thối, chụp CLVT ngực thì toàn bộ nhu mô phổi phải bị xẹp hoàn toàn, khoang màng phổi chứa các ổ hốc dịch có nhiều vách ngĕn dày. Bệnh nhân được phẫu thuật nội soi lồng ngực phải cấp cứu, khi nội soi toàn bộ khoang màng phổi chứa đầy dịch mủ đặc, có nhiều hốc, giả mạc bám dày vào màng phổi, dẫn lưu màng phổi bị tắc, xử trí: bơm rửa làm sạch khoang màng phổi, lấy hết giả mạc, đặt thêm 01 dẫn lưu màng phổi để bơm rửa hàng ngày. Nguyên nhân được xác định do đặt 2 dẫn lưu vùng cổ quá sâu xuống trung thất, làm dịch vùng cổ chảy xuống màng phổi phải gây áp xe, đây cũng là bệnh nhân nằm viện sau mổ dài ngày nhất 26 ngày. + Khàn tiếng sau mổ: Có 3 trường hợp, trong đó có 1 trường hợp khàn nặng sau mổ, được hướng dẫn tập nói trước khi ra viện, sau 02 tuần hẹn tái khám chỉ còn khàn nhẹ, 2 trường hợp khàn nhẹ và nói lại được bình thường khi ra viện. + Xì miệng nối thực quản cổ: Đây cũng là biến chứng thường gặp, tỉ lệ dao động 10%. Tỷ lệ rò miệng nối thực quản cổ của các tác giả khác từ 2,3 - 11%[2,3,9]. Theo Luketich[9], nguyên nhân làm tĕng tỉ lệ xì thực quản cổ: ống dạ dày không đủ dài gây cĕng miệng nối, miệng nối thực hiện ở phần dạ dày thiếu máu nuôi, phẫu thuật bầm dập và tụ máu dạ dày, kinh nghiệm khâu nối, chúng tôi gặp 3 trường hợp xì miệng nối là các bệnh nhân bước đầu thực hiện phẫu thuật, khi chưa có nhiều kinh nghiệm tạo hình dạ dày và khâu nối, từ bệnh nhân thức 12 về sau khi có kinh nghiệm trong tạo hình ống dạ dày, khâu nối thì không còn xì rò thực quản cổ. 3 trường hợp này được điều trị nội khoa bảo tồn bằng hút liên tục và nuôi dưỡng qua thông hỗng tràng, không phải phẫu thuật lại. + Hẹp miệng nối thực quản cổ: đây cũng là biến chứng thường gặp, giao động 25% theo y vĕn, PHỔI - LỒNG NGỰC TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 173 chúng tôi gặp 1 trường hợp hẹp miệng nối sau mổ 1 tháng, được nong miệng nối qua nội soi ổn định. Kết quả điều trị phẫu thuật của chúng tôi ban đầu có thể chấp nhận được so với những nghiên cứu đã được tổng hợp trong y vĕn. Tác giả Số BN Thời gian mổ (giờ) Ngày nằm viện Rò dưỡng chấp Rò miệng nối Viêm phổi Tử vong Smithers (2001) 153 299 12 2,4 4 - 8 Nguyen NT (2003) 46 350 8 - 4,3 23,9 4,3 Luketich (2003) 222 330 7 3,9 11,7 7,7 1,4 Puntambekar (2010) 112 185 7,6 0 2,7 7,1 2,7 P.Đ.Huấn (2006) 152 327 11,8 4,6 2,3 14,8 0,7 Chúng tôi 31 246,9 9,6 0 9,6 0 0 KẾT LUẬN Phẫu thuật cắt thực quản là một phẫu thuật lớn, phức tạp nhưng nếu cơ sở điều trị có đội ngũ phẫu thuật viên có kinh nghiệm về phẫu thuật tiêu hóa, kỹ nĕng phẫu thuật nội soi, được trang bị đầy đủ các thiết bị phẫu thuật nội soi, kết hợp việc chuẩn bị bệnh nhân tốt thì vẫn có thể tiến hành thực hiện phẫu thuật cắt thực quản nội soi tại các bệnh viện tuyến tỉnh với tỷ lệ tai biến, biến chứng có thể chấp nhận được. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ermanno Ancona Volker Budach, Gemma Gatta et al (2009), Esophageal cancer, Start Oncology in Europe,7th Edition,pp1 - 2. 2. Lâm Việt Trung, Nguyễn Minh Hải, Võ Tấn Long và cộng sự (2012), Đánh giá tính khả thi, an toàn và kết quả ngắn hạn trong phẫu thuật nội soi điều trị UTTQ, Phẫu thuật nội soi, tập 2, số 1, tr. 48 - 52. 3. Mehran RJ (2008): “Minimally Invasive Surgical Treatment of Esophageal Carcinoma”, Gastrointest Cancer Res, 2: 283 - 286. 4. Scheepers JJG (2007): “Thoracoscopic resection for esophageal cancer: A review of literature”, J Minim Access Surg, 3(4): 149 - 160. 5. Akiyama H (1994): “Radical Lymph Node Dissection for Cancer of the Thoracic Esophagus”, Annals of Surg, 220 (3): 364 - 373. 6. Herbella FA (2010): “Minimally invasive esophagectomy”, World J Gastroenterol,16 (30): 3811 - 3815. 7. Nguyen NT (2003): “Thoracoscopic and Laparoscopic Esophagectomy for Benign and Malignant Disease: Lessons Learned from 46 Consecutive Procedures”. J Am Coll Surg, 197(6): 902 - 913. 8. Triệu Triều Dương (2008), Nghiên cứu phẫu thuật nội soi điều trị bệnh UTTQ tại Bệnh viện 108, Y học TP. Hồ Chí Minh, 12, tr. 200 - 2003. 9. Phạm Đức Huấn, Đỗ Mai Lâm, Nguyễn Anh Tuấn (2006), Cắt thực quản nội soi ngực phải trong điều trị UTTQ, Y học Việt Nam, tập 319, tr. 70 - 75. 10. James D. Luketich MD, Miguel AR et al (2003), Minimally invasive Esophagectomy Ann Surg, 238 (4): PP 486 - 495.
File đính kèm:
ket_qua_phau_thuat_noi_soi_nguc_phai_dieu_tri_ung_thu_thuc_q.pdf

