Kết quả giảm mẫn cảm thuốc chống lao hàng 1 gây dị ứng trên da

Dị ứng thuốc chống lao hàng 1 là một thách thức trong quá trình điều trị lao. Tuy nhiên có rất ít nghiên

cứu thực hiện để đánh giá hiệu quả của giảm mẫn cảm thuốc lao. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm

đánh giá hiệu quả của phương pháp giảm mẫn cảm thuốc chống lao hàng 1 đường uống. Nghiên cứu được

tiến hành trên 81 bệnh nhân lao phổi có chẩn đoán dị ứng thuốc lao, nhập viện tại khoa Lao hô hấp bệnh

viện Phổi Trung ương từ tháng 8/2018 đến tháng 6/2019. Loại trừ bệnh nhân sốc phản vệ, dị ứng nặng, hội

chứng SJS, Lyell, DRESS; có tình trạng co thắt đường thở không kiểm soát (FEV1 < 70%).="" 81="" bệnh="">

được làm test kích thích để nhận dạng thuốc gây dị ứng, trong đó 52 bệnh nhân với tổng cộng 63 lần được

giảm mẫn cảm theo phác đồ. 41 bệnh nhân (78,5%) thực hiện giảm mẫn cảm 1 thuốc, 11 bệnh nhân (21,5%)

giảm mẫn cảm 2 thuốc. Tỉ lệ giảm mẫn cảm thành công lần lượt từ cao tới thấp: EMB 87,5% (14/16 lần);

INH 80% (8/10 lần); PZA 75% (12/16 lần); RIF 70,6% (12/17 lần). Tỉ lệ giảm mẫn cảm thành công chung

cho tất cả các thuốc 79,4%. Thuốc kháng histamin được sử dụng 36 lần (57,1%), corticoid + kháng histamin

được sử dụng 9 lần (14,3%). 18 bệnh nhân (28,3%) không sử dụng kèm thuốc chống dị ứng khi giảm mẫn

cảm. 39 bệnh nhân (75%) giảm mẫn cảm thành công, sử dụng được đủ phác đồ điều trị và 13 bệnh nhân

(25%) thay thế phác đồ điều trị. Tóm lại, giảm mẫn cảm thuốc lao theo phác đồ có tỉ lệ thành công cao

pdf 10 trang phuongnguyen 240
Bạn đang xem tài liệu "Kết quả giảm mẫn cảm thuốc chống lao hàng 1 gây dị ứng trên da", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Kết quả giảm mẫn cảm thuốc chống lao hàng 1 gây dị ứng trên da

Kết quả giảm mẫn cảm thuốc chống lao hàng 1 gây dị ứng trên da
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
171TCNCYH 134 (10) - 2020
Tác giả liên hệ: Nguyễn Kim Cương, 
Trường Đại học Y Hà Nội
Email: [email protected]
Ngày nhận: 10/10/2020
Ngày được chấp nhận: 03/12/2020
Dị ứng thuốc là một trong những tác dụng 
không mong muốn - phản ứng bất lợi do thuốc 
(ADR). Biểu hiện dị ứng thuốc đa dạng, tổn 
thương nhiều cơ quan và khác nhau về thời 
gian và mức độ trầm trọng của bệnh. Nghiên 
cứu trên thế giới cũng như ở Việt Nam, phản 
ứng quá mẫn do thuốc điều trị lao dẫn tới 
ngừng điều trị hoặc thay đổi liệu pháp điều trị 
vào khoảng 4 - 5% bệnh nhân điều trị lao.1,2 Dị 
ứng thuốc chống lao biểu hiện ở nhiều mức độ, 
có thể tự ổn định, cho tới những trường hợp 
nặng như Shock phản vệ, các hội chứng Lyell, 
Steven - Johnson, hoặc gây viêm gan cấp, hoại 
tử tế bào gan, góp phần tăng nguy cơ kháng 
thuốc chống lao trong cộng đồng.3 Một số ít 
nghiên cứu trên thế giới đã đề cập đến vấn đề 
nhận dạng thuốc gây dị ứng và giảm mẫn cảm, 
tuy nhiên tại Việt Nam thì hầu như chưa có 
nghiên cứu cụ thể. Vì vậy chúng tôi tiến hành 
nghiên cứu này với mục tiêu: Đánh giá kết quả 
giảm mẫn cảm thuốc chống lao hàng 1 gây dị 
ứng trên da tại bệnh viện Phổi Trung ương.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng và phương pháp
Nghiên cứu cắt ngang 81 bệnh nhân tuổi ≥ 
18, được chẩn đoán lao phổi tại bệnh viện Phổi 
Trung ương từ tháng 8 năm 2018 đến tháng 6 
năm 2019, có phản ứng dị ứng trên da. Loại trừ 
bệnh nhân sốc phản vệ, dị ứng nặng, hội chứng 
SJS, Lyell, DRESS; có tình trạng co thắt đường 
thở không kiểm soát (FEV1 < 70%); bệnh nhân 
KẾT QUẢ GIẢM MẪN CẢM THUỐC CHỐNG LAO HÀNG 1 
GÂY DỊ ỨNG TRÊN DA 
Nguyễn Hoài Bắc1, Hoàng Tuấn1, 2,, Nguyễn Mạnh Thế1 và Nguyễn Kim Cương1, 2, 
1Bệnh viện Phổi Trung ương
2Trường Đại học Y Hà Nội
Dị ứng thuốc chống lao hàng 1 là một thách thức trong quá trình điều trị lao. Tuy nhiên có rất ít nghiên 
cứu thực hiện để đánh giá hiệu quả của giảm mẫn cảm thuốc lao. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm 
đánh giá hiệu quả của phương pháp giảm mẫn cảm thuốc chống lao hàng 1 đường uống. Nghiên cứu được 
tiến hành trên 81 bệnh nhân lao phổi có chẩn đoán dị ứng thuốc lao, nhập viện tại khoa Lao hô hấp bệnh 
viện Phổi Trung ương từ tháng 8/2018 đến tháng 6/2019. Loại trừ bệnh nhân sốc phản vệ, dị ứng nặng, hội 
chứng SJS, Lyell, DRESS; có tình trạng co thắt đường thở không kiểm soát (FEV1 < 70%). 81 bệnh nhân 
được làm test kích thích để nhận dạng thuốc gây dị ứng, trong đó 52 bệnh nhân với tổng cộng 63 lần được 
giảm mẫn cảm theo phác đồ. 41 bệnh nhân (78,5%) thực hiện giảm mẫn cảm 1 thuốc, 11 bệnh nhân (21,5%) 
giảm mẫn cảm 2 thuốc. Tỉ lệ giảm mẫn cảm thành công lần lượt từ cao tới thấp: EMB 87,5% (14/16 lần); 
INH 80% (8/10 lần); PZA 75% (12/16 lần); RIF 70,6% (12/17 lần). Tỉ lệ giảm mẫn cảm thành công chung 
cho tất cả các thuốc 79,4%. Thuốc kháng histamin được sử dụng 36 lần (57,1%), corticoid + kháng histamin 
được sử dụng 9 lần (14,3%). 18 bệnh nhân (28,3%) không sử dụng kèm thuốc chống dị ứng khi giảm mẫn 
cảm. 39 bệnh nhân (75%) giảm mẫn cảm thành công, sử dụng được đủ phác đồ điều trị và 13 bệnh nhân 
(25%) thay thế phác đồ điều trị. Tóm lại, giảm mẫn cảm thuốc lao theo phác đồ có tỉ lệ thành công cao. 
Từ khóa: dị ứng thuốc lao, ADR, giảm mẫn cảm
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
172 TCNCYH 134 (10) - 2020
có thai; bệnh nhân có tình trạng bệnh nền nặng (suy tim, suy thận, suy gan) 81 bệnh nhân này được 
phân loại theo các mức độ dị ứng (Bảng 1).4
Bảng 1. Các mức độ dị ứng trên da
Mức độ 1 Mức độ 2 Mức độ 3 Mức độ 4
Phản ứng 
của da - nổi 
ban
Ban chấm khu 
trú
Ban chấm, nốt 
sẩn rải rác hoặc 
ban sởi
Ban chấm, 
nốt sẩn rải 
rác hoặc ban 
dạng sởi với 
các nốt phỏng 
nước hoặc tổn 
thương loét bề 
mặt niêm mạc 
giới hạn tại một 
vị trí
Các tổn thương lan rộng 
hoặc toàn thân hoặc hội 
chứng Stevens - johnson, 
hoặc hội chứng Lyell
Phản ứng 
dị ứng toàn 
thân cấp tính
Nổi mày đay 
khu trú nhưng 
không cần chỉ 
định can thiệp y 
khoa
Nổi mày đay khu 
trú nhưng cần chỉ 
định can thiệp y 
khoa hoặc phù 
mạch không cần 
chỉ định can thiệp 
y khoa
Nổi mày đay 
toàn thân hoặc 
phù mạch cần 
chỉ định can 
thiệp y khoa 
hoặc bị co thắt 
phế quản nhẹ
Phản vệ hoặc co thắt phế 
quản nặng đe dọa tính 
mạng hoặc phù thanh 
quản, tổn thương viêm 
cầu thận/ hội chứng thận 
hư, viêm mạch lupus
Ngứa
Ngứa không 
gây hoặc ít gây 
ảnh hưởng tới 
các hoạt động 
chức năng và 
xã hội thông 
thường
Ngứa gây ra hạn 
chế hoạt động 
của chi hoặc gây 
ảnh hưởng nhiều 
hơn đến các hoạt 
động chức năng 
và xã hội thông 
thường
Ngứa gây mất 
khả năng thực 
hiện các hoạt 
động chức năng 
và xã hội thông 
thường
Không áp dụng
Sốt 37,7 - 38,6 oC 38,8 - 39,3oC 39,4 - 40,5oC > 40,5oC
Sau khi điều trị hết các phản ứng dị ứng, tiến hành nhận dạng thuốc gây dị ứng bằng test kích 
thích (Bảng 2). Test kích thích được cho là dương tính khi: Tổn thương da dạng mày đay (sẩn phù 
màu hồng đường kính tử vài mm đến vài cm, ranh giới khá rõ, hình tròn hoặc hình bầu dục), ngứa 
nhiều kèm theo các dấu hiệu khác: đau bụng, khó thở, đau khớp, chóng mặt, buồn nôn, sốt cao, giá 
trị men gan tăng > 2 lần giá trị bình thường; phù hợp về thời gian xảy ra phản ứng dị ứng5. Nếu test 
kích thích dương tính, điều trị khỏi tổn thương dị ứng, sau đó tiến hành giảm mẫn cảm theo phác đồ. 
Test kích thích được cho là âm tính khi không có các biểu hiện ngoài da. 81 bệnh nhân được làm 
test kích thích để nhận dạng thuốc gây dị ứng, trong đó 52 bệnh nhân với tổng cộng 63 lần được 
giảm mẫn cảm theo phác đồ. 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
173TCNCYH 134 (10) - 2020
Bảng 2. Hướng dẫn thực hiện nhận dạng thuốc gây dị ứng bằng test kích thích
Thứ tự thuốc 
Liều 1
 (ngày 1 )
Liều 2
 (ngày 2)
Liều 3
 (ngày 3)
Liều 4 
(ngày 4)
EMB 100mg 400mg 800mg - 1200mg 800 - 1200mg
INH 50mg 100mg 300mg 300 mg
RIF 75mg 150mg 300 - 450mg 450 - 600mg 
PZA 250mg 1000g 1500 - 2000mg 1500 - 2000mg 
TEST KÍCH THÍCH VỚI 4 ĐƠN CHẤT ÂM TÍNH
 TIẾN HÀNH TEST KÍCH THÍCH VỚI RHZ,RH
RHZ 312,5mg 625mg 1875 - 2500mg 1875 - 2500mg 
RH 125mg 250mg 750 - 1000mg 750 - 1000mg 
Giảm mẫn cảm áp dụng đối với trường hợp đã xác định được thuốc lao là căn nguyên gây nên 
tình trạng dị ứng và là những thuốc quan trọng trong phác đồ điều trị. Chống chỉ định tuyệt đối ở 
bệnh nhân có tiền sử sốc phản vệ, dị ứng nặng, phản ứng độc tế bào miễn dịch, bệnh da có bọng 
nước như hội chứng Steven - Johnson, Lyell, DRESS. Không thực hiện ở bệnh nhân có tình trạng 
co thắt đường thở không kiểm soát. 
Liều lượng: Bắt đầu bằng liều 1/10 000 – 1/100 liều điều trị. Tăng gấp đôi liều sau mỗi 15 - 20 
phút, tiến hành cho tới khi đạt liều điều trị6. Trong quá trình giảm mẫn cảm có thể xuất hiện các phản 
ứng dị ứng. Mức độ dị ứng phụ thuộc vào liều, tuy nhiên các phản ứng thường nhẹ hơn so với ban 
đầu và có thể tự mất đi sau khi tạm dừng giảm mẫn cảm mà không cần dùng các thuốc chống dị 
ứng. Bảng giảm mẫn cảm thuốc lao được xây dựng dựa trên nguyên tắc và đồng thuận của hội dị 
ứng châu Âu năm 2010.7
Bảng 3. Giảm mẫn thuốc Ethambutol
Lần
Thời gian 
dự kiến 
Pha 1 viên ethambutol 400mg vào 400ml 
nước cất, được dung dịch (A)
Giờ thực tế
Đã thực 
hiện
1 8:00 0, mg Lấy 1 ml (A) pha 
vào 10 ml nước 
cất, được dung 
dịch (B)
Uống 1 ml (B)
2 8:15 0,5 mg Uống 5 ml (B)
3 8:30 1 mg 1 ml (A)
4 8:45 2 mg 2 ml (A)
5 9:00 3 mg 3 ml (A)
6 9:15 6 mg 6 ml (A)
7 9:30 12 mg 12 ml (A) 
8 9:45 25 mg 25 ml (A)
9 10:00 50 mg 50 ml (A)
10 10:15 100 mg 100 ml (A) 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
174 TCNCYH 134 (10) - 2020
Lần
Thời gian 
dự kiến 
Pha 1 viên ethambutol 400mg vào 400ml 
nước cất, được dung dịch (A)
Giờ thực tế
Đã thực 
hiện
11 10:30 200 mg
200 ml (A) (uống hết chỗ còn lại 
của dung dịch A)
12 10:45 400 mg
Uống cả viên 400 mg (đối với liều 
800 mg – 2 viên) 
13 11:00 400 mg
Uống cả viên 400 mg (đối với liều 
1200mg - 3 viên) 
14 Ngày hôm sau: Chia tổng liều làm hai lần cách nhau 12h
Bảng 4. Giảm mẫn thuốc Isoniazid
Lần
Thời gian 
dự kiến 
Pha 1 viên Isoniazid 300 mg vào 300 ml nước 
cất, được dung dịch (A)
Giờ
thực tế
Đã thực
hiện
1 8:00 0,1 mg Pha 1 ml (A) vào 10 
ml nước cất, được 
dung dịch (B)
Uống 1 ml (B)
2 8:15 0,5 mg Uống 5 ml (B)
3 8:30 1,0 mg 1 ml (A)
4 8:45 2,0 mg 2 ml (A)
5 9:00 4,0 mg 4 ml (A)
6 9:15 8,0 mg 8 ml (A)
7 9:30 16 mg 16 ml (A) 
8 9:45 32 mg 32 ml (A) 
9 10:00 50 mg 50 ml (A)
10 10:15 100 mg 100 ml (A)
11 Pha 1 viên 300 mg vào 60 ml nước cất, được dung dịch (C)
12 10:30 100 mg
20 ml dung dịch (C) (dừng lại với tổng 
liều 300mg - 1 viên)
13 Ngày hôm sau: Tiếp tục 150mg mỗi 12h
Bảng 5. Giảm mẫn thuốc Rifampicin
Lần
Thời gian 
dự kiến
Pha 1 viên Rifampicin 300mg vào 300ml nước 
cất, được dung dịch (A)
Giờ thực 
tế
Đã thực 
hiện
1 8:00 0,1 mg Pha 1ml (A) với 
9ml nước cất, 
được dung dịch (B)
Uống 1ml (B)
2 8:15 0,5 mg Uống 5ml (B)
3 8:30 1,0 mg 1 ml (A)
4 8:45 2,0 mg 2 ml (A)
5 9:00 4,0 mg 4 ml (A)
6 9:15 8,0 mg 8 ml (A)
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
175TCNCYH 134 (10) - 2020
Lần
Thời gian 
dự kiến
Pha 1 viên Rifampicin 300mg vào 300ml nước 
cất, được dung dịch (A)
Giờ thực 
tế
Đã thực 
hiện
7 9:30 16 mg 16 ml (A)
8 9:45 32 mg 32 ml (A)
9 10:00 50 mg 50 ml (A)
10 10:15 100 mg 100 ml (A)
11 Pha 1 viên Rifampicin 300mg vào 60 ml nước cất, được dung dịch (C)
12 10:30 100 mg 20 ml (C)
13 10:45 150 mg
30 ml (C) (dừng lại với tổng liều 450mg 
– 1,5 viên)
14 Pha 1 viên 300mg Rifampicin với 60ml nước cất, được dung dịch (D)
15 11:00 150 mg 30 ml (D) (dừng lại với tổng liều 600mg - 2 viên)
16 Ngày hôm sau chia tổng liều thành 2 lần, mỗi lần cách nhau 12h
Bảng 6. Giảm mẫn thuốc Pyrazinamid
Lần
Thời gian 
dự kiến
Pha 1 viên Pyrazinamid 500mg vào 50ml 
nước cất. Lấy 25ml hỗn hợp đó pha vào 
475ml nước cất 
Giờ thực tế
Đã thực 
hiện
1 8:00 0,5 mg 1 ml
2 8:15 2,5 mg 5 ml
3 8:30 5 mg 10 ml
4 8:45 10 mg 20ml
5 9:00 20 mg 40ml
6 9:15 40 mg 80ml
7 9:30 80 mg 160ml 
8 Pha 3 viên Pyrazynamid 500mg vào 500 ml nước cất
9 9:45 90 mg 30 ml
10 10:00 150 mg 50 ml
11 10:15 300 mg 100 ml
12 10:30 350 mg 117 ml
13 10:45
450 mg (Dừng lại với tổng liều 
1500mg – 3 viên)
150ml 
14 11:00
500 mg (dừng lại với tổng liều 
2000 mg – 4 viên)
Uống cả 
viên không 
pha
15 Ngày hôm sau: Chia tổng liều làm hai lần cách nhau 12h
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
176 TCNCYH 134 (10) - 2020
2. Xử lý số liệu
Thu thập số liệu theo mẫu phiếu nghiên cứu, xử lí theo phương pháp thống kê y học, sử dụng 
phần mềm SPSS 21.0. Sử dụng test χ2 so sánh các tỉ lệ, sự khác nhau có ý nghĩa thống kê khi p < 
0,05.
3. Đạo đức nghiên cứu
Đề cương nghiên cứu đã được trình bày trước hội đồng khoa học và đao đức thuộc bệnh viện 
Phổi Trung ương. Bệnh nhân tự nguyện tham gia và ký giấy đồng ý tham gia nghiên cứu. Toàn bộ 
thông tin của bệnh nhân được bảo mật. 
III. KẾT QUẢ
Bảng 7. Kết quả test kích thích
Loại thuốc test 
kích thích
Test kích thích 
dương tính
Test kích
 thích âm tính
Không test
 kích thích
Tổng số
INH 11 (13,5%) 70 (86,5%) 0 (0%) 81
RIF 23 (28,4%) 58 (71,6%) 0 (0%) 81
ETH 16 (19,7%) 64 (79%) 1 (1,4%) 81
PZA 18 (22,2%) 61 (75,3%) 2 (2,5%) 81
Turbezid 11 (13,6%) 7 (8,6%) 63 (77,8%) 81
Turbe 1 (1,2%) 6 (7,4%) 74 (91,4%) 81
Tổng 80 266 346 lần test
Kết quả test kích thích với INH: dương tính 11 bệnh nhân chiếm 13,5%, âm tính 70 bệnh nhân 
chiếm tỷ lệ 86,5%. Kết quả test kích thích với RIF: dương tính 23 bệnh nhân chiếm 28,4%, âm tính 
58 bệnh nhân chiếm 71,6% . Kết quả test kích thích EMB: dương tính 16 bệnh nhân chiếm 19,7%, âm 
tính 64 bệnh nhân chiếm 79%. Kết quả test kích thích PZA: dương tính 18 bệnh nhân tỷ lệ 22,2%, âm 
tính 61 bệnh nhân chiếm 75,3%. Kết quả test kích thích Tuberzid (RHZ): dương tính 11 bệnh nhân 
chiếm 13,6%, âm tính 7 bệnh nhân chiếm 8,6%. Kết quả test kích thích Tuber (RH): dương tính 1 
bệnh nhân chiếm 1,2%, âm tính 6 bệnh nhân chiếm 7,4%. Như vậy trong các thuốc đơn chất, thuốc 
gây dị ứng nhiều nhất là RIF, tiếp theo là PZA, EMB và INH có tỉ lệ gây dị ứng thấp nhất.
Bảng 8. Kết quả giảm mẫn cảm
Loại thuốc GMC
GMC thành công GMC thất bại Tổng
n % n % n %
H 8 80 2 20 10 100
R 12 70,6 5 29,4 17 100
E 14 87,5 2 12,5 16 100
Z 12 75 4 25 16 100
RHZ 4 100 0 0 4 100
Tỷ lệ chung 50 79,4
13 
20,6
63 100
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
177TCNCYH 134 (10) - 2020
Trong số 63 lần giảm mẫn cảm, tỉ lệ giảm mẫn cảm thành công với EMB chiếm tỉ lệ cao nhất 87,5% 
(14/16 lần); tỉ lệ giảm mẫn cảm thành công với INH là 80% (8/10 lần); tỉ lệ giảm mẫn cảm thành công 
PZA 75% (12/16 lần). Tỉ lệ giảm mẫn cảm thành công RIF chiếm tỉ lệ thấp nhất 70,6% (12/17 lần). Tỉ lệ 
giảm mẫn cảm thành công chung cho tất cả các thuốc 79,4%.
Bảng 9. Tỉ lệ các thuốc chống dị ứng sử dụng giảm mẫn cảm
Loại thuốc chống dị ứng sử dụng GMC n %
Kháng histamin 36 57,1
Corticoid 0 0
Kháng histamin+corticoid 9 14,3
Không sử dụng thuốc chống dị ứng 18 28,6
Thuốc kháng histamin được sử dụng 36 lần chiếm tỉ lệ 57,1%, corticoid kết hợp kháng histamin 
được sử dụng 9 lần chiếm tỉ lệ 14,3%. 18 bệnh nhân chiếm tỉ lệ 28,3% không sử dụng kèm thuốc 
chống dị ứng khi giảm mẫn cảm.
Bảng 10. Tỉ lệ số thuốc giảm mẫn cảm
Giảm mẫn cảm 1 thuốc Giảm mẫn cảm 2 thuốc
Tổng
n % n %
41 78,5 11 21,5 52
Trên 52 bệnh nhân giảm mẫn cảm có 41 bệnh nhân chiếm tỉ lệ 78,5% thực hiện giảm mãn cảm 
1 thuốc, 11 bệnh nhân chiếm tỉ lệ 21,5% giảm mẫn cảm 2 thuốc
Bảng 11. Kết quả sau giảm mẫn cảm
Thành công Thay thế thuốc Tổng
n % n %
39 75 13 25 52
Trên 52 bệnh nhân giảm mẫn cảm có 39 bệnh nhân giảm mẫn cảm thành công, sử dụng được đủ 
phác đồ điều trị chiếm tỉ lệ 75% và 13 bệnh nhân thay thế phác đồ điều trị chiếm tỉ lệ 25%.
IV. BÀN LUẬN
Giảm mẫn cảm là thủ thuật làm thay đổi đáp 
ứng miễn dịch của bệnh nhân với một thuốc và 
tạo ra dung nạp tạm thời cho phép bệnh nhân 
bị dị ứng có thể dùng thuốc một cách an toàn. 
Mặc dù cơ chế giảm mẫn cảm trong quá mẫn 
muộn vẫn chưa rõ ràng, sự hoạt hóa tế bào 
T đặc hiệu đã được các tác giả nhắc tới trong 
giảm mẫn cảm thuốc lao. Giảm mẫn cảm thuốc 
lao đối với bệnh nhân dị ứng không qua trung 
gian IgE và không có thuốc thay thế được tiến 
hành rất thận trọng tại bệnh viện chúng tôi. Các 
phản ứng dị ứng xuất hiện sau khi giảm mẫn 
cảm hầu hết đều không nghiêm trọng, đa số 
đều có biểu hiện ban đỏ. Theo guideline của 
hội dị ứng, hen và miễn dịch Hoa Kì, chống chỉ 
định giảm mẫn cảm đối với một số trường hợp 
dị ứng nặng (SJS, TEN...). Tuy nhiên trên thế 
giới đã có một vài nghiên cứu tiến hành giảm 
mẫn cảm đối với những trường hợp này. Trong 
nghiên cứu của chúng tôi, chúng tôi loại trừ 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
178 TCNCYH 134 (10) - 2020
những trường hợp dị ứng nặng bởi nguy cơ lớn 
hơn rất nhiều so với lợi ích khi tiến hành thủ thuật. 
Các bệnh nhân có chỉ định giảm mẫn cảm 
thuốc lao có biểu hiện dị ứng trên da mức độ 
2 và mức độ 3. Các tỷ lệ thành công trên các 
loại thuốc đơn chất cụ thể như sau: INH thành 
công chiếm 80%, RIF tỷ lệ thành công chiếm 
70,6%, EMB tỷ lệ thành công chiếm 87,5%, 
PZA tỷ lệ thành công chiếm 75%. Như vậy tỷ 
lệ thành công trên các bênh nhân có biểu hiện 
di ứng trên da trong nghiên cứu của chúng tôi 
khá cao. Đây là một trong số ít các nghiên cứu 
giảm mẫn cảm thuốc lao thành công bằng phác 
đồ giảm mẫn cảm nhanh. Nhìn chung, hầu hết 
các nghiên cứu đều là báo cáo ca bệnh, một số 
ít là báo cáo chuỗi ca bệnh từ 10 đến 46 bệnh 
nhân theo phác đồ giảm mẫn cảm nhanh hoặc 
giảm mẫn cảm chậm. Nghiên cứu của Kobashi 
Y. và cộng sự (2019) báo cáo tỉ lệ thành công 
khi giảm mẫn cảm thuốc lao là 78,2% với phác 
đồ giảm mẫn cảm chậm. Nghiên cứu của Matz 
J. và cộng sự (1994) tiến hành giảm mẫn cảm 
nhanh trên 10 bệnh nhân với tỉ lệ thành công 
100%8. Nghiên cứu của chúng tôi có kết quả 
tương tự như Bernard Yu (2014), tiến hành giảm 
mẫn cảm trên 9 bệnh nhân, tỉ lệ giảm mẫn cảm 
thành công INH 78%.9 Nghiên cứu Siripassorn 
(2018), tỉ lệ chung giảm mẫn cảm thành công 
các thuốc chống lao hàng 1 là 78,9%.1 Trong 
nghiên cứu của chúng tôi 63 lần thực hiện giảm 
mẫn cảm ở 52 bệnh nhân có chỉ định giảm 
mẫn cảm. Trong đó thuốc kháng histamin được 
sử dụng 36 lần chiếm tỉ lệ cao nhất 57,1%, 
corticoid kết hợp kháng histamin được sử dụng 
9 lần chiếm tỉ lệ 14,3%. 18 bệnh nhân chiếm tỉ 
lệ 28,3% không sử dụng kèm thuốc chống dị 
ứng khi giảm mẫn cảm. Điều này cho thấy việc 
sử dụng kèm thuốc kháng histamin trong giảm 
mẫn cảm là cần thiết ở những bệnh nhân test 
kích thích dương tính có tổn thương da mức 
độ 2, mức độ 3. Với những bệnh nhân test kích 
thích dương tính tổn thương da mức độ 1 có 
thể tiến hành sử dụng kèm thuốc chống dị ứng 
hoặc thực hiện giảm mẫn cảm không sử dụng 
thuốc chống dị ứng. Tuy nhiên, hiện tại trên thế 
giới vẫn chưa có sự đồng thuận của các chuyên 
gia về vấn đề sử dụng thuốc kháng histamin hay 
corticoid trong quy trình giảm mẫn cảm.
Trong số 52 bệnh nhân tiến hành giảm mẫn 
cảm nhưng thực hiện giảm mẫn cảm 63 lần do 
có 11 bệnh nhân thực hiện giảm mẫn cảm 2 
thuốc và 41 bệnh nhân giảm mẫn cảm 1 thuốc. 
Điều này cho thấy bệnh nhân không chỉ dị ứng 
với 1 loại thuốc mà có thể dị ứng với nhiều hơn 
2 loại thuốc nên việc giảm mẫn cảm tiến hành 
nhiều lần với các loại thuốc hoặc nhiều lần với 1 
loại thuốc khiến thời gian điều trị kéo dài. 
Trong số 54 bệnh nhân dị ứng với duy nhất 
1 loại thuốc chống lao, có 41 bệnh nhân được 
giảm mẫn cảm, số bệnh nhân thành công là 31 
(75,6%). Trong 13 bệnh nhân dị ứng với 2 loại 
thuốc, có 11 bệnh nhân được giảm mẫn cảm, 
số bệnh nhân giảm mẫn cảm thành công là 8 
(72,7%). Tổng cộng, trên 52 bệnh nhân giảm 
mẫn cảm có 39 bệnh nhân giảm mẫn cảm 
thành công, sử dụng được đủ phác đồ điều trị 
chiếm tỉ lệ 75% và 13 bệnh nhân thay thế phác 
đồ điều trị chiếm tỉ lệ 25%. Nghiên cứu chúng 
tôi cho thấy hiệu quả việc giảm mẫn cảm, thực 
hiện test kích thích chiếm tỉ lệ thành công cao 
75%. Giảm mẫn cảm thành công giúp người 
bệnh sử dụng lại được phác đồ điều trị thuốc 
lao hàng 1, giảm tỉ lệ kháng thuốc, giảm chi phí 
điều trị khi phải điều trị thay thế thuốc. 
Tóm lại, nghiên cứu của chúng tôi cho thấy 
quy trình giảm mẫn cảm là một lựa chọn đối với 
những bệnh nhân điều trị lao bị dị ứng thuốc, 
kể cả những bệnh nhân dị ứng sớm hay dị ứng 
uống muộn sau 2 - 4 tuần dùng thuốc và không 
có thuốc nào thay thế. 
Nghiên cứu của chúng tôi có một số hạn 
chế: không đánh giá căn nguyên gây dị ứng 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
179TCNCYH 134 (10) - 2020
thuóc qua các xét nghiệm đặc hiệu; chưa khai 
thác thông tin về kết quả điều trị lao đối với 
bệnh nhân giảm mẫn cảm; quy trình giảm mẫn 
cảm không thể áp dụng đối với toàn bộ bệnh 
nhân lao bị dị ứng thuốc, cần cá thể hóa quy 
trình đối với những bệnh nhân bị dị ứng nặng. 
V. KẾT LUẬN
Phác đồ điều trị bệnh lao gồm nhiều thuốc 
phối hợp do đó khi xảy ra phản ứng dị ứng rất 
khó khăn trong chẩn đoán thuốc gây ra phản 
ứng. Giảm mẫn cảm thuốc lao theo phác đồ có 
tỉ lệ thành công cao.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Siripassorn K, Ruxrungtham K, Manosuthi 
W. Successful drug desensitization in patients 
with delayed - type allergic reactions to anti 
- tuberculosis drugs. International journal of 
infectious diseases : IJID : official publication 
of the International Society for Infectious 
Diseases. Mar 2018;68:61 - 68.
2. Nguyễn Văn Đoàn. Nghiên cứu dị ứng 
thuốc chống lao trên bệnh nhân lao điều trị nội 
trú tại viện lao và bệnh phổi trung ương. Tạp 
chí nghiên cứu y học. 2005;4:52 - 57.
3. Nguyễn Văn Đoàn. Dị ứng thuốc. Nhà 
xuất bản Y học; 2009.
4. Nguyễn Viết Nhung, Nguyễn Trọng 
Thông. Cẩm nang hướng dẫn sử dụng thuốc 
điều trị lao. Nhà xuất bản thanh niên; 2016.
5. Aberer W, Bircher A, Romano A, et al. 
Drug provocation testing in the diagnosis 
of drug hypersensitivity reactions: general 
considerations. Allergy. Sep 2003;58(9):854 - 
863.
6. Bộ y tế. Quyết định về việc ban hành 
hướng dẫn chẩn đoán, điều trị và dự phòng 
bệnh lao. 2018.
7. Cernadas JR, Brockow K, Romano A, et al. 
General considerations on rapid desensitization 
for drug hypersensitivity - a consensus 
statement. Allergy. Nov 2010;65(11):1357 - 
1366.
8. Matz J, Borish LC, Routes JM, 
Rosenwasser LJ. Oral desensitization to 
rifampin and ethambutol in mycobacterial 
disease. American journal of respiratory and 
critical care medicine. Mar 1994;149(3 Pt 
1):815 - 817.
9. Thong BY - H, Chia FL - A, Tan S - C, 
et al. A retrospective study on sequential 
desensitization - rechallenge for antituberculosis 
drug allergy. Asia Pac Allergy. 2014;4(3):156 - 
163.
Summary
OUTCOMES OF DRUGS DESENSITIZATION IN PATIENTS WITH 
ALLERGIC REACTIONS TO FIRST LINE ANTI-TUBERCULOSIS 
DRUGS
Delayed drug hypersensitivity to first-line anti-tuberculosis medication is a challenge during 
TB treatment. However, very few studies have been conducted to evaluate the effectiveness of 
desensitization. Our research is to evaluate the outcomes of the desensitization therapy in the 
treatment of first-line anti-tuberculosis drugs hypersensitivity. This was a cross-sectional study of 81 
pulmonary tuberculosis patients with signs and symptoms of hypersensitivity reactions, hospitalized 
and treated at the Department of Respiratory Tuberculosis of the National Lung Hospital from August 
2018 to June 2019. Excluded from the study were patients with anaphylaxis, severe allergy, SJS, 
Lyell syndrome, DRESS and uncontrolled obstructive airway (FEV1 < 70%). Drug provocation test 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
180 TCNCYH 134 (10) - 2020
was performed to determine the culprit, which were desensitized with rapid and graded challenge 
protocols. 41 patients (78.5%) were performed desensitization with only one drug, 11 patients 
(21.5%) were performed desensitization with 2 drugs. The rate of successful desensitization from 
high to low respectively: EMB 87.5% (14/16); INH 80% (8/10); PZA 75% (12/16); RIF 70.6% (12/17). 
The overall rate of successful desensitization for all drugs was 79.4%. Antihistamines were used 
in 36 turns (57.1%), corticosteroids associated with antihistamines were used in 9 turns (14.3%). 
39 patients (75%) were successfully desensitized. In conclusion, desensitization therapy to 
multiple antituberculosis medications for delayed drug hypersensitivity was safe and successful.
Keywords: allergic reactions to anti-tuberculosis drugs, ADR, desensitization.

File đính kèm:

  • pdfket_qua_giam_man_cam_thuoc_chong_lao_hang_1_gay_di_ung_tren.pdf