Kết quả ngắn hạn áp dụng kỹ thuật tái tạo van động mạch chủ bằng màng ngoài tim tự thân theo phương pháp Ozaki trong điều trị ngoại khoa bệnh lý van động mạch chủ

Bệnh lý van động mạch chủ (ĐMC) thường

xuyên được điều trị bằng cách thay thế van ĐMC

bằng một van tim nhân tạo. Chúng tôi đã tiến

hành tái tạo van ĐMC bằng màng ngoài tim tự

thân đã qua xử lý bằng Glutaraldehyde theo

phương pháp Ozaki cho 21 bệnh nhân từ tháng 7

năm 2017 đến tháng 3 năm 2018. Mười ba bệnh

nhân hẹp van động mạch chủ, 8 bệnh nhân hở van

động mạch chủ. Ba bệnh nhân van ĐMC có hai lá

van, 1 bệnh nhân viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn.

Chúng tôi có 13 bệnh nhân nam và 8 nữ. Tuổi

trung bình của các bệnh nhân là 58,6 ± 10,5 tuổi.

Trước tiên, cắt bỏ các lá van bị bệnh. Sau đó, đo

khoảng cách giữa các mép của lá van. Các lá van

mới được đo và cắt dựa vào bộ đo sẵn có từ màng

ngoài tim tự thân được xử lý bằng

Glutaraldehyde.

pdf 6 trang phuongnguyen 80
Bạn đang xem tài liệu "Kết quả ngắn hạn áp dụng kỹ thuật tái tạo van động mạch chủ bằng màng ngoài tim tự thân theo phương pháp Ozaki trong điều trị ngoại khoa bệnh lý van động mạch chủ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Kết quả ngắn hạn áp dụng kỹ thuật tái tạo van động mạch chủ bằng màng ngoài tim tự thân theo phương pháp Ozaki trong điều trị ngoại khoa bệnh lý van động mạch chủ

Kết quả ngắn hạn áp dụng kỹ thuật tái tạo van động mạch chủ bằng màng ngoài tim tự thân theo phương pháp Ozaki trong điều trị ngoại khoa bệnh lý van động mạch chủ
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 20 - THÁNG 5/2018 
 52 
KẾT QUẢ NGẮN HẠN ÁP DỤNG KỸ THUẬT TÁI TẠO VAN ĐỘNG MẠCH CHỦ 
BẰNG MÀNG NGOÀI TIM TỰ THÂN THEO PHƯƠNG PHÁP OZAKI TRONG 
ĐIỀU TRỊ NGOẠI KHOA BỆNH LÝ VAN ĐỘNG MẠCH CHỦ 
Ngô Thành Hưng*, Đoàn Quốc Hưng**, Nguyễn Công Hựu*, Đỗ Anh Tiến*, Nguyễn Trung Hiếu*, 
Lê Tiến Dũng*, Nguyễn Trần Thủy*, Nguyễn Bằng Việt*, Phạm Thành Đạt*, Ngô Hải Linh*, 
Nguyễn Đỗ Hùng*, Nguyễn Thái Long*, Phan Thảo Nguyên*, Nguyễn Bá Phong*, Lê Ngọc Thành* 
TÓM TẮT 
Bệnh lý van động mạch chủ (ĐMC) thường 
xuyên được điều trị bằng cách thay thế van ĐMC 
bằng một van tim nhân tạo. Chúng tôi đã tiến 
hành tái tạo van ĐMC bằng màng ngoài tim tự 
thân đã qua xử lý bằng Glutaraldehyde theo 
phương pháp Ozaki cho 21 bệnh nhân từ tháng 7 
năm 2017 đến tháng 3 năm 2018. Mười ba bệnh 
nhân hẹp van động mạch chủ, 8 bệnh nhân hở van 
động mạch chủ. Ba bệnh nhân van ĐMC có hai lá 
van, 1 bệnh nhân viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn. 
Chúng tôi có 13 bệnh nhân nam và 8 nữ. Tuổi 
trung bình của các bệnh nhân là 58,6 ± 10,5 tuổi. 
Trước tiên, cắt bỏ các lá van bị bệnh. Sau đó, đo 
khoảng cách giữa các mép của lá van. Các lá van 
mới được đo và cắt dựa vào bộ đo sẵn có từ màng 
ngoài tim tự thân được xử lý bằng 
Glutaraldehyde. Cuối cùng, Các lá van mới bằng 
màng tim được khâu vòng quanh vòng van ĐMC. 
Một bệnh nhân nào tử vong do chảy máu sau mổ. 
01 bệnh nhân phải chuyển thay van động mạch 
chủ bằng van sinh học. Siêu âm tim qua thực 
quản trong mổ không có bệnh nhân hở chủ nhẹ 
trở lên. Chênh áp qua van động mạch chủ đo 
ngay trong mổ và sau mổ 1 đến 2 tuần tương ứng 
là 19,3 ± 4,7mmHg và 18,7 ± 4,2 mmHg. Không 
có bệnh nhân nào phải mổ lại. 
SUMMARY 
Aortic valve disease is usually treated by 
prosthetic valve replacement. We have performed 
aortic valve plasty (AVP) for 21 patients from 
July 2017 through March 2018 using 
glutaraldehyde-treated autologous pericardium. 
Thirteen patients had aortic stenosis (AS), and 8 
patients had aortic regurgitation (AR). Three 
patients showed bicuspid aortic valves, and one 
patient showed infective endocarditis. There were 
13 males and 8 females. Their mean age was 58.6 
± 10.5 years old. First, diseased leaflets excised. 
Then, the distance between each commissure was 
measured. The new leaflet was trimmed with an 
original template from a glutaraldehyde-treated 
autologous pericardium sample. Finally, the 
annular margin of the pericardial leaflet was 
running sutured to each annulus. There was one 
patient died of postoperative because bleeding. 
One patient was returned to conventional 
bioprosthesis aortic valve replacement surgery. 
Intraoperative trans-esophageal echocardiography 
(TEE) showed no or mild AR. Pressure gradient 
measured through aortic valve intraoperatively 
and 1 to 2 weeks after surgery were 19.3 ± 
4.7mmHg and 18.7 ± 4.2mmHg, respectively.No 
patient required re-operation.* 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Phẫu thuật sửa chữa bảo tồn van động mạch 
chủ trong việc điều trị bệnh lý van động mạch 
chủ có chỉ định can thiệp ngoại khoa từ lâu đã 
được quan tâm và ưu tiên của các phẫu thuật viên 
* Trung tâm Tim mạch Bệnh viện E 
** Trường ĐH Y Hà Nội 
Người chịu trách nhiệm khoa học: GS.TS. Lê Ngọc Thành 
Ngày nhận bài: 01/05/2018 - Ngày Cho Phép Đăng: 20/05/2018 
Phản Biện Khoa học: GS.TS. Bùi Đức Phú 
 PGS.TS. Đặng Ngọc Hùng 
KẾT QUẢ NGẮN HẠN ÁP DỤNG KỸ THUẬT TÁI TẠO VAN ĐỘNG MẠCH CHỦ BẰNG MÀNG NGOÀI TIM... 
 53 
tim mạch trên toàn thế giới. Việc sửa chữa van 
động mạch chủ cũng có lịch sử lâu đời giống như 
việc sửa van nhĩ thất. Trường hợp sửa van động 
mạch chủ đầu tiên theo phương pháp tách mép 
van động mạch chủ được thực hiện bởi Tuffier 
năm 1913 [1]. Trước khi có máy tim phổi nhân 
tạo, hở van động mạch chủ cũng được điều trị bởi 
phương pháp sửa van động mạch chủ thành hai lá 
van[2,3]. Sau đó nhờ việc sử dụng máy tim phổi 
nhân tạo,Mulder và cs[4]Hurwitt và cs[5], Cahrol 
và cs[6] cũng đã báo các nhiều ký thuật sửa van 
khác tuy nhiên kết quả không thật sự thành công. 
Năm 1963, Ross đã báo cáo trường hợp đầu tiên 
điều trị hở van động mạch chủ theo cách mở rộng 
lá van bằng vật liệu sinh học [7]. Việc sử dụng 
màng ngoài tim đã được sử lý bằng dung dịch 
glutaraldehydebởi Yacouh và cs, Batista cs [8,9] 
để mở rộng lá van động mạch chủ. Kết quả khả 
quan trên thực nghiệm và lâm sàng việc sử dụng 
màng ngoài tim được sử lý với glutaraldehyde 
trong vài phút đã thúc đẩy Duran và cs [10] sử 
dụng để sửa van động mạch chủ. Tuy nhiên với 
lịch sử hơn 50 năm, việc sử van động mạch chủ 
vẫn mang tính chất cá nhân. Các nghiên cứu đều 
thấy rằng do cấu trúc phức tạp của gốc động 
mạch chủ, thiếu phương pháp đo và kỹ thuật 
thống nhất, cùng với đó sự ra đời của van tim 
nhân tạo và tính chính xác của nó lên việc điều trị 
bệnh lý van động mạch chủ chính vẫn là thay van. 
Van nhân tạo sinh học ngày càng được sử dụng 
nhiều hơn vì các biến chứng không tránh khỏi của 
chống đông sau mổ thay van cơ học [11,12]. Tuy 
nhiên, mặc dù đã có tiến triển về thiết kế và cấu 
trúc của van nhân tạo, biểu hiện huyết động vẫn 
chưa tương tự như van động mạch chủ tự nhiên. 
Thêm vào đó, sự thay thế với một van nhân tạo 
sinh học có thể dẫn đến sự thoái hóa được gia tốc 
ở bệnh nhân trẻ tuổi vì sự xơ hóa và vôi hóa [13]. 
Năm 2007, Ozaki và cs đã sử dụng màng ngoài 
tim tự thân được sử lý với glutaraldehyde 0,6% 
để tái tạo lại cả ba lá van động mạch chủ [14]. Từ 
đó, phương pháp này đã được áp dụng rộng rãi tại 
Nhật Bản và các trung tâm khác tại Mỹ, Anh. 
Tại Việt Nam, phương pháp điều trị chính 
bệnh lý van động mạch chủ vẫn là thay van bằng 
một van nhân tạo. Chưa có một báo cáo hay 
nghiên cứu nào về việc tái tạo van động mạch 
chủ. Do đó, nghiên cứu của chúng tôi nhằm mục 
đích đánh giá kết quả của việc ứng dụng phương 
pháp tái tạo ba lá van động mạch chủ bằng màng 
ngoài tim tự thân của Ozaki trong điều trị bệnh lý 
van động mạch chủ và tính khả thi của phương 
pháp trong điều kiện Việt Nam. 
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
1. Đối tượng 
Nghiên cứu được thực hiện tại Trung tâm tim 
mạch bệnh viện E từ tháng 7 năm 2017 đến tháng 3 
năm 2018, bao gồm 21 bệnh nhân được áp dụng 
phương pháp Ozaki tái tạo ba lá van động mạch chủ 
bằng màng ngoài tim tự thân. Các bệnh nhân có 
bệnh lý van tim khác, bệnh lý động mạch vành, 
động mạch chủ bị loại trừ khỏi nghiên cứu. 
Trong số 21 bệnh nhân có 12 nam và 9 nữ. 
Tuổi trung bình 58,6 ± 10.5. Siêu âm tim trước 
mổ chênh áp lớn nhất qua van động mạch chủ 
70.5 ± 28,6 mmHg, phân suất tống máu thất trái 
(EFVG) trung bình 52.6 ± 10.5. 13 bệnh nhân 
được chẩn đoán hẹp khít van động mạch chủ, 8 
bệnh nhân hở chủ nặng. 3 bệnh nhân van động 
mạch chủ có hai lá van type 0, 1 bệnh nhân viêm 
nội tâm mạc nhiễm khuẩn. Đường kính vòng van 
động mạch chủ đo trong mổ 21.4 ± 2,2 mm. Kích 
thước các lá van động mạch chủ tương ứng đo 
theo dụng cụ Ozaki lá vành trái 26.3 ± 2,5, lá 
vành phải 26,8 ± 2.9 và lá không vành 27.6 ± 2.3. 
2. Phương pháp 
Tất cả các bệnh nhân trong nghiên cứu của 
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 20 - THÁNG 5/2018 
 54 
chúng tôi được mổ qua đường mở xương ức. 
Bệnh nhân được đặt siêu âm tim qua thực quản 
trước khi bắt đầu phẫu thuật. Đầu tiên, màng 
ngoài tim của bệnh nhân sẽ được phẫu tích sạch 
mỡ và tổ chức xung quanh bằng dao siêu âm, sau 
đó màng ngoài tim được cắt một miếng với kích 
thước 7x8 cm ( hình 2.1). Sau đó, ngâm màng 
ngoài tim vào dung dịch Glutaraldehyde trong 
vòng 10 phút, tiếp tục rửa sạch bằng nước muối 
trong 6 phút và làm 3 lần. 
Thời gian tái tạo ba lá van động mạch chủ 
trong thời gian bảo vệ cơ tim, sử dụng máy tuần 
hoàn ngoài cơ thể. Động mạch chủ lên được mở 
ngang, vị trí tương ứng trên lỗ động mạch vành 
phải 1.7cm. Các lá van bệnh lý được cắt bỏ cẩn 
thận, trong trường hợp van vôi thì phải lấy hết tổ 
chức vôi. Tiến hành đo kích thước từng lá van 
bằng cách đo gữa hai mép van tương ứng bằng bộ 
đo OZAKI ( hình 2.2). Vẽ hình các lá van mới 
theo kích thước tương ứng ( hình 2.3), cắt các lá 
van. Tiến hành khâu tái tạo lại các lá van bằng chỉ 
prolene 4/0 kim 17, tăng cường các mép van bằng 
chỉ prolene 4/0 có miếng đệm pletget. Diện áp của 
ba lá van mới được kiểm tra trực tiếp bằng mắt 
trước khi đóng động mạch chủ (hình 2.4). Sau khi 
thả cặp động mạch chủ, tim đập trở lại, trước khi rút 
ống động mạch và tĩnh mạch, van động mạch chủ 
được kiểm tra qua siêu âm thực quản. 
. 
Hình 2.1: Lấy màng ngoài tim Hình 2.2: Đo kích thước các lá van 
Hình 2.3: Vẽ và cắt cá lá van mới bằng màng 
ngoài tim đã xử lý bằng Glutaraldehyde 
Hình 2.4: Kiểm tra diện áp của 3 lá van mới 
trực tiếp trong mổ 
KẾT QUẢ NGẮN HẠN ÁP DỤNG KỸ THUẬT TÁI TẠO VAN ĐỘNG MẠCH CHỦ BẰNG MÀNG NGOÀI TIM... 
 55 
3. KẾT QUẢ 
Bảng 1. Đặc điểm bệnh nhân 
Giới tính nam, n(%) 13 (61,9) 
Tuổi, TB ± D, tuổi 58.5 ± 10.6 
Hẹp van động mạch chủ, n(%) 13 (61,9) 
Hở van động mạch chủ, n(%) 8 (38,1) 
Viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn, n(%) 1 (4,8) 
VanĐMC 2 lá van, n(%) 3 (14.4) 
Chênh áp qua van ĐMC, TB ± D, mmHg 70.5 ± 28.6 
EFVG, TB ± D 52.6 ± 10.5 
 Hẹp chủ chiếm tỷ lệ lớn trong số bệnh nhân của chúng tôi 61.9%, chênh áp trung bình qua van 
ĐMC 70.5mmHg. 
Bảng 2. Quá trình mổ 
Đường kính vòng van ĐMC, TB ± D, mm 21.4 ± 2.2 
Kích thước lá vành trái, TB ± D, mm 26.3 ± 2,5 
Kích thước lá vành phải, TB ± D, mm 26,8 ± 2.9 
Kích thước lá không vành, TB ± D, mm 27.6 ± 2.3. 
Hở van động mạch chủ ≥ 2/4 sau mổ, n(%) 0 (0%) 
Chênh áp qua van ĐMC, TB ± D, mmHg 19.3 ± 4.7 
Thời gian cặp ĐMC, TB ± D, phút 
 Hẹp chủ 
 Hở chủ 
100.2 ± 15.6 
92.3 ± 18.5 
Thời gian chạy máy, TB ± D, phút 
 Hẹp chủ 
 Hở chủ 
130 .5 ± 10.4 
120.6± 10.5 
Chuyển thay van, n(%) 1(4.8) 
Kỹ thuật thành công 20 bệnh nhân, 01 bệnh 
nhân phải chuyển thay van sinh học. Thời gian cặp 
động mạch chủ 100.2 ± 15.6 phút ở nhóm bệnh 
nhân hẹp chủ, 92.3 ± 18.5 phút ở nhóm bệnh nhân 
hở van chủ. Thời gian chạy máy tuần hoàn ngoài cơ 
thể là 130 .5 ± 10.4 phút ở nhóm hẹp chủ và 120.6± 
10.5 phút ở nhóm hở chủ. Sau mổ siêu âm tim qua 
thực quản chênh áp qua van động mạch chủ là 19.3 
± 4.7mmHg, tất cá các bệnh nhân hở van động 
mạch chủ dưới mức độ nhẹ-vừa. Một bệnh nhân tử 
vong ngày thứ 3 sau mổ do chảy máu gây chèn ép 
tim cấp. Siêu âm trước khi ra viện chênh áp qua van 
18.7 ± 4.2 mmHg. 
4. BÀN LUẬN 
Thay van là phương pháp điều trị đã được 
lựa chọn cho bệnh lý van động mạch chủ, mặc dù 
có sự hạn chế rõ ràng về độ bền của van sinh học 
và nhược điểm rõ ràng của thuốc chống đông 
máu đối với van cơ học. Trong những trường hợp 
này, tiêu chuẩn hóa và phổ biến hiện tại của kỹ 
thuật sửa chữa van hai lá và ba lá đã gây ra sự 
quan tâm đến việc sửa chữa van động mạch chủ. 
Nguồn gốc của sửa chữa van động mạch chủ có 
thể được truy trở lại thời kỳ đầu của phẫu thuật 
tim[15]. Sửa chữa van động mạch chủ đã được 
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 20 - THÁNG 5/2018 
 56 
thực hiện bằng nhiều cách khác nhau nhưtách 
mép van, tạo hình vòng van động mạch chủ, mở 
rộng lá van, cắt bỏ lá van hình chêm[16]. 
Phương pháp sửa sữa không phải luôn luôn có thể 
thực hiện đối với hẹp van động mạch chủ. Lấy 
vôi hoạc cắt gọt lá van đã không cho thấy kết quả 
tốt. Nỗ lực thay thế lá van động mạch chủ bằng 
vật liệu sinh học đã được thực hiện từ cuối những 
năm 1960. Màng tim bò đã được sử dụng ở số 
lượng nhỏ bệnh nhân, nhưng kết quả không thuận 
lợi trong phần lớn các trường hợp. Ngược lại, 
màng ngoài tim tự thân có sẵn để sửa chữa van 
động mạch chủ ngay lập tức ở mọi bệnh nhân. 
Sửa van động mạch chủ bằng cách mở rộng 
lá van với màng ngoài tim tự thân qua xử lý bằng 
glutaraldehyde đã được mô tả bởi Duran và cs 
[10].Màng tim được sử dụng để tăng chiều cao 
của lávan động mạch chủ và mép van dẫn đến sự 
gia tăng diện áp của van. Xử lý màng tim bằng 
glutaraldehyde có thể tăng thêm khả năng đỡ, 
chống co rút, thoái hóa và duy trì tính linh hoạt 
mô nội tại của màng ngoài tim. Halees và cs đã 
báo cáo việc không phải mổ lại 47% bệnh nhân 
sau 16 năm được tái tạo van động mạch chủ với 
với màng ngoài tim[17]. Tranh luận của họ về việc 
mở rộng cả ba lá van bằng màng ngoài tim là đáng 
tin cậy hơn về mặt kỹ thuật so với thay với bằng 
một lá van duy nhất. Odim et al. báo cáo rằng sửa 
chữa van động mạch chủ với phần mở rộng lá 
màng ngoài tim tự phát là một lựa chọn tốt cho 
một van động mạch chủ bị bệnh bẩm sinh [18]. 
Kỹ thuật tái tạo van động mạch chủ theo 
phương pháp Ozaki không tập trung vào kỹ thuật 
sửa chữa với một lá duy nhất bằng ngoài tim. 
Ngược lại, họ nhấn mạnh rằng van động mạch 
chủ đại diện cho một tập hợp các lá van khác 
nhau. Do đó, họ xem xét kích thước của các lá 
van động mạch chủ được xác định độc lập bởi 
khoảng cách giữa các mép van.Kết quả là, theo 
phương pháp này tạo ra các lá màng ngoài tim 
riêng biệt cho mỗi lá vành tương ứng. Ngoài ra, 
mỗi lá van có thể có các kích cỡ khác nhau. Với 
kỹ thuật cắt bỏ hoàn toàn tất cả ba lá van bị bệnh, 
phương pháp này có thể áp dụng với tất cả các 
bệnh lý của van động mạch chủ. Trong nghiên 
cứu này, chúng tôi áp dụng phương pháp tái tạo 
van động mạch chủ bằng màng ngoài tim của 
Ozaki với bệnh lý van động mạch chủ đơn thuần. 
Tuy nhiên, thực tế phương pháp này đã được áp 
dụng với cả bệnh nhân có bệnh lý khác kèm theo 
như bệnh van hai lá, van ba lá, giãn động mạch 
chủ lên. Kết quả trong số 21 bệnh nhân của 
chúng tôi có một bệnh nhân phải thay van ĐMC 
sau khi tái tạo với màng ngoài tim bằng van sinh 
học, do bệnh nhân có bất thường vị trí xuất phát 
lỗ vành: lỗ vành trái nằm gần vị trí tiếp giáp giữa 
lá vành phải – vành trái. Sau khi ngừng máy tim 
phổi tim đột ngột ngừng đập, mở lại động mạch 
chủ kiểm tra mép lá vành trái tái tạo bị hút lọt vào 
trong lỗ vành trái. Xử trí: khâu dựng lại mép lá 
van, thả cặp động mạch chủ lần 2 tim trái co bóp 
kém, siêu âm thực quản kiểm tra cánh van vẫn 
che lỗ vành, chúng tôi quyết định chuyển thay 
van nhân tạo sinh học. 1 bệnh nhân tử vong ngày 
thứ 2 sau mổ, bệnh nhân đã được rút ống nội khí 
quản, tử vong đột ngột do chảy máu, chèn ép tim 
cấp. Một điều cần lưu ý trong phẫu thuật này, 
diện phẫu tích gỡ và cắt màng ngoài tim rất rộng 
nguy cơ chảy máu sau mổ cũng cao hơn so với 
mổ thay van đơn thuần. 
5. KẾT LUẬN 
Tái tạo van động mạch chủ bằng màng 
ngoài tim tự thân theo phương pháp Ozaki là một 
phương pháp phẫu thuật an toàn, độ tin cậy cao, 
dễ thực hiện và có thể áp dụng với tất cả các 
nhóm bệnh nhân và bệnh lý van động mạch chủ. 
Với nhiều ưu điểm mang lại như việc không phải 
sử dụng thuốc chống đông, bảo tồn được sự giãn 
nở tự nhiên của gốc động mạch chủ, độ bền so 
với van sinh học, áp dụng được với bệnh nhân có 
vòng van nhỏ nhất là trẻ em, đây thực sự là một 
phương pháp tốt có thể áp dụng thường quy trong 
điều kiện Việt Nam. 
KẾT QUẢ NGẮN HẠN ÁP DỤNG KỸ THUẬT TÁI TẠO VAN ĐỘNG MẠCH CHỦ BẰNG MÀNG NGOÀI TIM... 
 57 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Tuffier T: Etat actuel de la chirurgie 
intrathoracique XVIl lnternatCong Med, Sec 7, Pt 
2, London, United Kingdom, pp 247-249. 1913 
2. Taylor WJ, Thrower WB, Black 11, et al: The 
surgical correction of 
aortic insufficiency hy cirrumclusion. .I Thorav 
Cardiovasc Surg 35: 192- 
205,1958 
3. Murphy JP: The surgical correction of 
syphilitic aortic insufficienry. J 
Thorac Cardiovasc Surg 40:524-528, 1960 
4. Mulder DG, Kattus AA, Longmire WP: The 
treatment of acquired aortic 
stenosis by valvuloplasty. J Thorac Cardiovasc 
Surg 40:731-743, 1960 
5. Hurwitt ES, Hofftw PW, Hosenblatt A: Pliration 
of the aortic ring in the 
correctinn of aortic insufficiency. J Thorac 
Carcliovasc Surg 39:654-662. 
1960 
6. Cahrol C, Cabrol A ,Guiraudon G , et al: Le 
traitement dr I’insuffisance 
aortique par I’annuloplastie aortiqne. Arch Ma1 
Coeur Vaiss 59:1305- 
1312,1966 
7. Ross DN: Surgical reconstruction of the aortic 
valve. Lancet 3:571-574, 
1963 
8. Yacouh M, Khagani A, Dhalla N, et al: 
Aortic: valve replacement using 
unstented dura or calf pericardium: Early and 
medium term results, in 
Bodnar E, Yacoub M (eds): Biological and 
Binprosthetic Valves. New 
York, NY,Yorke Medical Books, 1986, pp 
684-690 
9. Batista RJW, Dobrianskij A, Commazzi M , et 
al: Clinical experience 
with stentless pericardial aortic monopatch for 
aortic valve replacement. J Thorac Cardiovasc 
Surg 93: 19-26, 1987 
10. Carlos M.G et all Operative Techniques in 
Cardiac &Thoracic Surgery, Vol 1, No 1 
(July), 1996: pp 15-29 
11. North RA, Sadler L, Stewart AW, McCowan 
LM, Kerr AR, White HD. Long-term survival 
and valve-related complications in young 
women with cardiac valve replacements. 
Circulation. 1999;99:2669-76. 
12. Edmunds LH. Thrombotic and bleeding 
complications of prosthetic heart valves. Ann 
Thorac Surg. 1987;44:430-45 
13. Khan SS, Trento A, DeRobertis M, Kass RM, 
Sandhu M, Czer LS, et al. Twenty-year 
comparison of tissue and mechanical valve 
replacement. J Thorac Cardiovasc Surg. 
2001;122:257-69 
14. Ozaki S, Kawase I, Yamashita H, Uchida S, 
Nozawa Y, Matsuyama T, et al. Aortic valve 
reconstruction using self-developed aortic 
valve plasty system in aortic valve disease. 
Interact Cardiovasc Thorac Surg. 2011;12:550-
3 
15. Lillehei CW, Gott VL, De Wall RA, Varco 
RL. The surgical treatment of stenotic or 
regurgitant lesions of the mitral and aortic 
valves by direct vision utilizing a pump 
oxygenator. J Thorac Cardiovasc Surg 
1958;35: 154–191. 
16. Duran CMG, Alonso J, Gaite L, Alonso C, 
Cagigas JC, Marce L, Fleitas MG, Revuelta 
JM. Long-term results of conservative repair of 
rheumatic aortic valve insufficiency. Eur J 
Cardiothorac Surg 1988;2:217–223. 
17. Halees Z, Shahid M, Sanei A, Sallehuddin A, 
Duran C. Up to 16 years follow-up of aortic 
reconstruction with pericardium: a stentless 
readily available cheap valve? Eur J 
Cardiothorac Surg 2005;28:200–205. 
18. Odim J, Laks H, Allada Y, Child J, Wilson S, 
Gjertson D. Results of aortic valve sparing and 
restoration with autologous pericardial leaflet 
extension in congenital heart disease. Ann 
Thorac Surg 2005;74:438– 443. 

File đính kèm:

  • pdfket_qua_ngan_han_ap_dung_ky_thuat_tai_tao_van_dong_mach_chu.pdf