Kết quả điều trị thoát vị bẹn bằng phẫu thuật nội soi đặt mảnh ghép trước phúc mạc tại Bệnh viện Nhân dân 115
Mục tiêu: Nhận xét chỉ định, kỹ thuật phẫu thuật và đánh giá kết quả điều trị
thoát vị bẹn bằng phẫu thuật nội soi đặt mảnh ghép trước phúc mạc tại bệnh viện Nhân
Dân 115.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 73 bệnh nhân (BN) bị thoát vị bẹn được
chỉ định điều trị bằng phẫu thuật nội soi đặt mảnh ghép lớn ngả tiền phúc mạc. Nghiên
cứu tiến cứu, can thiệp, mô tả cắt ngang từ 08/2013 đến 07/2016.
Kết quả: Nam 72/73 BN (98,6%), tuổi trung bình 50,4, với thoát vị bẹn gián tiếp
86,3%, một bên 91,8%. Thời gian phẫu thuật trung bình 70,7 phút, hết đau vận động lại
sau mổ là 36,9 giờ, nằm viện là 2,7 ngày, sinh hoạt lại sau mổ là 7,0 ngày và trở lại làm
việc là 11,6 ngày. Tỉ lệ chuyển mổ mở là 5,5%. Biến chứng sau mổ đau bẹn bìu 3/73 BN
(4,4%), tụ dịch 3/73 BN (4,4%) và theo dõi 6 tháng sau mổ ghi nhận tái phát có 1/69 BN
(1,45%). Kết quả phẫu thuật ở mức độ tốt và khá là 98,6%.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Kết quả điều trị thoát vị bẹn bằng phẫu thuật nội soi đặt mảnh ghép trước phúc mạc tại Bệnh viện Nhân dân 115
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 13 - 3/2018 50 KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ THOÁT VỊ BẸN BẰNG PHẪU THUẬT NỘI SOI ĐẶT MẢNH GHÉP TRƯỚC PHÚC MẠC TẠI BỆNH VIỆN NHÂN DÂN 115 Nguyễn Quang Huy1, Mai Đức Hùng2 Tóm tắt Mục tiêu: Nhận xét chỉ định, kỹ thuật phẫu thuật và đánh giá kết quả điều trị thoát vị bẹn bằng phẫu thuật nội soi đặt mảnh ghép trước phúc mạc tại bệnh viện Nhân Dân 115. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 73 bệnh nhân (BN) bị thoát vị bẹn được chỉ định điều trị bằng phẫu thuật nội soi đặt mảnh ghép lớn ngả tiền phúc mạc. Nghiên cứu tiến cứu, can thiệp, mô tả cắt ngang từ 08/2013 đến 07/2016. Kết quả: Nam 72/73 BN (98,6%), tuổi trung bình 50,4, với thoát vị bẹn gián tiếp 86,3%, một bên 91,8%. Thời gian phẫu thuật trung bình 70,7 phút, hết đau vận động lại sau mổ là 36,9 giờ, nằm viện là 2,7 ngày, sinh hoạt lại sau mổ là 7,0 ngày và trở lại làm việc là 11,6 ngày. Tỉ lệ chuyển mổ mở là 5,5%. Biến chứng sau mổ đau bẹn bìu 3/73 BN (4,4%), tụ dịch 3/73 BN (4,4%) và theo dõi 6 tháng sau mổ ghi nhận tái phát có 1/69 BN (1,45%). Kết quả phẫu thuật ở mức độ tốt và khá là 98,6%. Kết luận: Phẫu thuật nội soi đặt mảnh ghép trước phúc mạc điều trị thoát vị bẹn có nhiều ưu điểm như thời gian nằm viện ngắn, nhanh bình phục để trở lại sinh hoạt và làm việc, ít biến chứng và tỉ lệ tái phát thấp, sẹo vết mổ thẩm mỹ, đa số kết quả phẫu thuật là khá và tốt. Từ khóa: Phẫu thuật nội soi ngả trước phúc mạc điều trị thoát vị bẹn. 1 Bệnh viện Nhân Dân 115 2 Học Viện Quân Y Người phản hồi (Corresponding): Nguyễn Quang Huy ([email protected]) Ngày nhận bài: 14/9/2017, ngày phản biện: 09/10/2017 Ngày bài báo được đăng: 30/3/2018 CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 51 Abstract THE SHORT-TERM RESULTS OF LAPAROSCOPIC TOTALLY EXTRAPERITONEAL INGUINAL HERNIA REPAIR WITH MESH AT PEOPLE HOSPITAL115 Objectives: To survey of clinical, subclinical symtoms of inguinal hernia patients were operated and technical surgery applied. To assess the surgical complications, and early recurrence in the first 6 months after surgery. Patients and methods: 73 hernial patients were operated with laparoscopic totally extraperitoneal inguinal hernioplasty, using large mesh, at the People Hospital 115 from August 2013 to July 2016 and followed up to 6 months to determine the rate of recurrence. Results: The average age of 50.4. Average surgery time 70.7 minutes. As a result, time to be astir is 36.87 hours, mean hospitalizing time of 2.7 days, time of activity is 7.0 days, and return to work time of 11.6 days. 4 patients have complications, laparoscopy success 94.5%. Only 3 patients have inguinal scrotal pain and 3 patients have postoperative seroma (4.4%). Recurrence 1/69 patients (1.5%). Success in good and fair grade is 98.6%. Conclusion: Laparoscopic totally extraperitoneal inguinal herniorraphy has high recovery rate, shorter hospital stay, faster return to work and activities, fewer complications and lower recurrence, in addition, cosmetic incision so the majority of patients are satisfied. Key words: laparoscopic totally extraperitoneal inguinal hernia repair (TEP). ĐẶT VẤN ĐỀ Thoát vị bẹn là tình trạng một tạng trong ổ bụng qua khu vực thành bụng yếu của ống bẹn hoặc do còn tồn tại ống phúc tinh mạc để xuống bìu. Theo thống kê trên thế giới thoát vị thành bụng chiếm khoảng 5% dân số, tỷ lệ giữa nam và nữ là 10:1 [24]. Khoảng 75% trường hợp thoát vị thành bụng xảy ra ở vùng bẹn, đùi. Mỗi năm ở Mỹ có khoảng 800.000 bệnh nhân (BN), ở Pháp hơn 100 000 bệnh nhân được phẫu thuật thoát vị bẹn [18],[23]. Có nhiều phương pháp phẫu thuật khác nhau để điều trị thoát vị bẹn. Phương pháp phẫu thuật dùng mô tự thân như Bassini, Mac Vay, Shouldice TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 13 - 3/2018 52 hay dùng mảnh ghép như Lichteinstein là các phương pháp kinh điển được áp dụng khá phổ biến[22]. Tuy nhiên, các phương pháp trên vẫn còn những hạn chế như tỉ lệ tái phát, tai biến, biến chứng vẫn còn[4]. Ngày nay với xu hướng sử dụng phương pháp phẫu thuật xâm lấn tối thiểu, trong đó phẫu thuật nội soi đặt mảnh ghép trước phúc mạc điều trị thoát vị bẹn được các tác giả trong và ngoài nước áp dụng cho kết quả khả quan, tỉ lệ tái phát 1 -3%[5],[14],[18]. Tại Việt Nam nghiên cứu về phương pháp này còn chưa nhiều, do vậy, chúng tôi nghiên cứu đề tài nhằm mục tiêu: Nhận xét chỉ định, kỹ thuật phẫu thuật nội soi đặt mảnh ghép trước phúc mạc điều trị thoát vị bẹn tại bệnh viện Nhân Dân 115. Đánh giá kết quả điều trị thoát vị bẹn bằng phẫu thuật nội soi đặt mảnh ghép trước phúc mạc. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. Đối tượng nghiên cứu: Bệnh nhân bị thoát vị bẹn, đùi, được điều trị phẫu thuật nội soi đặt mảnh ghép ngả tiền phúc mạc tại Khoa Ngoại Tổng Quát, Bệnh viện Nhân Dân 115 và theo dõi sau mổ cho tới 6 tháng. 2. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiến cứu, mô tả cắt ngang. Cỡ mẫu ước tính 62 bệnh nhân. Xử lý với SPSS 20.0. 3. Kỹ thuật vô cảm, phẫu thuật: Bệnh nhân được gây mê nội khí quản. Các thì phẫu thuật: Thì 1: Đặt trocar kính soi (10 mm), 2 trocar phẫu thuật (5mm, 11mm) Thì 2: Tìm, xử lí thoát vị. Thì 3: Đặt và cố định mảnh ghép Thì 4: Kiểm tra, rút dụng cụ, xả khí CO2, đóng lại vết mổ. 4. Các chỉ tiêu đánh giá: Mức độ đau, thời gian đau, thời gian nằm viện, thời gian trở lại sinh hoạt bình thường, thời gian trở lại làm việc, đánh giá các biến chứng sau mổ như tụ máu, tụ dịch, viêm tinh hoàn, thoát vị tái phát và nhiễm trùng mảnh ghép sau phẫu thuật tới 30 ngày. Bệnh nhân được dặn tái khám sau 6 tháng hoặc được chúng tôi điện thoại để đánh giá biến chứng, tái phát. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Từ 07/2013 đến 07/2016, tại BV Nhân Dân 115 chúng tôi đã phẫu thuật nội đặt mảnh ghép trước phúc mạc điều trị cho 73 BN bị thoát vị bẹn. 1. Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng Tuổi trung bình 50,4 ± 18,6 tuổi (18 – 88 tuổi), nam 72/73 (98,6%), nơi cư trú Tp.HCM 62%, các tỉnh 48%. CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 53 Bảng 1. Triệu chứng lâm sàng Triệu chứng Số BN Tỉ lệ (%) Thoát vị một bên Phải 40 64,8 Trái 27 37,0 Thoát vị hai bên 6 8,2 Khối phồng bẹn 67 91,8 Đau vùng bẹn 3 4,1 Đau, khối phồng bẹn 3 4,1 Siêu âm thấy khối thoát vị 54 76,1 Bảng 2. Phân loại thoát vị Loại thoát vị Số BN Tỉ lệ (%) Thoát vị bẹn gián tiếp 63 86,3 Thoát vị bẹn trực tiếp 5 6,8 Thoát vị bẹn hỗn hợp 4 5,5 Thoát vị đùi 1 1,4 2. Đặc điểm kỹ thuật phẫu thuật Thời gian phẫu thuật trung bình là 70,7 ± 37,8 phút (30 - 250 phút). Bảng 3. Thời gian phẫu thuật của phương pháp cắt và không CMG Phương pháp Số BN Nhanh nhất Lâu nhất Trung bình CMG 8 45 250 113,1± 82,9 Không CMG 61 30 120 65,2 ± 23,3 TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 13 - 3/2018 54 Bảng 4. Thời gian phẫu thuật của thoát vị bẹn một và hai bên Loại thoát vị Số BN Nhanh nhất Lâu nhất Trung bình Một bên 64 30 250 69,1 ± 39,0 Hai bên 5 70 120 89,0 ± 19,5 Bảng 5. Thời gian mổ tùy theo bên thoát vị Bên thoát vị Phải Trái 2 bên Thời gian mổ (phút) 73,0 ± 48,0 64,1 ± 22,8 89,0 ± 19,5 Bảng 6. Thời gian mổ tùy theo kiểu thoát vị Kiều thoát vị Gián tiếp Trực tiếp Hỗn hợp Thời gian mổ (phút) 72,7 ± 40,1 61,3 ± 14,4 45,0 Bảng 6. Thời gian trung tiện sau phẫu thuật Thời gian (giờ) Số BN Tỉ lệ (%) ≤ 24 67 87,1 > 24 2 2,9 Bảng 7. Thời gian vận động lại sau phẫu thuật Thời gian (giờ) Số BN Tỉ lệ % <36 45 65,2 36-72 20 29 >72 4 5,8 CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 55 Bảng 8. Mức độ đau sau mổ Mức độ đau Số BN Tỉ lệ (%) Đau nhẹ Đau vừa Đau nhiều 59 8 2 85,5 11,6 2,9 Thời gian nằm viện trung bình: 2,7 ± 2,0 ngày (1 - 13 ngày). Thời gian sinh hoạt lại bình thường trung bình là 7,0 ± 1,5 ngày. Thời gian trở lại làm việc bình thường 11,6 ± 5,5 ngày (5 - 30 ngày) Bảng 9. Tỉ lệ biến chứng trong thời gian nằm viện Biến chứng Số BN Tỉ lệ (%) Đau nhiều 2 2,9 Tụ dịch 2 2,9 Không 65 94,2 Bảng 10. Tỉ lệ biến chứng sau mổ 1 tháng Biến chứng Số BN Tỉ lệ (%) Tê chân 1 1,4 Đau bẹn bìu 3 4,3 Tụ dịch 3 4,3 Không 62 89,9 Bảng 11. Tỉ lệ biến chứng sau mổ 6 tháng Biến chứng Số BN Tỉ lệ (%) Đau bẹn bìu 3 4,3 Tràn dịch tinh mạc 2 2,9 Không 64 92,8 Tái phát: Có 1 BN tái phát (1,4%). TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 13 - 3/2018 56 Bảng 12. Tỉ lệ mức độ thành công của phẫu thuật Mức độ thành công Số BN Tỷ lệ Tốt Khá Trung bình Kém 64 4 0 1 92,8 5,8 0 1,4 BÀN LUẬN 1. Tuổi Kết quả này không khác biệt với kết quả của Trịnh Văn Thảo, tuổi trung bình 42,5 tuổi, bệnh nhân trên 40 tuổi chiếm 66,3% [9]. Theo Lê Huy Cường, tuổi trung bình 47,6 tuổi[1], theo Wang Y., Zhang X., tuổi trung bình là 48,7 tuổi[25]. Tuy nhiên, tuổi trung bình trong nghiên cứu của chúng tôi có khác biệt so với: Vương Thừa Đức, có tuổi trung bình 54,9 tuổi, bệnh nhân trên 40 tuổi chiếm 76,2%[2], Phạm Hữu Thông có tuổi trung bình là 56,1 tuổi[11], Lê Quốc Phong có tuổi trung bình 69,74 tuổi[6]. Các tác giả nước ngoài như: Palermo M. có tuổi trung bình là 55,5 tuổi[23], Guire C. I. có tuổi trung bình là 63 tuổi[16]. 2. Giới Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ giữa nam là 98,6% và nữ là 1,4%, tương tự với nghiên cứu của Vương Thừa Đức có tỉ lệ nam là 93,9%, nữ là 6,1%[2], Lê Huy Cường có tỉ lệ nam là 96,7%, nữ là 3,3%[1]. Phạm Hữu Thông (kỹ thuật TEP) có tỉ lệ nam là 93,3%, nữ là 6,7%[10]. Lê Quốc Phong có tỷ lệ nam là 98,3%, nữ là 1,7%[6]. Gourgiotis S. có tỉ lệ nam là 93,1%, nữ là 6,9%[17]. Guire C. I. có tỉ lệ nam là 98,5%, nữ là 1,5%[16]. 3. Vấn đề thoát vị một bên hay hai bên Trong nghiên cứu của chúng tôi thoát vị 2 bên chiếm: 11,11%. Kết quả có sự khác biệt với nghiên cứu của các tác giả khác như: Phạm Hữu Thông (2010), thoát vị 2 bên: 16%, Lương Minh Hải (2007), thoát vị 2 bên: 34,6%, Trịnh Văn Thảo thoát vị hai bên: 7,8%[9]. 4. Vai trò của siêu âm trong thoát vị bẹn Trong nghiên cứu của chúng tôi có 100% trường hợp thoát vị bẹn được siêu âm. Kết quả tất cả các trường hợp đều thấy hình ảnh của khối thoát vị nằm trong ống bẹn trong đó 76,1% thấy có túi TV, 16,9% chưa thấy bất thường và 7% có triệu chứng khác. Những trường hợp dãn tĩnh mạch tinh được chẩn đoán qua siêu âm trước phẫu thuật, nhưng không ghi CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 57 nhận cách xử lý trong khi phẫu thuật. 5. Phẫu thuật thành công và thất bại: PT nội soi thất bại do nhiều nguyên nhân: Thủng phúc mạc: có 2 trường hợp bị thủng phúc mạc trong quá trình thao tác, gây hẹp phẫu trường không thể tiếp tục làm nội soi được. Tai biến chảy máu trong phẫu thuật: có 1 trường hợp gặp tai biến này phải phẫu thuật hở cầm máu. Không giải quyết túi thoát vị được qua nội soi: còn 1 trường hợp trong lúc phẫu thuật phát hiện thấy tinh hoàn ẩn. 6. Kỹ thuật phẫu thuật Vị trí trocar kính soi: Như Meyer A. (2013)[21], và nhiều tác giả khác, những ca phẫu thuật thoát vị bẹn nội soi tại bệnh viện Nhân Dân 115 đều đặt trocar kính soi dưới rốn 1 cm, sau cơ thẳng bụng và trước lá cân sau. Vị trí trocar phẫu thuật: Có nhiều vị trí đặt trocar phẫu thuật, Lương Minh Hải[3] đặt 2 trocar phẫu thuật hợp với trocar kính soi thành tam giác đều. Meyer A. (2013)[ 21], Phạm Hữu Thông[12] trocar thứ nhất đặt tại điểm giữa mu và rốn, trocar thứ hai nằm ngay bờ trên xương mu. Tại bệnh viện Nhân Dân 115 có 73 ca đặt trocar phẫu thuật thứ nhất ở điểm giữa xương mu và rốn, trocar thứ 2 tại bờ trên xương mu, có 1 ca trocar thứ 3 được đặt ở giữa thẳng hàng 2 troars trên. Phẫu tích túi thoát vị: Thoát vị bẹn trực tiếp phẫu tích đơn giản, chỉ việc kéo ra khỏi lỗ thoát vị rồi đẩy trở lại ổ bụng. Thoát vị bẹn gián tiếp, phẫu tích túi thoát vị đi trong bao thớ thừng tinh phức tạp hơn, tay trái sử dụng kẹp kẹp túi thoát vị kéo lên sát thành bụng, tay phải dùng dụng cụ nhẹ nhàng phẫu tích túi thoát vị ra khỏi ống dẫn tinh và bó mạch tinh. Cột túi thoát vị lại bằng chỉ không tan hoặc kẹp bằng hemolock, cắt túi ở dưới chỗ cột chỉ gần sát lỗ bẹn sâu. Kỹ thuật đặt mảnh ghép: Để có thể đưa mảnh ghép được vào khoang ngoài phúc mạc, chúng tôi phải cuộn tròn mảnh ghép như cuộn điếu thuốc lá, và đưa qua lỗ trocar kính soi. Trải mảnh ghép sao cho bờ trong tại khớp mu, bờ ngoài tận gai chậu trước trên cùng bên , chồng lên thừng tinh. Mảnh ghép phải phẳng, không gấp mép, và ép sát vào thành bẹn trước và sau. Nếu thoát vị 2 bên, bờ trong 2 mảnh ghép phải chồng lên nhau ít nhất 1cm tại khớp mu. 7. Kết quả phẫu thuật Thời gian phẫu thuật Kết quả này không có sự khác biệt TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 13 - 3/2018 58 với Trịnh Văn Thảo: 64,54 phút[9], Verma N. 70,8 phút. Tuy nhiên có sự khác biệt với kết quả của Lương Minh Hải (2010)[3] là 79,87 phút, Phạm Hữu Thông (2003)[11] là 142 phút, do khâu cố định mảnh ghép làm kéo dài thời gian phẫu thuật. Các tác giả nước ngoài Meyer A. (2013)[22] có thời gian phẫu thuật 1 bên trung bình 38 phút, Vasiliadis A. (2015) là 45 phút[26], ngắn hơn so với nghiên cứu của chúng tôi. Thời gian nằm viện sau phẫu thuật Thời gian nằm viện sau phẫu thuật trung bình trong nghiên cứu của chúng tôi 2,74 ngày, Trịnh Văn Thảo là 3,8 ngày[9], Lương Minh Hải 2,38 ngày[3], Lê Quốc Phong 5,3 ngày với phương pháp TEP và 5,6 ngày với phương pháp Lichteinstein[6]. Thời gian trở lại sinh hoạt bình thường Chúng tôi nhận thấy các bệnh nhân hoàn toàn có thể sớm trở lại sinh hoạt như trước phẫu thuật. Tuy nhiên, sau phẫu thuật, tâm lý của người bệnh còn lo lắng và mong muốn nghỉ ngơi vài ngày sau phẫu thuật. Thời gian trở lại làm việc bình thường Tâm lý chung của bệnh nhân là lo lắng khối phồng sẽ xuất hiện trở lại như trước khi phẫu thuật. Vì vậy, người bệnh cũng chưa muốn trở lại công việc sớm hoặc trở lại nhưng làm những việc nhẹ nhàng hơn. Chúng tôi cũng ghi nhận 1 trường hợp bệnh nhân làm việc nặng hơn trước và cũng không thấy tái phát hay đau sau phẫu thuật (trước đây làm ruộng, sau đó làm bốc vác). Đánh giá kết quả sau phẫu thuật Đánh giá kết quả, chúng tôi dựa vào tiêu chuẩn của tác giả Trịnh Văn Thảo[9], Lê Quốc Phong[7]. Kết quả trong nghiên cứu của 69 BN chúng tôi: Kết quả tốt 64 TH (92,8%), khá 4 TH (5,8%) và kém 1 TH (1,4%). Trong 4 trường hợp khá là 3 ca tụ dịch, 2 ca đau sau phẫu thuật, nhưng không phải phẫu thuật lại. Không có ca nào bị rối loạn phóng tinh hoặc teo tinh hoàn. Trường hợp kém là trường hợp có tái phát, được phát hiện sau gần 4 tháng, phải nhập viện phẫu thuật lại theo Lichteinstein. Tái phát có thể do: - Phẫu tích không đủ, chưa đến vùng thoát vị, đánh giá chưa đúng các mốc giải phẫu. Tụ dịch, tụ máu. - Mảnh ghép bị cuộn lại thay vì trải thẳng, mảnh ghép nhỏ, che phủ không đủ vùng khiếm khuyết, mảnh ghép di chuyển... Theo dõi sau 6 tháng, chúng tôi CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 59 ghi nhận tái phát 1/69 TH (1,5%). Tính thẩm mỹ của phẫu thuật nội soi Điều trị thoát vị bẹn hai bên bằng phương pháp phẫu thuật nội soi hoàn toàn ngoài phúc mạc (TEP) chỉ cần đặt 3 trocar thẳng hàng tại đường giữa dưới rốn do đó chỉ có 3 vết sẹo có chiều dài tổng cộng khoảng 2 cm. KẾT LUẬN Qua nghiên cứu 73 bệnh nhân được phẫu thuật nội soi đặt mảnh ghép trước phúc mạc, chúng tôi kết luận như sau: Thoát vị đa số xảy ra ở nam giới, thường là thể gián tiếp với bên phải nhiều hơn bên trái. Thời gian phẫu thuật ghi nhận không cắt mảnh ghép sẽ làm nhanh hơn có cắt mảnh ghép, thoát vị 1 bên làm nhanh hơn 2 bên và thoát vị trực tiếp làm nhanh hơn gián tiếp, không gặp tai biến phẫu thuật. Đa số bệnh nhân được vận động sớm 24 giờ sau mổ, thời gian hồi phục sau mổ nhanh và đa số ra viện 2 ngày sau mổ. Tỉ lệ biến chứng 4,1% (đau và tụ dịch vết mổ). Biến chứng muộn đau bẹn bìu 1,5%, tụ dịch vết mổ 3,1%. Tỉ lệ tái phát 1,5%. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Lê Huy Cường, Nguyễn Thành Phúc, Hồ Nguyễn Hoàng, Trần Nguyễn Quang Trung (2015), “Kết quả sớm điều trị thoát vị bẹn bằng phẫu thuật nội soi hoàn toàn ngoài phúc mạc”, Kỷ yếu hội nghị khoa học bệnh viện An Giang 2015, tr. 36-43 2. Vương Thừa Đức, Dương Ngọc Thành (2011), “Đau mạn tính vùng bẹn đùi sau mổ thoát vị bẹn”, Y Học TP.Hồ Chí Minh, 15 (1), tr.115-123 3. Lương Minh Hải, Vương Thừa Đức (2010) “Đánh giá kỹ thuật đặt mảnh ghép hoàn toàn ngoài phúc mạc (NSNPM) trong điều trị thoát vị bẹn”, Y Học TP.Hồ Chí Minh, tr. 603-609. 4. Lê Quang Nghĩa (2016), “Tổng quan về mổ thoát vị bẹn”, Y Học TP.Hồ Chí Minh, tr. 59-63 5. Lê Quang Nghĩa (2016), “Lịch sử mổ nội soi”, Y Học TP.Hồ Chí Minh, tr.25-30 6. Lê Quốc Phong, Lê Mạnh Hà (2013), “Kết quả điều trị thoát vị bẹn bằng kỹ thuật Lichtenstein và nội soi ngoài phúc mạc”, Y Học Thực Hành (878), (8), tr. 56-59. 7. Lê Quốc Phong (2015), Đánh giá kết quả ứng dụng đặt tấm lưới nhân tạo theo phương pháp Lichtenstein điều trị thoát vị bẹn ở bệnh nhân từ 40 tuổi trở lên, Luận văn tiến sĩ y học Đai. Học Y TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 13 - 3/2018 60 Dược Huế 8. Nguyễn Đoàn Văn Phú (2015), Nghiên cứu ứng dụng điều trị phẫu thuật thoát vị bẹn bằng tấm lưới nhân tạo có nút, Luận văn tiến sĩ y học ĐH Y Dược Huế 9. Trịnh Văn Thảo (2010), Nghiên cứu ứng dụng phẫu thuật nội soi đặt mảnh ghép hoàn toàn ngoài phúc mạc trong điều trị thoát vị bẹn, Luận văn tiến sĩ y học Học Viện Quân Y 10. Phạm Hữu Thông, Đỗ Đình Công, Phan Tôn Ngọc Vũ (2010), “ Kết quả phẫu thuật nội soi ngoài phúc mạc điều trị thoát vị bẹn dưới gây tê tủy sống và gây mê, Tạp chí Y Học TP. Hồ Chí Minh, 14 (1), tr. 134-139. 11. Phạm Hữu Thông, Đỗ Đình Công, Nguyễn Anh Dũng, Nguyễn Thế Hiệp (2003), “Nhận xét kết quả ban đầu của phẫu thuật điều trị thoát vị bẹn qua ngả soi ổ bụng”, Tạp chí Y Học TP. Hồ Chí Minh, 7 (1), tr. 192-202 12. Phạm Hữu Thông, Đỗ Đình Công (2010), “Kết quả của phương pháp không cắt và cắt mảnh ghép cho thừng tinh chui qua trong phẫu thuật nội soi ngoài phúc mạc điều trị thoát vị bẹn”, Y Học TP. Hồ Chí Minh,14 (1), tr. 140-145 13. Bùi Trường Tèo (2010), Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả điều trị thoát vị bẹn bằng mổ mở đặt mảnh ghép theo Lichtenstein tại Cần Thơ, Luận văn chuyên khoa cấp II, Đại Học Y Dược Huế 14. Eklund A. (2011), “Laparoscopic or open inguinal hernia repair – which is best for the patient?”, Acta Universitatis Upsaliensis Uppsala, pp.11-53 15. Feldman L.S., Wexler M.J., and Fraser S.A. (2005), “laparoscopic hernia repair”, ACS Principles and Practice, pp.1-4 16. Guire C.I., Baigrie R.J., Theunissen Đ., Fernandes N.I., Chapmen I.R. (2012), “Outcome of laparoscopic inguinal hernia repair in a South African private practice setting”, SAJS, 50 (1), pp. 115-119 17. Gourgiotis S., Germanos S., Stratopoulos C., Moustafellos P.C., Panteli A., Hadjiyannakis E. (2006), “Lichteinstein tension-free repair of inguinal hernia”, Chiurgia, pp. 511-514 18. Hoizheimmer R.G. (2004), “First Results Of Lichtenstein Hernia Repair With Ultrapro®-Mesh As Cost Saving Procedure”, European journal of medical research, pp. 323-327 19. Kavic S.M (2013), “Laparoscopic versus open repair: CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 61 a superior approach to inguinal herniorrhaphy?”, OA Minimally Invasive Surgery, pp.1-4 20. Kulacoglu H. (2011), “Current options in inguinal hernia repair in adult patients”, Hippokratia, pp.223-231 21. Meyer A., Pierre Blanc, Jean Gabriel Balique, Masaya Kitamura (2013), “Laparoscopic totally extraperitoneal inguinal hernia repair”, Original Article Meyer. pp.32-36 22. Onuigbo W.I.B. and Njeze G.E. (2016), “Inguinal Hernia”, Journal of Surgery and Operative Care, 1 (2), pp. 1-10 23. Palermo M., Acquafresca P. A., Bruno M., Tarsitano F. (2015), Hernioplasty with and without Mesh: Analysis Of The Immediate Complications in A Randomized Controlled Clinical Trial, ABCD Arq Bras Cir Dig, pp. 157- 160 24. Thomas J.W. , Michael L. B. (2016), “Inguinal hernia”, The Washington Manual of surgery seventh Edition, pp. 706-729 25. Thomas J.W. , Michael L. B. (2016), “Inguinal hernia”, The Washington Manual of surgery seventh Edition, pp. 706-729 26. Wang Y., Zhang X. (2015), “Short-term results of open inguinal hernia repair with self-gripping Parietex ProGrip mesh in China: A Retrospective Study of 90 cases”, Asian Journal of Surgery, pp. 1-6 27. Zollinger (2011). “Repair of Inguinal Hernia, Laparoscopic Totally Extraperitoneal (TEP)”. Atlas of surgical operations. ninth Edition, pp. 430-435.
File đính kèm:
ket_qua_dieu_tri_thoat_vi_ben_bang_phau_thuat_noi_soi_dat_ma.pdf

