Kết quả lâu dài mổ nội soi và mổ mở điều trị một số u trung thất ác tính

Đặt vấn đề: Cho đến nay đã có nhiều báo cáo điều trị thành công các u lành tính ơ trung thất bằng phẫu

thuật nội soi. Với những u ác tính, việc xem xét, e ngại khả năng cắt không trọn vẹn khối u đã làm cho một số

phẫu thuật viên miễn cưỡng trong việc thực hiện phẫu thuật nội soi trong điều trị. Tuy nhiên, với những lợi điểm

mà nội soi mang lại cũng như những kinh nghiệm trong phẫu thuật nội soi, nói lên rằng chúng ta nên sử dụng

phẫu thuật nội soi trong một số u trung thất ác tính có thể cắt trọn được với mục đích điều trị. Chúng tôi báo

cáo những kinh nghiệm trong việc thực hiện phẫu thuật nội soi điều trị các u trung thất ác tính với kết quả theo

dõi lâu dài.

Phương pháp nghiên cứu: Đây là nghiên cứu đoàn hệ tiền cứu. Chúng tôi so sánh hai nhóm mổ mở và

mổ nội soi cho các bệnh nhân có u ác tính trung thất. Tất cả các bệnh nhân u trung thất ác tính có chỉ định

phẫu thuật được thực hiện bởi phẫu thuật nội soi hay mổ mở. Từ tháng 7/2010 - 7/2013 tại Khoa Ngoại Lồng

ngực bệnh viện Chợ Rẫy có 209 bệnh nhân u trung thất được phẫu thuật, trong đó có 85 bệnh nhân có u ác

tính ở trung thất được đưa vào nghiên cứu. Trong số này có 64 bệnh nhân u tuyến ức không có nhược cơ, còn

lại 21 bệnh nhân là các u ác tính khác của trung thất. Theo dõi kết quả dài hạn đến tháng 3/2019.

pdf 9 trang phuongnguyen 180
Bạn đang xem tài liệu "Kết quả lâu dài mổ nội soi và mổ mở điều trị một số u trung thất ác tính", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Kết quả lâu dài mổ nội soi và mổ mở điều trị một số u trung thất ác tính

Kết quả lâu dài mổ nội soi và mổ mở điều trị một số u trung thất ác tính
PHỔI - LỒNG NGỰC 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
189 
KẾT QUẢ LÂU DÀI MỔ NỘI SOI VÀ MỔ MỞ ĐIỀU TRỊ 
MỘT SỐ U TRUNG THẤT ÁC TÍNH 
HUỲNH QUANG KHÁNH1 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Cho đến nay đã có nhiều báo cáo điều trị thành công các u lành tính ơ trung thất bằng phẫu 
thuật nội soi. Với những u ác tính, việc xem xét, e ngại khả nĕng cắt không trọn vẹn khối u đã làm cho một số 
phẫu thuật viên miễn cưỡng trong việc thực hiện phẫu thuật nội soi trong điều trị. Tuy nhiên, với những lợi điểm 
mà nội soi mang lại cũng như những kinh nghiệm trong phẫu thuật nội soi, nói lên rằng chúng ta nên sử dụng 
phẫu thuật nội soi trong một số u trung thất ác tính có thể cắt trọn được với mục đích điều trị. Chúng tôi báo 
cáo những kinh nghiệm trong việc thực hiện phẫu thuật nội soi điều trị các u trung thất ác tính với kết quả theo 
dõi lâu dài. 
Phương pháp nghiên cứu: Đây là nghiên cứu đoàn hệ tiền cứu. Chúng tôi so sánh hai nhóm mổ mở và 
mổ nội soi cho các bệnh nhân có u ác tính trung thất. Tất cả các bệnh nhân u trung thất ác tính có chỉ định 
phẫu thuật được thực hiện bởi phẫu thuật nội soi hay mổ mở. Từ tháng 7/2010 - 7/2013 tại Khoa Ngoại Lồng 
ngực bệnh viện Chợ Rẫy có 209 bệnh nhân u trung thất được phẫu thuật, trong đó có 85 bệnh nhân có u ác 
tính ở trung thất được đưa vào nghiên cứu. Trong số này có 64 bệnh nhân u tuyến ức không có nhược cơ, còn 
lại 21 bệnh nhân là các u ác tính khác của trung thất. Theo dõi kết quả dài hạn đến tháng 3/2019. 
Kết quả: Chúng tôi phân tích 85 bệnh nhân u ác tính trung thất được mổ điều trị. Nhóm mổ nội soi 36 
trường hợp, nhóm mổ mở 45 trường hợp. Không có tử vong hay trường hợp nào phải chuyển từ mổ nội soi 
sang mổ mở. Kết quả sớm: Kích thước u trung bình (cm) 8,44 ± 3,01 (Mở) so với 7,47 ± 2,31 (NS), p=0,108. 
Thời gian mổ trung bình (phút) 124,79 ± 50,79 (Mở) so với 84,58 ± 41,23 (NS), p < 0,0001. Lượng máu 
mất trung bình (ml) 235,10 ± 307,72 (Mở) so với 59,58 ± 59,58 (NS), p = 0,001. Thời gian hậu phẫu (ngày) 
7,95 ± 2,43 (Mở) so với 5,22 ± 1,39 (NS), p< 0.0001. Thời gian lưu ống dẫn lưu trung bình (ngày) 3,26 ± 0,93 
(Mở) so với 2,08 ± 0,28 (NS), p <0.0001. Điểm đau sau mổ 5,79 ± 1,80 (Mở) so với 3,80 ± 1,61 (NS), 
p < 0,0001. Tỉ lệ biến chứng 10,2% (Mở) so với 0,0% (NS). Kết quả trung hạn: có 2 trường hợp u tái phát trong 
quá trình theo dõi trung bình 39 tháng ở nhóm mổ nội soi. Kết quả lâu dài giữa nhóm mổ nội soi và mổ mở 
là tương đồng. U tuyến ức có tỉ lệ sống sau 5 nĕm là 84,3% còn các u ác tính khác tỉ lệ sống còn sau 5 nĕm 
là 21,7%. 
Kết luận: Kết quả ngắn hạn cho thấy phẫu thuật nội soi có khả nĕng cắt trọn các u trung thất. Kết quả 
chỉ ra rằng so với mổ mở thì phẫu thuật nội soi cắt trọn các u trung thất ác tính có nhiều lợi điểm như: thời gian 
mổ ngắn, ít mất máu, thời gian hậu phẫu ngắn, thời gian lưu ống dẫn lưu màng phổi ngắn, điểm đau sau mổ 
ít hơn. Tỉ lệ biến chứng ở nhóm mổ nội soi ít hơn. Theo dõi lâu dài giữa nhóm mổ nội soi và mổ mở là tương 
đồng. Các u tuyến ức có tiên lượng tốt hơn các u ác tính khác. 
Từ khóa: Phẫu thuật nội soi lồng ngực, Phẫu thuật nội soi lồng ngực hỗ trợ, U tuyến ức U trung thất ác tính. 
ABSTRACT 
Long - term oncological outcome of videothoracoscopic versus open in malignant mediastinal tumors 
Background: Many successful attempts at VTS to remove benign mediastinal tumors have been reported 
in the literature. With regard to malignant tumors, considering the possibility of the incomplete resection, most 
thoracic surgeons are reluctant to perform VTS resection. However, with the advancement in video - equipment 
and greater experience gained by VTS enthusiasts, it is appropriate to say that we should try to use VTS to 
remove some resectable malignant tumors with a curative intention. We report our experience of video 
thoracoscopic removal of malignant mediastinal tumors with long - term oncological out come. 
Methods: This was a prospective cohort study. We compared patients undergoing mediastinal tumors 
resection for malignant tumors by either VTS or open methods. All patients with suspected mediastinal tumors 
1
 TS.BS. Khoa Ngoại lồng ngực - Bệnh viện Chợ Rẫy 
PHỔI - LỒNG NGỰC 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
190 
suitable for operation were surveyed and informed about the procedure of video thoracoscopic surgery (VTS) 
and the comparison between the conventional operation and VTS. From July 2010 to July 2013 at Thoracic 
Surgery Department Cho Ray hospital, there were 209 patients with mediastinal tumors resection, in there 85 
patients with malignant tumors were included in this study. 64 patients were included due to thymoma without 
myasthenia gravis, and 21 patients were included due to other malignant mediastinal tumors. Follow up long - 
term to Mar - 2019. 
Results: We analyzed 85 patients with malignant mediastinal tumors resection (VTS: 36, OPEN: 45). None 
of operative mortality observed or none of VTS was converted to open procedures. The mean tumor size (cm) 
was 8,44 ± 3,01 (OPEN) versus 7,47 ± 2,31 (VTS), p= 0,108. The mean operation time (min) was 124,79 ± 
50,79 (OPEN) versus 84,58 ± 41,23 (VTS), p< 0,0001. The mean blood loss (ml) 235,10 ± 307,72 (OPEN) 
versus 59,58 ± 59,58 (VTS), p=0,001. The mean postoperation time (day) was 7,95 ± 2,43 (OPEN) versus 
5,22 ± 1,39 (VTS), p< 0.0001. The mean chest tube duration (day) was 3,26 ± 0,93 (OPEN) versus 2,08 ± 0,28 
(VTS), p < 0.0001. The mean pain score postoperative was 5,79 ± 1,80 (OPEN) versus 3,80 ± 1,61 (VTS), 
p < 0,0001. Complication rates were 10,2% (OPEN) versus 0,0% (VTS). The mid - term results: there were two 
cases recurences during the mean follow - up of 39 months in VTS group. The result of Long - term follow up is 
the same between two groups. But the 5 years survival rate of thymoma (84,3%) is better than other malignant 
tumors (21,7%). 
Conclusions: The short - term results support the feasibility of VTS in managing technically resectable 
mediastinal tumors. The results confirm that VTS malignant mediastinal tumors resection is associated with a 
statistically significant shorter operation time, less blood loss, shorter post-operation time, shorter chest tube 
duration, less postoperative pain score than in OPEN group. Complication rates are less in VTS than in OPEN 
group. The long - term prognosis for the malignant lesions is the same open vs VTS. The 5 years survival rate 
of thymoma is better than other malignant mediastinal tumors. 
Keywords: Video thoracoscopic surgery - VTS, Video - assisted thoracoscopic surgery - VATS, Thymoma, 
Malignant mediastinal tumors. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
U trung thất là một bệnh lý ở trung thất, bao 
gồm tất cả các khối u lành tính và ác tính, bẩm sinh 
và mắc phải, các khối u tiên phát và thứ phát, trong 
đó 60% là các u tuyến ức, u thần kinh, và các nang 
lành tính, 30% là u tế bào lympho, u quái trung thất. 
Phẫu thuật là phương pháp điều trị cơ bản và 
hiệu quả đối với hầu hết các u trung thất. Phần lớn 
các phẫu thuật viên thống nhất cần phải chỉ định mổ 
sớm các khối u lành tính và các nang ở trung thất 
vì tỉ lệ ung thư hóa các u nang lành tính ở trung thất 
khá cao tới 37 - 41%. 
So với mổ mở kinh điển thì phẫu thuật nội soi 
lồng ngực ngày nay là một lựa chọn trong các bệnh 
lý lồng ngực và dần dần trở thành một phương pháp 
tiêu chuẩn trong điều trị tổn thương trong trung thất. 
Cho đến nay đã có nhiều báo cáo điều trị thành công 
các u lành tính ở trung thất bằng phẫu thuật nội soi. 
Với những u ác tính, việc xem xét, e ngại khả nĕng 
cắt không trọn vẹn khối u đã làm cho một số phẫu 
thuật viên miễn cưỡng trong việc thực hiện phẫu 
thuật nội soi trong điều trị. Tuy nhiên, với những lợi 
điểm mà nội soi mang lại cũng như những kinh 
nghiệm trong phẫu thuật nội soi, nói lên rằng chúng 
ta nên sử dụng phẫu thuật nội soi trong một số u 
trung thất ác tính có thể cắt trọn được với mục đích 
điều trị. Chúng tôi báo cáo sơ bộ những kinh nghiệm 
trong việc thực hiện phẫu thuật nội soi điều trị các u 
trung thất ác tính. 
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU 
Chúng tôi phân tích một nghiên cứu đoàn hệ có 
so sánh một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và 
kết quả giữa hai phương pháp mổ trong điều trị u 
trung thất nguyên phát. 
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đoàn hệ tiền cứu 209 trường hợp u trung thất 
được phẫu thuật điều trị bằng phẫu thuật nội soi hay 
mổ mở (trong đó có 85 trường hợp có kết quả giải 
phẫu bệnh sau mổ là u ác tính). Thời gian: Từ 
07/2010 đến 07/2013 tại khoa Ngoại Lồng Ngực 
bệnh viện Chợ Rẫy. Theo dõi kết quả dài hạn đến 
tháng 3/2019. 
Các bệnh nhân được chẩn đoán u trung thất, 
được hội chẩn khoa có chỉ định mổ, việc quyết định 
mổ nội soi hay mổ mở do hội chẩn quyết định. 
Chúng tôi chỉ quan sát thu thập số liệu, phân tích kết 
quả, không can thiệp vào quá trình điều trị của khoa. 
Chỉ định mổ nội soi hay mổ mở u trung thất của 
khoa dựa trên một số đặc điểm chung sau: vị trí u, 
kích thước u, loại u, giải phẫu bệnh u, mức độ chèn 
ép, xâm lấn của u với cấu trúc xung quanh. Trên cơ 
PHỔI - LỒNG NGỰC 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
191 
sở đó việc chọn mổ nội soi điều trị u trung thất cho 
các u chưa có xâm lấn, chèn ép các cơ quan 
xung quanh. Việc chọn mổ mở cho các u trung thất 
có các tiêu chí như trên và một số trường hợp u 
trung thất có chèn ép tĩnh mạch chủ trên. Tuy nhiên 
trong nghiên cứu này để cho hai nhóm bệnh tương 
đồng, chúng tôi chỉ chọn các trường hợp mổ mở u 
trung thất chưa có chèn ép tĩnh mạch chủ trên vào 
nghiên cứu. 
Tiêu chuẩn chọn bệnh 
Lâm sàng: Các bệnh nhân có chẩn đoán u 
trung thất chưa có hội chứng trung thất trên lâm 
sàng, chưa có di cĕn hạch thượng đòn. 
Trên hình ảnh CT ngực có cản quang: Có hình 
ảnh u trung thất chưa có xâm lấn vào các cơ quan 
quan trọng trong trung thất như: tim, mạch máu lớn, 
khí quản, phế quản, thực quản. Hoặc hình ảnh các 
nang trung thất. 
Chúng tôi chỉ chọn các trường hợp sau mổ có 
kết quả giải phẫu bệnh là u tuyến ức hoặc là u ác 
tính đưa vào phân tích nghiên cứu. 
Tiêu chuẩn loại trừ 
Bệnh nhược cơ. 
U trung thất thứ phát do lao hoặc ung thư nơi 
khác di cĕn đến. 
Bướu giáp thòng vào trung thất. 
U thực quản. 
U khí quản. 
U trung thất có kèm theo các phẫu thuật khác 
như: U phổi, kén khí phổi, tràn dịch màng tim, tràn 
dịch màng phổi. 
Phương pháp tiến hành 
Các bệnh nhân được khám lâm sàng và cận 
lâm sàng để xác định chẩn đoán và đánh giá giai 
đoạn bệnh. Chẩn đoán u trung thất chủ yếu dựa trên 
lâm sàng và CT ngực có cản quang. Các yếu tố 
trước mổ cần đánh giá như: tuổi, giới, kích thước u. 
Bệnh nhân mê nội khí quản 2 nòng, thông khí 
một phổi. 
Nhóm mổ nội soi 
Nội soi hoàn toàn (VTS): sử dụng 3 lỗ trocar 
(2 trocart 10mm, 1 trocar 5mm). Hay nội soi hỗ trợ 
(VATS): sử dụng 1 trocar 10mm, 1 trocar 5mm, 
đường mở hỗ trợ 3 - 4cm). Khi cần đưa các dụng cụ 
hỗ trợ như trong mổ mở vào để thao tác, cầm nắm 
Chuyển mổ mở: Mở rộng vết mổ ngực. Khi 
đánh giá mổ nội soi không thực hiện được (do u quá 
lớn không có khoảng trống thao tác, hay có biến 
chứng không xử trí được qua nội soi như: 
tổn thương mạch máu lớn, tổn thương khí phế quản, 
thực quản, tim). 
Bóc tách u ra khỏi tổ chức xung quanh, cắt cầm 
máu các mạch máu bằng dao đốt siêu âm hay clip 
các mạch máu lớn. Tránh tổn thương thần kinh 
hoành, các tổ chức xung quanh như mạch máu lớn, 
khí phế quản. Nếu có tổn thuơng phổi do u dính 
nhiều, sẽ cắt bằng stapler hay khâu phổi. Trường 
hợp u lớn cần dụng cụ mổ mở hỗ trợ sẽ dùng đường 
mổ hỗ trợ. Với u nang trung thất có thể chọc hút dịch 
trong u rồi bóc tách lấy trọn u. Với u đặc hay u hỗn 
hợp sau khi bóc tách cắt u, lấy u ra ngoài qua lỗ 
trocar 10, hay cắt nhỏ u cho vào bao bệnh phẩm lấy 
ra qua lỗ trocar 10. Dẫn lưu màng phổi sau mổ qua 
lỗ trocar 10. 
Nhóm mổ mở 
Mở ngực đường bên (tùy vị trí u ở bên nào) 
hoặc mở xương ức (khi u trung thất trước ở cả hai 
bên lồng ngực). Các bước phẫu thuật cũng tương tự 
nhóm mổ nội soi. 
Ghi nhận các yếu tố: thời gian mổ, lượng máu 
mất trong mổ, thời gian hậu phẫu, thời gian lưu ống 
dẫn lưu màng phổi, các biến chứng, thang điểm đau 
sau mổ. Kết quả trung hạn và dài hạn, tỉ lệ sống còn 
sau 5 nĕm. 
KẾT QUẢ 
Không có tử vong hay biến chứng lớn trong cả 
hai nhóm, và không có trường hợp nào chuyển từ 
mổ nội soi sang mổ mở. Tuổi trung bình 44,30 ± 
15,15 trong nhóm mổ nội soi và 43,52 ± 15,47 trong 
nhóm mổ mở (P=0,86). Có 50 nam/ 63 nữ trong 
nhóm mổ nội soi và 49 nam/47 nữ trong nhóm mổ 
mở (P=0,327). 
Đặc điểm chung nhóm nghiên cứu về kết quả giải phẫu bệnh sau mổ 
Bảng 1. Đặc điểm giải phẫu bệnh sau mổ 
Đặc điểm Nhóm NS 
n = 113 
Nhóm mổ mở 
n = 96 
Tổng 
n = 209 
Phân loại u lành-ác 
U lành tính 77 (68,1%) 47 (49,0%) 124 (59,3%) 
U ác tính 36 (31,9%) 49 (51,0%) 85 (40,7%) 
PHỔI - LỒNG NGỰC 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
192 
Phân loại Masaoka trong u tuyến ức (n = 29) (n = 35) (n = 64) 
Giai đoạn I 23 (79,3%) 20 (57,1%) 43 (67,2%) 
Giai đoạn II 3 (10,3%) 8 (22,9%) 11 (17,2%) 
Giai đoạn III 3 (10,3%) 6 (17,1%) 9 (14,1%) 
Giai đoạn IV 0 (0,0%) 1 (2,9%) 1 (1,6%) 
Nhận xét: 
Về phân loại u lành tính, ác tính. U lành tính chiếm đa số (59,3%), u ác tính chiếm ít hơn (40,7%). 
Đặc điểm giải phẫu bệnh nhóm u ác tính 
Bảng 2. Đặc điểm giải phẫu bệnh nhóm u ác tính 
Loại U Mổ NS Mổ mở Tổng 
U tuyến ức 29 35 64 (75,3%) 
Lymphoma 5 3 8 (9,4%) 
Ung thư trung thất nguyên phát 1 5 6 (7,1%) 
U tế bào mầm 0 3 3 (3,5%) 
U tế bào thần kinh nội tiết 0 3 3 (3,5%) 
Sarcoma sụn 1 0 1 (1,2%) 
Tổng 36 49 85 (100%) 
Nhận xét: 
U tuyến ức chiếm đa số (75,3%), kế đến là lymphoma (9,4%), ung thư trung thất nguyên phát (7,1%), u tế 
bào mầm (3,5%), u tế bào thần kinh nội tiết (3,5%), và cuối cùng là sarcoma sụn (1,2%). Tất cả các trường 
hợp u tuyến ức đều có khả nĕng xâm lấn nên phải được xem là ác tính. 
So sánh các đặc điểm trong, sau mổ giữa hai nhóm 
Bảng 3. So sánh các đặc điểm trong u ác tính 
Đặc điểm Nhóm mổ NS (n = 36) Nhóm mổ mở (n = 49) p* 
Kích thước u 
Kích thước u trung bình 
7,47 ± 2,31 
8,44 ± 3,01 
0,108 
Các đặc điểm trong mổ 
Thời gian mổ trung bình 
84,58 ± 41,23 
124,79 ± 50,79 
0,000 
Lượng máu mất trung bình trong mổ 59,58 ± 59,58 235,10 ± 307,72 0,001 
Các đặc điểm sau mổ 
Thời gian hậu phẫu trung bình 5,22 ± 1,39 7,95 ± 2,43 0,000 
Thời gian lưu ống dẫn lưu trung bình 2,08 ± 0,28 3,26 ± 0,93 0,000 
Thời gian chích thuốc giảm đau trung bình 3,80 ± 1,61 5,79 ± 1,80 0,000 
 Điểm đau trung bình 4,88 ± 1,42 6,72 ± 1,47 0,000 
(*): t test 
Nhận xét: 
Kích thước u trung bình trong nhóm mổ nội soi có nhỏ hơn trong nhóm mổ mở, tuy nhiên khác biệt không 
có ý nghĩa thống kê (P lớn hơn 0,05). Các kết quả trong và sau mổ trong nhóm mổ nội soi tốt hơn trong nhóm 
mổ mở với khác biệt có ý nghĩa thống kê (các P nhỏ hơn 0,05). 
Kích thước u giữa hai nhóm không khác biệt, tuy nhiên thời gian mổ, lượng máu mất, thời gian hậu phẫu, 
điểm đau sau mổ nhóm mổ nội soi tốt hơn nhóm mổ mở. 
PHỔI - LỒNG NGỰC 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT  ... Các u còn lại như: lymphoma, ung thư trung 
thất nguyên phát và sarcoma sụn rất nhạy với hóa 
trị, nên vai trò phẫu thuật là lấy tối đa khối lượng u 
để tránh chèn ép trung thất và gửi mô u xác định giải 
phẫu bệnh. Việc theo dõi và điều trị tiếp theo phối 
hợp với khoa ung bướu để điều trị hóa trị. 
So sánh các đặc điểm trong, sau mổ giữa hai 
nhóm mổ nội soi và mổ mở cho thấy kích thước u 
hai nhóm không khác biệt, tuy nhiên thời gian mổ, 
lượng máu mất, thời gian hậu phẫu, điểm đau sau 
mổ nhóm mổ nội soi tốt hơn. 
So sánh kết quả sớm 
So sánh kết quả sớm giữa hai nhóm mổ nội soi 
và mổ mở cho thấy, kết quả sớm ở nhóm mổ nội soi 
tốt (100%), còn ở nhóm mổ mở tốt (89,8%), trung 
bình (8,2%). Kết quả này có khác biệt nhưng chưa 
có ý nghĩa thống kê (p = 0,142). 
So sánh kết quả theo dõi 
Sau 1 tháng, sau 3 tháng: kết quả hai nhóm mổ 
mở và nội soi như nhau. 
Sau 6 tháng: kết quả ở nhóm mổ nội soi có 1 
trường hợp tái phát, trong khi ở nhóm mổ mở không 
có tái phát. Khác biệt không có ý nghĩa (p = 0,479). 
Sau 12 tháng: kết quả ở nhóm mổ nội soi có 1 
trường hợp tái phát, trong khi ở nhóm mổ mở không 
có tái phát. Khác biệt không có ý nghĩa (p = 0,307). 
Như vậy trong các u ác tính trung thất, mổ nội 
soi có kết quả tốt hơn mổ mở về thời gian mổ, lượng 
máu mất, thời gian hậu phẫu, điểm đau sau mổ. 
Tuy nhiên kết quả sớm và theo dõi ở hai nhóm 
không có khác biệt. 
Bàn về u tuyến ức 
Liên quan u tuyến ức với kết quả giữa hai nhóm 
Trong nghiên cứu này, mổ nội soi ở nhóm u ác 
tính chủ yếu là u tuyến ức và có 2 trường hợp tái 
phát trong nhóm mổ nội soi đều thuộc về u tuyến ức. 
Do vậy chúng tôi muốn phân tích sâu thêm về vai trò 
mổ nội soi trong điều trị u tuyến ức. 
Trong phẫu thuật u tuyến ức, có một số nguyên 
tắc[2,3]: 
Tránh thực hiện phẫu thuật sinh thiết nếu như 
việc đánh giá u tuyến ức là có thể mổ được. 
Mục đích của phẫu thuật là cắt bỏ hoàn toàn 
các tổn thương bao gồm cắt bỏ hoàn toàn tuyến ức. 
Phẫu thuật cắt bỏ hoàn toàn có thể đòi hỏi việc 
cắt bỏ các cấu trúc lân cận bao gồm màng ngoài tim, 
các mạch máu lớn. 
Trong quá trình cắt bỏ tuyến ức, nên kiểm tra 
bề mặt màng phổi để tìm các di cĕn màng phổi. 
Có nhiều cách phân loại u tuyến ức như bảng 
phân loại Masaoka, bảng phân loại TNM và giai 
đoạn, bảng phân loại của tổ chức y tế thế giới nĕm 
1999. Nhưng cho đến nay hệ thống xếp giai đoạn 
của Masaoka cho u tuyến ức vẫn có ý nghĩa trên lâm 
sàng về điều trị và tiên lượng. Đánh giá sống thêm 5 
nĕm toàn bộ cho các giai đoạn I, II, III và IV lần lượt 
như sau: 90%, 90%, 60%, < 25%. Và 10 nĕm cho 
các giai đoạn I, II, III lần lượt là: 80%, 80%, 30%[1,5]. 
PHỔI - LỒNG NGỰC 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
195 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, chủ yếu bệnh 
nhân ở giai đoạn I và II. Không có sự khác biệt giữa 
hai nhóm. Chúng tôi so sánh với các nghiên cứu 
khác của J W Chung, Yu-Jen Cheng. Cũng cho thấy 
rằng chủ yếu bệnh nhân ở giai đoạn I và II, không có 
sự khác biệt giữa nhóm mổ nội soi và nhóm mổ 
mở[4,5]. 
Bảng 5. So sánh kết quả phân loại Masaoka 
với tác giả khác 
Masaoka N 
Nhóm mổ 
NS 
Nhóm mổ 
mở p 
J. W. Chung 
Giai đoạn I 
70 
48 
25 
18 
45 
30 
>0,05 
Giai đoạn II 15 6 9 
Giai đoạn III 5 0 5 
Giai đoạn IV 2 1 1 
Yu-Jen Cheng 
Giai đoạn II 
22 
12 
10 
>0,05 
H. Q. Khánh 
Giai đoạn I 
Giai đoạn II 
Giai đoạn III 
Giai đoạn IV 
64 
43 
11 
9 
1 
29 
23 
3 
3 
0 
35 
20 
8 
6 
1 
0,266 
Nghiên cứu của tác giả J W Chung, cho thấy 
thời gian mổ trung bình giữa hai nhóm mổ nội soi 
117 ± 48 phút và mổ mở 70,0 ± 23,6 phút không 
khác biệt, chỉ có thời gian lưu ống dẫn lưu mổ nội soi 
1,84 ± 0,94 ngày và mổ mở 3,62 ± 2,04 ngày có 
khác biệt (p< 0,001); thời gian nằm viện trung bình 
mổ nội soi 3,4 ± 1,3 ngày và mổ mở 6,4 ± 2,5 ngày 
có khác biệt (p< 0,001)[5]. 
Nghiên cứu của Tác giả Yu- Jen Cheng, lượng 
máu mất trung bình trong nhóm mổ nội soi 
119,2 ± 70,6ml ít hơn so với nhóm mổ mở 
238,5 ± 110,2ml khác biệt có ý nghĩa (p=0,006). 
Thời gian mổ nội soi 193,3 ± 79,6 phút tương tự với 
mổ mở 207,5 ± 85,8 phút không khác biệt 
(p=0,692). Thời gian lưu dẫn lưu khoang màng phổi 
trung bình nhóm mổ nội soi 4,2 ± 2,1 ngày và nhóm 
mổ mở 4,6 ± 2,1 ngày không khác biệt (p=0,702). 
Thời gian hậu phẫu trung bình nhóm mổ nội soi 
6,8 ± 2,3 ngày và nhóm mổ mở 8,9 ± 4,4 ngày không 
khác biệt (p = 0,157)[4]. 
Tác giả Odaka M., nghiên cứu so sánh mổ nội 
soi cắt u tuyến ức với mổ mở cho 40 bệnh nhân 
u tuyến ức không nhược cơ ở giai đoạn I và giai 
đoạn II (với 22 bệnh nhân trong nhóm mổ nội soi và 
18 bệnh nhân trong mổ mở). Tác giả ghi nhận: 
lượng máu mất trong mổ giữa hai nhóm không khác 
biệt với 100,6ml ở nhóm mổ nội soi và 208,1ml ở 
nhóm mổ mở (p = 0,0513). Tuy nhiên thời gian nằm 
viện trung bình ở nhóm mổ nội soi là 4,6 ngày ít hơn 
so với nhóm mổ mở là 11,2 ngày, khác biệt có 
ý nghĩa (p< 0,0001). Không có biến chứng quan 
trọng nào được ghi nhận trong mổ cũng như sau mổ 
ở cả hai nhóm[6]. 
Các tác giả cũng ghi nhận, trong mổ nội soi 
thời gian mổ, lượng máu mất có khác nhau tùy 
tác giả nhưng thời gian hậu phẫu ít hơn so với nhóm 
mổ mở. 
So sánh kết quả sớm giữa hai nhóm 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, kết quả sớm 
ghi nhận tốt 100% các trường hợp ở nhóm mổ nội 
soi, còn ở nhóm mổ mở tốt 97,1%, xấu 2,9%. 
Tuy nhiên khác biệt không có ý nghĩa (p = 0,359). 
Nghiên cứu của tác giả J W Chung, cho thấy có 
3 trường hợp biến chứng ở nhóm mổ mở, không có 
trường hợp nào biến chứng ở nhóm mổ nội soi 
không khác biệt (p>0,05)[5]. 
Các nghiên cứu đều ghi nhận kết quả sớm ở 
nhóm mổ nội soi tốt hơn, tuy nhiên sự khác biệt này 
không có ý nghĩa. 
Điều trị hỗ trợ sau mổ 
Điều trị u tuyến ức dựa theo giai đoạn và khả 
nĕng mổ được hay không[2,,3]. 
Giai đoạn I: Được điều trị với mục đích triệt cĕn 
bằng phẫu thuật đơn thuần, điều trị hỗ trợ bằng xạ 
trị, hóa trị là không cần thiết. Theo dõi hàng nĕm 
bằng chụp cắt lớp lồng ngực. 
Giai đoạn II: Điều trị triệt cĕn bằng phối hợp các 
phương pháp. Sau khi phẫu thuật cắt bỏ hoàn toàn. 
Đánh giá mô bệnh học sẽ quyết định thái độ điều trị 
tiếp: 
Nếu diện cắt không còn tổn thương vi thể: Xạ trị 
tại chỗ, không hóa trị. 
Nếu diện cắt có tổn thương vi thể: Xạ trị hậu 
phẫu cho trường hợp u tuyến ức. Xạ trị và hóa trị bổ 
trợ nếu là ung thư biểu mô tuyến ức. 
Nếu diện cắt còn tổn thương đại thể: Xạ trị và 
có thể hóa trị. 
Giai đoạn III: Bệnh nhân được điều trị theo từng 
tình huống lâm sàng. Các bệnh nhân còn mổ được 
có thể đưa vào phẫu thuật rồi xạ trị và hóa trị tương 
tự gia đoạn II. Các bệnh nhân không mổ được có 
thể điều trị bằng hóa trị bổ trợ trước sau đó đánh giá 
lại. Các trường hợp tái phát tại chỗ: nên xem xét khả 
nĕng cắt bỏ trước khi hóa trị, xạ trị. 
PHỔI - LỒNG NGỰC 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
196 
Giai đoạn IV: Các trường hợp di cĕn có thể xem 
xét hóa trị hoặc xạ trị. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, điều trị hỗ trợ 
cho các bệnh nhân giai đoạn III, giai đoạn IV còn giai 
đoạn I và giai đoạn II sau mổ cắt trọn u chỉ theo dõi. 
Ở nhóm mổ nội soi: không điều trị 27 trường hợp 
(93,1%), có 3 trường hợp bệnh nhân giai đoạn III 
sau mổ có chỉ định xạ trị, tuy nhiên chỉ có 2 trường 
hợp (6,9%) tham gia điều trị xạ trị. Tuy nhiên trong 
nhóm không điều trị, có 2 trường hợp tái phát 
(1 trường hợp bệnh nhân giai đoạn II được mổ lại và 
hóa trị, 1 trường hợp bệnh nhân giai đoạn III lúc đầu 
không tham gia xạ trị, khi tái phát phải hóa trị). 
Còn ở nhóm mổ mở: không điều trị 23 trường hợp 
(65,7%), có điều trị xạ trị 11 trường hợp (31,4%), 
hóa trị 1 trường hợp (2,8%), không có trường hợp 
nào mổ lại do u tái phát. Khác biệt giữa hai nhóm 
không có ý nghĩa (p = 0,078). 
Nghiên cứu của tác giả J W Chung, cho thấy ở 
nhóm mổ nội soi sau mổ có 8 trường hợp (32%) 
xạ trị (1 trường hợp ở giai đoạn I, 6 trường hợp ở 
giai đoạn II, 1 trường hợp ở giai đoạn IV), không có 
trường hợp nào hóa trị hay mổ lại do u tái phát, còn 
trong nhóm mổ mở sau mổ có 20 trường hợp 
(44,4%) xạ trị (7 trường hợp ở giai đoạn I, 7 trường 
hợp ở giai đoạn II, 5 trường hợp ở giai đoạn III, 
1 trường hợp ở giai đoạn IV), 2 trường hợp (4,4%) 
hóa trị, không có trường hợp nào phải mổ do u 
tái phát. Khác biệt giữa hai nhóm không có ý nghĩa 
(p > 0,05)[5]. 
Tác giả J W Chung, cho rằng phẫu thuật cắt 
trọn u là yếu tố cơ bản trong phẫu thuật u tuyến ức. 
Tuy nhiên trong nghiên cứu của ông cho thấy việc 
áp dụng xạ trị bổ trợ cho cả những trường hợp ở 
giai đoạn sớm: giai đoạn I có 8 trường hợp (1 trường 
hợp ở nhóm mổ nội soi, 7 trường hợp ở nhóm mổ 
mở), ở giai đoạn II có 13 trường hợp (6 trường hợp 
ở nhóm mổ nội soi, 7 trường hợp ở nhóm mổ mở). 
Ngoài ra ở giai đoạn III có 5 trường hợp, giai đoạn 
IV có 2 trường hợp cần xạ trị bổ trợ. Có 2 trường 
hợp điều trị hóa trị bổ trợ[5]. 
Nghiên cứu của Tác giả Yu- Jen Cheng điều trị 
22 trường hợp u tuyến ức giai đoạn II (12 trường 
hợp mổ nội soi, 10 trường hợp mổ mở). Tác giả 
không điều trị xạ, hóa bổ trợ cho các trường hợp 
này[4]. 
Như vậy trong điều trị u tuyến ức việc sử dụng 
điều trị hỗ trợ ở nhóm mổ nội soi cũng tương tự như 
nhóm mổ mở. 
So sánh kết quả theo dõi 
Trong nghiên cứu về u tuyến ức ác tính, chúng 
tôi theo dõi đến thời điểm kết thúc nghiên cứu tháng 
9/2013. Thời gian theo dõi trung bình 20,54 ± 10,62 
tháng, ngắn nhất 2 tháng, lâu nhất 38 tháng. 
Ghi nhận kết quả, sau 3 tháng kết quả tốt ở cả 2 
nhóm. Sau 6 tháng có 1 trường hợp tái phát ở nhóm 
mổ nội soi còn ở nhóm mổ mở không có tái phát. 
Sau 12 tháng có 1 trường hợp tái phát ở nhóm mổ 
nội soi, không có trường hợp nào tái phát ở nhóm 
mổ mở. Tuy nhiên khác biệt không có ý nghĩa thống 
kê (p = 0,539 và p = 0,540). Phân tích 2 trường hợp 
tái phát này: 1 trường hợp u ở giai đoạn III, sau mổ 
bệnh nhân không tham gia điều trị xạ trị, sau 6 tháng 
u tái phát sau đó bệnh nhân được hóa trị và có kết 
quả tốt. Còn 1 trường hợp u ở giai đoạn II, sau mổ 
cắt trọn u theo dõi sau 12 tháng u tái phát được mổ 
lại và hóa trị sau đó, kết quả tốt. 
Qua đó cho thấy, đối với nhóm mổ mở các u 
tuyến ức chưa ghi nhận tái phát ngay cả ở giai đoạn 
III hay giai đoạn IV, còn trong nhóm mổ nội soi có 2 
trường hợp tái phát. Điều này có khác biệt, nhưng 
không có ý nghĩa thống kê. Cần có thời gian theo dõi 
lâu hơn và số lượng bệnh nhân nhiều hơn. 
Tác giả Chung J.W., nghiên cứu 70 trường hợp 
u tuyến ức (25 trường hợp mổ nội soi, 45 trường 
hợp mổ mở) không ghi nhận trường hợp nào tái phát 
trong thời gian theo dõi từ 5,5 đến 78,6 tháng (trung 
bình 51,7 ± 15,8 tháng). Tỉ lệ không tái phát ước tính 
sau 2 nĕm, 5 nĕm, 7 nĕm ở nhóm mổ nội soi là 
100%, 96% và 96%. Ở nhóm mổ mở tương ứng là 
98%, 95% và 95%. Khác biệt không có ý nghĩa 
thống kê. Tỉ lệ sống còn ước tính sau 2 nĕm, 5 nĕm, 
7 nĕm ở nhóm mổ nội soi là 100%, 100% và 100%. 
Còn ở nhóm mổ mở là 98%, 87% và 77%. Khác biệt 
có ý nghĩa (p = 0,033)[5]. 
Nghiên cứu của Tác giả Yu - Jen Cheng theo 
dõi trung bình 33,9 ± 19,7 tháng (từ 5,2 đến 63,5 
tháng) điều trị 22 trường hợp u tuyến ức giai đoạn II, 
không điều trị xạ, hóa bổ trợ. Ghi nhận không có 
trường hợp nào tái phát. Thời gian sống còn trung 
bình ở nhóm mổ nội soi và nhóm mổ mở là 
32,3 ± 22,0 tháng và 35,8 ± 17,5 tháng. Khác biệt 
không có ý nghĩa thống kê (p = 0,686)[4]. 
Như vậy đối với các trường hợp u tuyến ức giai 
đoạn I và giai đoạn II. Mổ nội soi có nhiều lợi điểm 
về kết quả trong, sau mổ hơn so với mổ mở. Kết quả 
sớm và trung hạn giữa 2 nhóm không khác biệt. 
Chúng tôi theo dõi đến 3/2019. Kết quả sau 
sống còn 5 nĕm giữa hai nhóm tương đồng. Tỉ lệ 
sống còn sau 5 nĕm đạt 84,3%. Như vậy với u tuyến 
ức, phẫu thuật mang lại hiệu quả cao, tỉ lệ sống còn 
sau 5 nĕm rất cao. 
Bàn về mổ nội soi với các loại u ác tính khác 
Trong nghiên cứu này, cho thấy u tuyến ức 
chiếm đa số. Trong đó nhóm mổ nội soi chỉ có 5 
trường hợp lymphoma, 1 trường hợp ung thư trung 
PHỔI - LỒNG NGỰC 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
197 
thất nguyên phát, 1 trường hợp sarcoma sụn. Còn 
nhóm mổ mở có 3 trường hợp lymphoma, 5 trường 
hợp ung thư trung thất nguyên phát, 3 trường hợp u 
tế bào mầm, 3 trường hợp u tế bào thần kinh nội tiết. 
Các trường hợp này u đáp ứng tốt với hóa trị nên 
sau mổ được hội chẩn khoa ung bướu điều trị hóa trị 
phối hợp. Cho đến thời điểm kết thúc nghiên cứu, 
không ghi nhận trường hợp nào tái phát. 
Tại cơ sở chúng tôi nghiên cứu, không thực 
hiện việc lấy mẫu mô bệnh học trước mổ nên 
phẫu thuật cũng là phương pháp lấy mô bệnh học. 
Như vậy, vai trò mổ nội soi và cả mổ mở là lấy trọn u 
làm giảm khối lượng tế bào u và lấy u xác định mô 
bệnh học. Việc điều trị hỗ trợ sau mổ là cần thiết. 
Chúng tôi theo dõi đến 3/2019. Kết quả sau 
sống còn 5 nĕm giữa hai nhóm tương đồng. 
Tuy nhiên tỉ lệ số còn sau 5 nĕm của cả hai nhóm là 
21,7% là khá thấp. 
KẾT LUẬN 
Kết quả ngắn hạn cho thấy phẫu thuật nội soi 
có khả nĕng cắt trọn các u trung thất. Kết quả chỉ ra 
rằng so với mổ mở thì phẫu thuật nội soi cắt trọn các 
u trung thất ác tính có nhiều lợi điểm như: thời gian 
mổ ngắn, ít mất máu, thời gian hậu phẫu ngắn, thời 
gian lưu ống dẫn lưu màng phổi ngắn, điểm đau sau 
mổ ít hơn. Tỉ lệ biến chứng ở nhóm mổ nội soi ít 
hơn. Theo dõi lâu dài giữa nhóm mổ nội soi và mổ 
mở là tương đồng. Tuy nhiên các u tuyến ức có tiên 
lượng sống còn sau 5 nĕm tốt hơn các u ác tính 
khác. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Nguyễn Công Minh (2011), "Quan điểm ung thư 
học trong điều trị u tuyến ức và bệnh nhược cơ". 
Tạp chí ung thư học Việt Nam, 3, tr. 170 - 176. 
2. Nguyễn Công Minh (2011) "Quan điểm ung thư 
học trong điều trị u tuyến ức và bệnh nhược cơ", 
Những tiến bộ mới trong điều trị bệnh nhược cơ. 
Nhà Xuất Bản Y Học, Chi nhánh TP. Hồ Chí 
Minh, tr. 123 - 151. 
3. Ahmad U., Detterbeck C. F. (2014) "Diagnostic 
Evaluation of Anterior Mediastinal Masses and 
Clinical and Surgical Approach to Thymic 
Tumors via Sternotomy", Mastery of 
Cardiothoracic Surgery. Lippincott Williams & 
Wilkin, Philadelphia, USA, pp. 124 - 133. 
4. Cheng Y.J., Kao E.L., Chou S.H. (2005), 
"Videothoracoscopic Resection of Stage II 
Thymoma: Prospective Comparison of the 
Results between Thoracoscopy and Open 
Methods.". American College of Chest 
Physicians, 128, pp. 3010 - 3012. 
5. Chung J. W., Kim H. R., Chun M. S., Kim Y. H., 
Park S. I., Kim S. R.,Lee D. H. (2012), "Long-
term Results of Thoracoscopic Thymectomy for 
Thymoma without Myasthenia Gravis". The 
Journal of International Medical Research, 40, 
pp. 1973 - 1981. 
6. Odaka M., Akiba T., Hiramatsu M., Matsudaira 
H., et al (2010 Apr), "Unilateral Thoracoscopic 
Subtotal Thymectomy for The Treatment of 
Stage I and II Thymoma". Eur J Cardiothorac 
Surg, 37, (4), pp. 824-826. 
7. Pierre R. Theodore., David Jablons. (2010) 
"Thoracic Wall, Pleura, Mediastinum, & Lung. 
Current Diagnosis & Treatment: Surgery, 
Thirteenth edition". The McGraw-Hill Companies, 
Inc., USA. 

File đính kèm:

  • pdfket_qua_lau_dai_mo_noi_soi_va_mo_mo_dieu_tri_mot_so_u_trung.pdf