Kết quả khảo sát ngừng tuần hoàn ngoại viện không do chấn thương tại bốn Bệnh viện ở Hà Nội theo mẫu Utstein

Nghiên cứu nhằm đánh giá thực trạng cấp cứu ngừng tuần hoàn ngoại viện và báo cáo theo mẫu Utstein

về kết cục của bệnh nhân ngừng tuần hoàn ngoại viện do nguyên nhân nội khoa. Đối tượng gồm những bệnh

nhân ngừng tuần hoàn ngoại viện do nguyên nhân nội khoa vào khoa Cấp cứu của một số bệnh viện trên

địa bàn Hà Nội. Đây là một nghiên cứu mô tả cắt ngang, cỡ mẫu bao gồm 239 bệnh nhân với tuổi trung bình

là 54,8 tuổi, tỷ lệ nam là 72%; 77% ngừng tuần hoàn ngoại viện xảy ra tại nhà; 64,9% có người chứng kiến,

trong đó có 85,2% người chứng kiến là người thân, 8,7% người chứng kiến thực hiện cấp cứu ngừng tuần

hoàn, 13,4% được vận chuyển bằng xe cấp cứu 115. Thời gian đáp ứng trung bình của đơn vị cấp cứu 115

là 22,4 ± 11,6 phút. Tỷ lệ sống khi xuất viện là 3,8%, 0,4% có kết cục thần kinh tốt, tỷ lệ sống theo mẫu báo

cáo Utstein là 10%. Nghiên cứu này cho thấy thực trạng dây chuyền cấp cứu ngừng tuần hoàn ngoại viện ở

khu vực Hà Nội còn nhiều hạn chế và kết cục cấp cứu ngừng tuần hoàn ngoại viện theo mẫu Ustein là thấp

pdf 8 trang phuongnguyen 260
Bạn đang xem tài liệu "Kết quả khảo sát ngừng tuần hoàn ngoại viện không do chấn thương tại bốn Bệnh viện ở Hà Nội theo mẫu Utstein", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Kết quả khảo sát ngừng tuần hoàn ngoại viện không do chấn thương tại bốn Bệnh viện ở Hà Nội theo mẫu Utstein

Kết quả khảo sát ngừng tuần hoàn ngoại viện không do chấn thương tại bốn Bệnh viện ở Hà Nội theo mẫu Utstein
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 134 (10) - 20208
KẾT QUẢ KHẢO SÁT NGỪNG TUẦN HOÀN NGOẠI VIỆN 
KHÔNG DO CHẤN THƯƠNG TẠI BỐN BỆNH VIỆN Ở HÀ NỘI 
THEO MẪU UTSTEIN 
Hoàng Bùi Hải1,2, , Vũ Đình Hùng², Đỗ Ngọc Sơn³
1Trường Đại học Y Hà Nội
2Bệnh viện Đại học Y Hà Nội
³Bệnh viện Bạch Mai
Nghiên cứu nhằm đánh giá thực trạng cấp cứu ngừng tuần hoàn ngoại viện và báo cáo theo mẫu Utstein 
về kết cục của bệnh nhân ngừng tuần hoàn ngoại viện do nguyên nhân nội khoa. Đối tượng gồm những bệnh 
nhân ngừng tuần hoàn ngoại viện do nguyên nhân nội khoa vào khoa Cấp cứu của một số bệnh viện trên 
địa bàn Hà Nội. Đây là một nghiên cứu mô tả cắt ngang, cỡ mẫu bao gồm 239 bệnh nhân với tuổi trung bình 
là 54,8 tuổi, tỷ lệ nam là 72%; 77% ngừng tuần hoàn ngoại viện xảy ra tại nhà; 64,9% có người chứng kiến, 
trong đó có 85,2% người chứng kiến là người thân, 8,7% người chứng kiến thực hiện cấp cứu ngừng tuần 
hoàn, 13,4% được vận chuyển bằng xe cấp cứu 115. Thời gian đáp ứng trung bình của đơn vị cấp cứu 115 
là 22,4 ± 11,6 phút. Tỷ lệ sống khi xuất viện là 3,8%, 0,4% có kết cục thần kinh tốt, tỷ lệ sống theo mẫu báo 
cáo Utstein là 10%. Nghiên cứu này cho thấy thực trạng dây chuyền cấp cứu ngừng tuần hoàn ngoại viện ở 
khu vực Hà Nội còn nhiều hạn chế và kết cục cấp cứu ngừng tuần hoàn ngoại viện theo mẫu Ustein là thấp. 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Từ khóa: Ngừng tuần hoàn ngoại viện, cấp cứu trước viện, Trung tâm 115, Hà Nội, Utstein.
Ngừng tuần hoàn ngoại viện (NTHNV) là 
vấn đề sức khoẻ toàn cầu với tỷ lệ tử vong rất 
cao ngay cả ở những nước phát triển.1,2 Chất 
lượng hệ thống cấp cứu trước viện có liên quan 
chặt chẽ với kết cục của bệnh nhân NTHNV. 
Hướng dẫn Utstein về cấp cứu NTHNV được 
đưa ra năm 1991, sau đó được cập nhật vào 
năm 2004. Hướng dẫn này đã đưa ra những 
tiêu chuẩn chung về các định nghĩa và mẫu báo 
cáo kết cục trong cấp cứu NTHNV.³ Qua đó các 
nghiên cứu trên toàn cầu có một mẫu chung để 
báo cáo và so sánh với nhau. Hiện nay, các báo 
cáo hàng năm của một số hệ thống dữ liệu lớn 
như CARES, PAROS về NTHNV đều sử dụng 
mẫu Utstein.4,5 Nhờ mẫu báo cáo này, chúng ta 
có thể so sánh chất lượng dây chuyền cấp cứu 
NTHNV của từng cộng đồng.
Việc triển khai nhanh chóng dây chuyền cấp 
cứu NTHNV theo hướng dẫn của hội tim Mạch 
Mỹ (AHA) giúp cải thiện tỷ lệ sống sót cho bệnh 
nhân trong cộng đồng, đặc biệt ở nhóm ngừng 
tuần hoàn do nguyên nhân nội khoa mà chủ yếu 
là nguyên nhân tim mạch. Mẫu báo cáo kết cục 
của bệnh nhân ngừng tuân hoàn ngoại viện của 
Utstein tập trung vào nhóm bệnh nhân ngừng 
tuần hoàn không do chấn thương và ngừng tuần 
hoàn do tim mạch.⁶
Ở Việt Nam, hầu hết bệnh nhân ngừng tuần 
hoàn ngoại viện vẫn được người chứng kiến 
đưa đến viện bằng phương tiện tư nhân, tỷ lệ 
Tác giả liên hệ: Hoàng Bùi Hải,
Trường Đại học Y Hà Nội
Email: [email protected]
Ngày nhận: 10/10/2020
Ngày được chấp nhận: 25/11/2020
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 134 (10) - 2020 9
người chứng kiến tiến hành hồi sinh tim phổi cơ 
bản cũng rất thấp.7,8 Chưa có một hệ thống dữ 
liệu đa trung tâm nào về thực trạng bệnh nhân 
ngừng tuần hoàn ngoại viện. Chúng tôi tiến hành 
nghiên cứu này nhằm đánh giá thực trạng tình 
hình cấp cứu ngoại viện và báo cáo kết cục của 
bệnh nhân NTHNV không do nguyên nhân chấn 
thương theo mẫu Utstein tại địa bàn Hà Nội.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
Gồm những bệnh nhân NTHNV do nguyên 
nhân nội khoa vào khoa Cấp cứu của một số 
bệnh viện trên địa bàn Hà Nội.
Tiêu chuẩn lựa chọn: 
- Tình trạng ngừng tuần hoàn xảy ra ngoài 
cơ sở y tế.
- Tình trạng ngừng tuần hoàn (mất ý thức, 
mất mạch cảnh và ngừng thở hoặc thở ngáp) 
được xác nhận bởi nhân viên y tế (bởi bác sĩ tại 
bệnh viện mà bệnh nhân chuyển đến hoặc bởi 
nhân viên y tế cấp cứu tại hiện trường).
- Bệnh nhân được vận chuyển trực tiếp đến 
một trong những bệnh viện tham gia nghiên 
cứu.
Tiêu chuẩn loại trừ:
- Tình huống ngừng tuần hoàn xảy ra khi 
có mặt nhân viện y tế đang làm nhiệm vụ hoặc 
ngừng tuần hoàn xảy ra trên xe cứu thương.
- Bệnh nhân ngừng tuần hoàn được chuyển 
từ cơ sở y tế khác đến.
- Bệnh nhân ngừng tuần hoàn ngoại viện 
do nguyên nhân chấn thương (ngã cao, tai nạn 
giao thông, tai nạn sinh hoạt)
- Không theo dõi được kết cục bệnh nhân 
khi xuất viện.
2. Phương pháp
Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt 
ngang hồi cứu.
Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 1 năm 2017 
đến tháng 6 năm 2019
Địa điểm nghiên cứu: Nghiên cứu được tiến 
hành tại bốn bệnh viện bao gồm Bệnh viện 
Bạch Mai, Bệnh viện Đại học Y Hà Nội, Bệnh 
viện đa khoa Nông nghiệp và Bệnh viện Thanh 
Nhàn. Đây là bốn bệnh viện đa khoa lớn trên 
địa bàn Hà Nội có đơn vị Cấp cứu và Hồi sức 
tích cực phát triển, với đủ trang thiết bị và khả 
năng để cấp cứu và hồi sức cho bệnh nhân 
ngừng tuần hoàn.
Phương pháp chọn mẫu và cỡ mẫu: Chọn 
mẫu tiện với cỡ mẫu thu được 239 bệnh nhân.
Thu thập số liệu: Dữ liệu được thu thập 
trong hồ sơ bệnh án của bệnh nhân và bản 
thông tin của đơn vị Cấp cứu 115 lưu trong hồ 
sơ (nếu có) và được điền vào bệnh án nghiên 
cứu soạn sẵn. Dữ liệu nghiên cứu gồm: đặc 
điểm tuổi giới và tiền sử của bệnh nhân; tình 
trạng trước ngừng tuần hoàn; đặc điểm người 
chứng kiến; cấp cứu ngừng tuần hoàn bởi 
người chứng kiến và nhân viên cấp cứu ngoại 
viện, thời gian phản ứng của đơn vị Cấp cứu 
115, nguyên nhân NTHNV. 
Kết cục của bệnh nhân sẽ được đánh 
giá theo thang điểm “Cerebral Performance 
Categories Scale (CPC Scale)” ngay tại thời 
điểm ra viện. Với kết cục thần kinh tốt là bệnh 
nhân có điểm CPC 1-2: bệnh nhân có cuộc 
sống hoàn toàn bình thường hoặc bệnh nhân 
tàn tật nhẹ, vẫn có thể tự chủ và độc lập đươc 
trong các sinh hoạt hàng ngày. 
Nhóm nghiên cứu có trách nhiêm thu thập 
số liệu là các bác sỹ đang trực tiếp làm việc tại 
khoa cấp cứu ở các bệnh viện tham gia nghiên 
cứu. Các định nghĩa về NTHNV được sử dụng 
theo tiêu chuẩn của Utstein.³
3. Xử lý số liệu
Số liệu thu thập được xử lý bằng phần mềm 
thống kê y học.
4. Đạo đức nghiên cứu
Nghiên cứu hồi cứu không làm ảnh hưởng 
đến qui trình điều trị cho bệnh nhân; danh tính, 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 134 (10) - 202010
thông tin bệnh nhân được giữ bí mật; nghiên cứu chỉ nhằm mục đích khoa học. 
III. KẾT QUẢ
Nghiên cứu đã thu thập được 239 bệnh nhân đủ tiêu chuẩn với 138 bệnh nhân ở bệnh viện Bạch 
Mai, 36 bệnh nhân ở Bệnh viện Đại học Y Hà Nội, 57 bệnh nhân ở Bệnh viện Đa khoa Nông nghiệp 
và 8 bệnh nhân ở Bệnh viện Thanh Nhàn.
Bảng 1. Đặc điểm chung của của bệnh nhân trong nghiên cứu
Số bệnh nhân Tỷ lệ phần trăm
Giới tính
Nam 172 72
Nữ 77 38
Tiền sử bệnh tật
Bình thường 54 22,6
Bệnh tim mạch 113 47,3
Xơ gan 21 8,8
Ung thư 16 6,7
Đái tháo đường 14 5,8
Khác 112 46,9
Trong nghiên cứu, nam giới chiếm đa số (72%). Tuổi trung bình của bệnh nhân trong nghiên cứu 
là 54,84 tuổi. Bệnh nhân ngừng tuần hoàn ngoại viện thường có tiền sử bệnh lý tim mạch chiếm 
47,3% bao gồm các rối loạn nhịp tim, suy tim, tăng huyết áp, bệnh lý mạch vành.
Bảng 2. Tình trạng ngừng tuần hoàn ngoại viện của bệnh nhân
Số bệnh nhân Tỷ lệ phần trăm
Đặc điểm người chứng kiến
Người thân 132 85,2
Đồng nghiệp 5 3,2
Bạn bè 9 5,8
Khác 9 5.8
Địa điểm xảy ra ngừng tuần hoàn
Nơi ở 184 77,0
Ngoài đường 9 3,8
Trường học 3 1,3
Trung tâm thể thao/ giải trí 4 1,7
Nơi làm việc 3 1,3
Khác 36 15,1
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 134 (10) - 2020 11
Hai phần ba trường hợp ngừng tuần hoàn trong nghiên cứu có người chứng kiến chiếm 64,9%. 
Trong số người chứng kiến, người thân của bệnh nhân chiếm 85,2 %. Địa điểm xảy ra ngừng tuần 
hoàn chủ yếu là tại nhà, chiếm 77%. 
Biểu đồ 1. Nguyên nhân ngừng tuần hoàn ngoại viện
Ngừng tuần hoàn do tim chỉ chiếm khoảng một phần ba số bệnh nhân. Hơn một nửa số bệnh 
nhân ngừng tuần hoàn ngoại viện không do nguyên nhân tim mạch.
Bảng 3. Thực trạng cấp cứu trước viện của bệnh nhân trong nghiên cứu
Số bệnh nhân Tỷ lệ phần trăm
Người chứng kiến gọi 115 38 15,9
Cấp cứu NTH bởi người chứng kiến 21 8,7
Cấp cứu NTH dưới hướng dẫn của người điều phối 0 0
Phương tiện vận chuyển bệnh nhân đến bệnh viên
Xe cấp cứu 32 13,4
Taxi 30 12,6
Xe ô tô tư nhân 108 45,2
Xe máy 3 1,3
Khác 2 0,8
Không rõ (không phải xe cấp cứu) 64 26,8
Chỉ có 15,9 % người chứng kiến gọi điện cho đơn vị cấp cứu ngoại viện 115 và chỉ có 13.4% bệnh 
nhân được vận chuyển đến bệnh viện bằng xe cấp cứu 115. Hầu hết người chứng kiến không tiến 
hành cấp cứu ngừng tuần hoàn cho nạn nhân tại hiện trường và sử dụng phương tiện vận chuyển 
tư nhân hoặc xe taxi để đưa bệnh nhân đến bệnh viện. Bệnh nhân không đươc ghi điện tim trước 
khi đến bệnh viện. Và khi bệnh nhân đến khoa cấp cứu, chỉ có 9,6% bệnh nhân có điện tim còn có 
thể sốc điện được (rung thất, nhịp nhanh thất). Thời gian phản ứng trung bình của đơn vị cấp cứu 
ngoại viện từ khi nhận cuộc gọi tới khi đến hiện trường là 22,4 ± 11,6 phút.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 134 (10) - 202012
Sơ đồ 1. Báo cáo kết cục của bệnh nhân NTHNV theo mẫu Utstein
IV. BÀN LUẬN
Trong nghiên cứu, tuổi trung bình của bệnh 
nhân là 54,84 ± 20,13; thấp hơn so với kết quả 
của các nghiên cứu ở các nước phát triển hơn 
như Nhật Bản là 71,7 tuổi; Hàn Quốc là 63,5 
tuổi; Malaysia là 57 tuổi và Singapore 63,5 
tuổi.⁵ Có thể do đặc điểm ở Việt Nam có dân số 
trẻ có tuổi thọ trung bình thấp hơn. Tỷ lệ bệnh 
nhân nam cao gấp đôi nữ, phù hợp với các 
nghiên cứu trước đây về NTHNV với tỷ lệ bệnh 
nhân nam thường cao hơn gấp hai đến ba lần 
so với nữ.4,5,10
Tiền sử bệnh lý tim mạch chiếm tỷ lệ cao 
nhất so với các nhóm bệnh lý khác, đây là nhóm 
bệnh lý có nguy cơ cao dẫn đến ngừng tuần 
hoàn đột ngột do đó bệnh nhân có bệnh lý tim 
mạch cần phải được tầm soát thường xuyên.
Nguyên nhân ngừng tuần hoàn của bệnh 
nhân trong nghiên cứu chủ yếu không do tim 
(chiếm 53,1%). Ngừng tuần hoàn do nguyên 
nhân tim mạch chiếm 37,7%, tương đương với 
kết quả nghiên cứu của Đặng Đức Hoàn năm 
2012 với tỷ lệ ngừng tuần hoàn do tim chiếm 
39,8%.⁸ Tỷ lệ ngừng tuần hoàn do tim thấp hơn 
so so với các nước có thu nhập cao như tại Mỹ 
chiếm 82,7% và tại một số nươc châu Á dao 
động từ 54,5% đến 81,1%.4,5 Có thể do mô hình 
bệnh tật ở Việt Nam với khi tỷ lệ bệnh lý hô hấp 
và nhiễm trùng vẫn cao hơn so với bệnh lý tim 
mạch. Hơn nữa, trong nghiên cứu nhiều trường 
hợp bệnh nhân tử vong sau khi cấp cứu ngừng 
tuần hoàn không thành công tại bệnh viện và 
sau đó gia đình bệnh nhân xin đưa bệnh nhân 
về nhà mà không làm giải phẫu tử thi nên khó 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 134 (10) - 2020 13
có thể đưa ra chẩn đoán nguyên nhân cụ thể 
gây ngừng tuần hoàn của bệnh.
 Tình huống ngừng tuần hoàn thông thường 
là xảy ra tại nơi ở (chiếm 77,0%) với người 
chứng kiến là người thân của bệnh nhân (chiếm 
85,2%). Ở những tình huống này, có sự hạn 
chế về phương tiện cũng như nguồn nhân lực 
hơn so với các địa điểm công cộng với nhiều 
người qua lại. Do đó, vai trò của người thân 
bệnh nhân vô cùng quan trọng trong việc nhận 
biết tình trạng bệnh nhân ngừng tuần hoàn và 
ngay lập tức khởi động dây chuyền cấp cứu 
ngừng tuần hoàn bằng gọi tới đơn vị cấp cứu 
ngoại viện và tiến hành hồi sinh tim phổi cơ bản 
cho nạn nhân trong thời gian chờ xe cấp cứu 
đến.
Tuy nhiên, chỉ có 15,9% người chứng kiến 
gọi điến tới đơn vị cấp cứu ngoại viện 115 và 
chỉ 8,7% người chứng kiến tiến hành hồi sinh 
tim phổi cho nạn nhân. Chưa được có hướng 
dẫn hồi sinh tim phổi từ người điều phối. So với 
các nghiên cứu ở những năm trước đây tại Hà 
Nội, không có sự cải thiện nào về tỷ lệ người 
chứng kiến hồi sinh tim phổi cho nạn nhân. 
Theo nghiên cứu của Đỗ Ngọc Sơn năm 2015, 
chỉ 12% NTHNV được người chứng kiến hồi 
sinh tim phổi.⁷ Kết quả này thấp so với nghiên 
cứu ở các nước ngay cả trong khu vực châu Á, 
như tại Thái Lan là 15,8%, Malaysia là 22,6%, 
Singapore là 24,3%.⁵ Đặc biệt ở các nước có 
thu nhập cao, tỷ lệ người chứng kiến hồi sinh 
tim phổi cho nạn nhân đã lên tới hơn 40% như 
tại Mỹ, Hàn Quốc, Nhật Bản.4,5,10
Ở các nước phát triển, khi đơn vị cấp cứu 
ngoại viện (EMS) có đầy đủ trang thiết bị và có 
thể tiếp cận nhanh chóng hiện trường, nên hầu 
hết bệnh nhân ngừng tuần hoàn ngoại viện đều 
được cấp cứu bởi đơn vị EMS.4,5 Ở Hà Nội đơn 
vị cấp cứu 115 chỉ có 22 xe cấp cứu và 5 trạm 
cấp cứu, phục vụ cấp cứu ngoại viện tất cả các 
trường hợp cấp cho một cộng đồng gần 10 
triệu người. Bởi vì hạn chế của đơn vị cấp cứu 
ngoại viện 115 như trên bao gồm do bao gồm 
tỷ lệ xe cấp cứu trong cộng đồng thấp, trang 
bị còn thiếu cùng với mật độ dân cư cao của 
thành phố Hà Nội nên thời gian phản ứng đơn 
vị cấp cứu ngoại viện trung bình còn chậm (hơn 
20 phút). Do đó, người chứng kiến có xu thế sử 
dụng các phương tiện tư nhân để vận chuyển 
bệnh nhân, với tỷ lệ sử dụng xe ô tô tư nhân 
trong nghiên cứu chiếm 45,2%, trong khi đó chỉ 
có 13,4% bệnh nhân được đưa tới bệnh viện 
bằng xe cấp cứu. 
Việc áp dụng chuỗi sống sót trong cấp cứu 
ngừng tuần hoàn ngoại viện đặc biệt có ý nghĩa 
trong nhóm bệnh nhân ngừng tuần hoàn do 
nguyên nhân nội khoa, có người chứng kiến và 
nhịp tim ban đầu là rung thất. Nếu bệnh nhân 
được hồi sinh tim phổi sớm bởi người chứng 
kiến, khử rung sớm tỷ thì đây là nhóm bệnh 
nhân có cơ hội sống sót cao nhất với tỷ lệ sống 
sót khi xuất viện có thể lên tới một phần ba số 
bệnh nhân. Tỷ lệ sống sót khi xuất viện ở nhóm 
bệnh nhân này theo tại Mỹ là 32,6%, và tại một 
số nước châu Á theo nghiên cứu PAROS là 
28%.⁵ Trong nghiên cứu của chúng tôi phần 
lớn tình huống xảy ra đối với bệnh nhân ngừng 
tuần hoàn là được người chứng kiến phát hiện 
ra, đưa đến viện bằng phương tiện vận chuyển 
thuận tiện nhất mà không có sự can thiệp nào 
trước viện. Chuỗi sống sót hầu như không 
được áp dụng cho bệnh nhân ngừng tuần hoàn 
ngoại viện trong nghiên cứu. Bệnh nhân ngừng 
tuần hoàn ngoại viện chỉ được ghi điện tim khi 
đã nhập viện vào khoa cấp cứu và chỉ có 9,6% 
trường hợp điện tim có thể sốc điện được. Do 
đó tỷ lệ sống sót theo mẫu báo cáo kết cục của 
Utstein trong nghiên cứu thấp, chỉ là 10% ở 
nhóm bệnh nhân ngừng tuân hoàn có người 
chứng kiến và nhịp tim ban đầu là rung thất. 
Dẫn đến kết cục chung của bệnh nhân trong 
nghiên cứu rất tồi với chỉ có 3,8% bệnh nhân 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 134 (10) - 202014
sống sót khi xuất viện và chỉ có duy nhất 1 bệnh 
nhân sống sót với kết cục thần kinh tốt (chiếm 
0,4%).
V. KẾT LUẬN
239 bệnh nhân ngừng tuần hoàn ngoại viện 
do nguyên nhân nội khoa được đưa vào khoa 
cấp cứu của bốn bệnh viện ở Hà Nội. Tỷ lệ 
bệnh nhân được hồi sinh tim phổi bởi người 
chứng kiến thấp (8,7%), tỷ lệ bệnh nhân được 
vận chuyển đến bệnh viện bằng xe cấp cứu 
thấp (13,4%) và thời gian phản ứng của đơn 
vị cấp cứu 115 lâu hơn so với các cộng đông 
khác. Kết cục của bệnh nhân ngừng tuần hoàn 
ngoại viện kém. Tỷ lệ sống sót khi xuất viện là 
3,8% với 0,4% bệnh nhân sống sót có kết cục 
thần kinh tốt, tỷ lệ sống sót theo mẫu báo cáo 
Utstein là 10%.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. American Heart Association. American 
Heart Association (AHA) guidelines update 
for CPR and Emergency Cardiovascular Care 
(ECC). Dallas, Texas: The Association; 2015.
2. Bryan MN, et al. Out of Hospital Cardiac 
Arrest Surveillance Cardiac Arrest Registry 
to Enhance Survival (CARES). Morbidity and 
mortality weekly report (MMWR). 2011; 60, 
No.8
3. Gavin D.P, Ian G.J, Vinay M.N, et 
al. Cardiac Arrest and Cardiopulmonary 
Resuscitation Outcome Reports: Update of 
the Utstein Resuscitation Registry Templates 
for Out-of-Hospital Cardiac Arrest. Circulation. 
2015; 131: 1286 - 1300.
4. Bryan MN, et al. The Cardiac Arrest 
Registry to Enhance Survival (CARES) 2017 
Annual Report. 
5. Ong M.H, et al. Outcomes for out-of-
hospital cardiac arrests across 7 countries in 
Asia: The Pan Asian Resuscitation Outcomes 
Study (PAROS). Resuscitation. 2015; 98,125-6
6. Monica E.K, Erin E.B, Zachary D.G, et al. 
Adult Basic Life support and Cardiopulmonary 
Resusciation Quality 2015 American 
Heart Association Guidelines Update for 
Cardiopulmonary Resuscitation and Emergency 
Cardiovascular Care. Circulation. 2015; 132, 
Issue 18 suppl 2
7. Đỗ Ngọc Sơn. Đặc điểm lâm sàng của 
bệnh nhân ngừng tuần hoàn ngoại viện nhập 
khoa Cấp Cứu- bệnh viện Bạch Mai. Tạp Chí Y 
Học Việt Nam. 2016; 440.
8. Đặng Đức Hoàn, Tô Văn Hải, Mai Mạnh 
Tâm và cs. Nhận xét về cấp cứu bệnh nhân 
ngừng tuần hoàn tại khoa cấp cứu bệnh viện 
Thanh Nhàn. Tạp chí Tim Mạch học Việt Nam. 
2012
9. Mickey E, Freddy K. L, Sang D.S. A Call 
to Establish a Global Resuscitation Alliance. 
This document summarizes a meeting on 
how to implement best practices in community 
resuscitation held on June 6 - 7, 2015 at the 
Utstein Abbey near Stavanger, Norway
10. Shinji Nakahara, Jun Tomio, Masao 
Ichikawa, et al. Association of Bystander 
interventions with neurologically intact survival 
among patients with bystander witnessed out of 
hospital cardiac arrest in Japan. JAMA. 2015; 
314, 3, 247 - 254.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 134 (10) - 2020 15
Summary
RESULT OF SURVEY ON NON-TRAUMATIC OUT OF HOSPITAL 
CARDIAC ARREST AT FOUR HOSPITALS IN HANOI
The study aimed to assess the reality of prehospital emergency chain on out of hospital cardiac 
arrest (OHCA) and report the outcome of OHCA patients due to non-traumatic causes according 
to the Utstein model. Subjects included patients with OHCA due to medical causes came in the 
Emergency Department at various hospitals around Hanoi city. This was a retrospective cross-
sectional study, subjects included 239 patients with an average of 54.8 years of age, 72% were 
male, 77% of OHCA occured at home; 64.9% were witnessed, of which 85.2% were witnessed by 
relative, 8.7% of the witnesses performed CPR, 13.4% were transported by ambulance 115. The 
average response time for emergency medical service 115 was 22.4± 11.6 min. Survival rate at 
discharge was 3.8%, 0.4% with good neurological outcomes, the survival rate according to Utstein 
report form was 10%. This study showed that the reality of emergency medical service chain for 
OHCA in Hanoi area was still limited and the emergency outcomes of OHCA as Ustein report was low. 
Key words: Out of Hospital Cardiac Arrest (OHCA), EMS, 115 Center, Hanoi, Utstein.

File đính kèm:

  • pdfket_qua_khao_sat_ngung_tuan_hoan_ngoai_vien_khong_do_chan_th.pdf