Kết quả điều trị thoát vị bẹn bằng phẫu thuật nội soi đặt mảnh ghép trước phúc mạc tại Bệnh viện Nhân dân 115

Mục tiêu: Nhận xét chỉ định, kỹ thuật phẫu thuật và đánh giá kết quả điều trị

thoát vị bẹn bằng phẫu thuật nội soi đặt mảnh ghép trước phúc mạc tại bệnh viện Nhân

Dân 115.

Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 73 bệnh nhân (BN) bị thoát vị bẹn được

chỉ định điều trị bằng phẫu thuật nội soi đặt mảnh ghép lớn ngả tiền phúc mạc. Nghiên

cứu tiến cứu, can thiệp, mô tả cắt ngang từ 08/2013 đến 07/2016.

Kết quả: Nam 72/73 BN (98,6%), tuổi trung bình 50,4, với thoát vị bẹn gián tiếp

86,3%, một bên 91,8%. Thời gian phẫu thuật trung bình 70,7 phút, hết đau vận động lại

sau mổ là 36,9 giờ, nằm viện là 2,7 ngày, sinh hoạt lại sau mổ là 7,0 ngày và trở lại làm

việc là 11,6 ngày. Tỉ lệ chuyển mổ mở là 5,5%. Biến chứng sau mổ đau bẹn bìu 3/73 BN

(4,4%), tụ dịch 3/73 BN (4,4%) và theo dõi 6 tháng sau mổ ghi nhận tái phát có 1/69 BN

(1,45%). Kết quả phẫu thuật ở mức độ tốt và khá là 98,6%.

pdf 12 trang phuongnguyen 280
Bạn đang xem tài liệu "Kết quả điều trị thoát vị bẹn bằng phẫu thuật nội soi đặt mảnh ghép trước phúc mạc tại Bệnh viện Nhân dân 115", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Kết quả điều trị thoát vị bẹn bằng phẫu thuật nội soi đặt mảnh ghép trước phúc mạc tại Bệnh viện Nhân dân 115

Kết quả điều trị thoát vị bẹn bằng phẫu thuật nội soi đặt mảnh ghép trước phúc mạc tại Bệnh viện Nhân dân 115
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 13 - 3/2018 
50
KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ THOÁT VỊ BẸN BẰNG PHẪU THUẬT NỘI 
SOI ĐẶT MẢNH GHÉP TRƯỚC PHÚC MẠC TẠI BỆNH VIỆN 
NHÂN DÂN 115
Nguyễn Quang Huy1, Mai Đức Hùng2
Tóm tắt
Mục tiêu: Nhận xét chỉ định, kỹ thuật phẫu thuật và đánh giá kết quả điều trị 
thoát vị bẹn bằng phẫu thuật nội soi đặt mảnh ghép trước phúc mạc tại bệnh viện Nhân 
Dân 115.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 73 bệnh nhân (BN) bị thoát vị bẹn được 
chỉ định điều trị bằng phẫu thuật nội soi đặt mảnh ghép lớn ngả tiền phúc mạc. Nghiên 
cứu tiến cứu, can thiệp, mô tả cắt ngang từ 08/2013 đến 07/2016.
Kết quả: Nam 72/73 BN (98,6%), tuổi trung bình 50,4, với thoát vị bẹn gián tiếp 
86,3%, một bên 91,8%. Thời gian phẫu thuật trung bình 70,7 phút, hết đau vận động lại 
sau mổ là 36,9 giờ, nằm viện là 2,7 ngày, sinh hoạt lại sau mổ là 7,0 ngày và trở lại làm 
việc là 11,6 ngày. Tỉ lệ chuyển mổ mở là 5,5%. Biến chứng sau mổ đau bẹn bìu 3/73 BN 
(4,4%), tụ dịch 3/73 BN (4,4%) và theo dõi 6 tháng sau mổ ghi nhận tái phát có 1/69 BN 
(1,45%). Kết quả phẫu thuật ở mức độ tốt và khá là 98,6%.
Kết luận: Phẫu thuật nội soi đặt mảnh ghép trước phúc mạc điều trị thoát vị bẹn 
có nhiều ưu điểm như thời gian nằm viện ngắn, nhanh bình phục để trở lại sinh hoạt và 
làm việc, ít biến chứng và tỉ lệ tái phát thấp, sẹo vết mổ thẩm mỹ, đa số kết quả phẫu 
thuật là khá và tốt.
Từ khóa: Phẫu thuật nội soi ngả trước phúc mạc điều trị thoát vị bẹn.
1 Bệnh viện Nhân Dân 115
2 Học Viện Quân Y
Người phản hồi (Corresponding): Nguyễn Quang Huy ([email protected])
Ngày nhận bài: 14/9/2017, ngày phản biện: 09/10/2017
Ngày bài báo được đăng: 30/3/2018
CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 
51
Abstract
THE SHORT-TERM RESULTS OF LAPAROSCOPIC TOTALLY 
EXTRAPERITONEAL INGUINAL HERNIA REPAIR WITH MESH 
AT PEOPLE HOSPITAL115
Objectives: To survey of clinical, subclinical symtoms of inguinal hernia patients 
were operated and technical surgery applied. To assess the surgical complications, and 
early recurrence in the first 6 months after surgery.
Patients and methods: 73 hernial patients were operated with laparoscopic 
totally extraperitoneal inguinal hernioplasty, using large mesh, at the People Hospital 
115 from August 2013 to July 2016 and followed up to 6 months to determine the rate 
of recurrence.
Results: The average age of 50.4. Average surgery time 70.7 minutes. As 
a result, time to be astir is 36.87 hours, mean hospitalizing time of 2.7 days, time of 
activity is 7.0 days, and return to work time of 11.6 days. 4 patients have complications, 
laparoscopy success 94.5%. Only 3 patients have inguinal scrotal pain and 3 patients 
have postoperative seroma (4.4%). Recurrence 1/69 patients (1.5%). Success in good 
and fair grade is 98.6%.
Conclusion: Laparoscopic totally extraperitoneal inguinal herniorraphy has 
high recovery rate, shorter hospital stay, faster return to work and activities, fewer 
complications and lower recurrence, in addition, cosmetic incision so the majority of 
patients are satisfied.
Key words: laparoscopic totally extraperitoneal inguinal hernia repair (TEP).
ĐẶT VẤN ĐỀ
Thoát vị bẹn là tình trạng một 
tạng trong ổ bụng qua khu vực thành bụng 
yếu của ống bẹn hoặc do còn tồn tại ống 
phúc tinh mạc để xuống bìu. Theo thống 
kê trên thế giới thoát vị thành bụng chiếm 
khoảng 5% dân số, tỷ lệ giữa nam và nữ là 
10:1 [24]. Khoảng 75% trường hợp thoát 
vị thành bụng xảy ra ở vùng bẹn, đùi. Mỗi 
năm ở Mỹ có khoảng 800.000 bệnh nhân 
(BN), ở Pháp hơn 100 000 bệnh nhân được 
phẫu thuật thoát vị bẹn [18],[23]. 
Có nhiều phương pháp phẫu 
thuật khác nhau để điều trị thoát vị bẹn. 
Phương pháp phẫu thuật dùng mô tự 
thân như Bassini, Mac Vay, Shouldice 
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 13 - 3/2018 
52
hay dùng mảnh ghép như Lichteinstein 
là các phương pháp kinh điển được áp 
dụng khá phổ biến[22]. Tuy nhiên, các 
phương pháp trên vẫn còn những hạn chế 
như tỉ lệ tái phát, tai biến, biến chứng vẫn 
còn[4]. Ngày nay với xu hướng sử dụng 
phương pháp phẫu thuật xâm lấn tối thiểu, 
trong đó phẫu thuật nội soi đặt mảnh 
ghép trước phúc mạc điều trị thoát vị bẹn 
được các tác giả trong và ngoài nước áp 
dụng cho kết quả khả quan, tỉ lệ tái phát 
1 -3%[5],[14],[18]. Tại Việt Nam nghiên 
cứu về phương pháp này còn chưa nhiều, 
do vậy, chúng tôi nghiên cứu đề tài nhằm 
mục tiêu:
Nhận xét chỉ định, kỹ thuật phẫu 
thuật nội soi đặt mảnh ghép trước phúc 
mạc điều trị thoát vị bẹn tại bệnh viện 
Nhân Dân 115.
Đánh giá kết quả điều trị thoát vị 
bẹn bằng phẫu thuật nội soi đặt mảnh ghép 
trước phúc mạc.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP 
NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu: Bệnh 
nhân bị thoát vị bẹn, đùi, được điều trị 
phẫu thuật nội soi đặt mảnh ghép ngả 
tiền phúc mạc tại Khoa Ngoại Tổng Quát, 
Bệnh viện Nhân Dân 115 và theo dõi sau 
mổ cho tới 6 tháng.
2. Phương pháp nghiên cứu:
Nghiên cứu tiến cứu, mô tả cắt 
ngang. Cỡ mẫu ước tính 62 bệnh nhân.
Xử lý với SPSS 20.0.
3. Kỹ thuật vô cảm, phẫu thuật: 
Bệnh nhân được gây mê nội khí 
quản. 
Các thì phẫu thuật:
Thì 1: Đặt trocar kính soi (10 
mm), 2 trocar phẫu thuật (5mm, 11mm)
Thì 2: Tìm, xử lí thoát vị.
Thì 3: Đặt và cố định mảnh ghép 
Thì 4: Kiểm tra, rút dụng cụ, xả 
khí CO2, đóng lại vết mổ.
4. Các chỉ tiêu đánh giá: Mức 
độ đau, thời gian đau, thời gian nằm viện, 
thời gian trở lại sinh hoạt bình thường, 
thời gian trở lại làm việc, đánh giá các 
biến chứng sau mổ như tụ máu, tụ dịch, 
viêm tinh hoàn, thoát vị tái phát và nhiễm 
trùng mảnh ghép sau phẫu thuật tới 30 
ngày. Bệnh nhân được dặn tái khám sau 
6 tháng hoặc được chúng tôi điện thoại để 
đánh giá biến chứng, tái phát.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Từ 07/2013 đến 07/2016, tại BV 
Nhân Dân 115 chúng tôi đã phẫu thuật nội 
đặt mảnh ghép trước phúc mạc điều trị cho 
73 BN bị thoát vị bẹn.
1. Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng
Tuổi trung bình 50,4 ± 18,6 tuổi 
(18 – 88 tuổi), nam 72/73 (98,6%), nơi cư 
trú Tp.HCM 62%, các tỉnh 48%.
CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 
53
Bảng 1. Triệu chứng lâm sàng
Triệu chứng Số BN Tỉ lệ (%)
Thoát vị một bên
Phải 40 64,8
Trái 27 37,0
Thoát vị hai bên 6 8,2
Khối phồng bẹn 67 91,8
Đau vùng bẹn 3 4,1
Đau, khối phồng bẹn 3 4,1
Siêu âm thấy khối thoát vị 54 76,1
Bảng 2. Phân loại thoát vị
Loại thoát vị Số BN Tỉ lệ (%)
Thoát vị bẹn gián tiếp 63 86,3
Thoát vị bẹn trực tiếp 5 6,8
Thoát vị bẹn hỗn hợp 4 5,5
Thoát vị đùi 1 1,4
2. Đặc điểm kỹ thuật phẫu thuật
Thời gian phẫu thuật trung bình là 70,7 ± 37,8 phút (30 - 250 phút).
Bảng 3. Thời gian phẫu thuật của phương pháp cắt và không CMG
Phương pháp Số BN Nhanh nhất Lâu nhất Trung bình
CMG 8 45 250 113,1± 82,9
Không CMG 61 30 120 65,2 ± 23,3
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 13 - 3/2018 
54
Bảng 4. Thời gian phẫu thuật của thoát vị bẹn một và hai bên 
Loại thoát vị Số BN Nhanh nhất Lâu nhất Trung bình
Một bên 64 30 250 69,1 ± 39,0
Hai bên 5 70 120 89,0 ± 19,5
Bảng 5. Thời gian mổ tùy theo bên thoát vị
Bên thoát vị Phải Trái 2 bên
Thời gian mổ (phút) 73,0 ± 48,0 64,1 ± 22,8 89,0 ± 19,5
Bảng 6. Thời gian mổ tùy theo kiểu thoát vị
Kiều thoát vị Gián tiếp Trực tiếp Hỗn hợp
Thời gian mổ (phút) 72,7 ± 40,1 61,3 ± 14,4 45,0
Bảng 6. Thời gian trung tiện sau phẫu thuật
Thời gian (giờ) Số BN Tỉ lệ (%)
≤ 24 67 87,1
> 24 2 2,9
Bảng 7. Thời gian vận động lại sau phẫu thuật
Thời gian (giờ) Số BN Tỉ lệ %
<36 45 65,2
36-72 20 29
>72 4 5,8
CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 
55
Bảng 8. Mức độ đau sau mổ
Mức độ đau Số BN Tỉ lệ (%)
Đau nhẹ
Đau vừa
Đau nhiều
59
8
2
85,5
11,6
2,9
Thời gian nằm viện trung bình: 2,7 ± 2,0 ngày (1 - 13 ngày).
Thời gian sinh hoạt lại bình thường trung bình là 7,0 ± 1,5 ngày.
Thời gian trở lại làm việc bình thường 11,6 ± 5,5 ngày (5 - 30 ngày)
Bảng 9. Tỉ lệ biến chứng trong thời gian nằm viện
Biến chứng Số BN Tỉ lệ (%)
Đau nhiều 2 2,9
Tụ dịch 2 2,9
Không 65 94,2
Bảng 10. Tỉ lệ biến chứng sau mổ 1 tháng
Biến chứng Số BN Tỉ lệ (%)
Tê chân 1 1,4
Đau bẹn bìu 3 4,3
Tụ dịch 3 4,3
Không 62 89,9
Bảng 11. Tỉ lệ biến chứng sau mổ 6 tháng
Biến chứng Số BN Tỉ lệ (%)
Đau bẹn bìu 3 4,3
Tràn dịch tinh mạc 2 2,9
Không 64 92,8
Tái phát: Có 1 BN tái phát (1,4%).
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 13 - 3/2018 
56
Bảng 12. Tỉ lệ mức độ thành công của phẫu thuật
Mức độ thành công Số BN Tỷ lệ
Tốt
Khá
Trung bình
Kém
64
4
0
1
92,8
5,8
0
1,4
BÀN LUẬN
1. Tuổi
Kết quả này không khác biệt với 
kết quả của Trịnh Văn Thảo, tuổi trung 
bình 42,5 tuổi, bệnh nhân trên 40 tuổi 
chiếm 66,3% [9]. Theo Lê Huy Cường, 
tuổi trung bình 47,6 tuổi[1], theo Wang Y., 
Zhang X., tuổi trung bình là 48,7 tuổi[25].
Tuy nhiên, tuổi trung bình trong 
nghiên cứu của chúng tôi có khác biệt so 
với: Vương Thừa Đức, có tuổi trung bình 
54,9 tuổi, bệnh nhân trên 40 tuổi chiếm 
76,2%[2], Phạm Hữu Thông có tuổi trung 
bình là 56,1 tuổi[11], Lê Quốc Phong có 
tuổi trung bình 69,74 tuổi[6]. Các tác giả 
nước ngoài như: Palermo M. có tuổi trung 
bình là 55,5 tuổi[23], Guire C. I. có tuổi 
trung bình là 63 tuổi[16].
2. Giới
Trong nghiên cứu của chúng tôi, 
tỷ lệ giữa nam là 98,6% và nữ là 1,4%, 
tương tự với nghiên cứu của Vương Thừa 
Đức có tỉ lệ nam là 93,9%, nữ là 6,1%[2], 
Lê Huy Cường có tỉ lệ nam là 96,7%, nữ là 
3,3%[1]. Phạm Hữu Thông (kỹ thuật TEP) 
có tỉ lệ nam là 93,3%, nữ là 6,7%[10]. Lê 
Quốc Phong có tỷ lệ nam là 98,3%, nữ 
là 1,7%[6]. Gourgiotis S. có tỉ lệ nam là 
93,1%, nữ là 6,9%[17]. Guire C. I. có tỉ lệ 
nam là 98,5%, nữ là 1,5%[16].
3. Vấn đề thoát vị một bên hay 
hai bên
Trong nghiên cứu của chúng tôi 
thoát vị 2 bên chiếm: 11,11%. Kết quả có 
sự khác biệt với nghiên cứu của các tác giả 
khác như: Phạm Hữu Thông (2010), thoát 
vị 2 bên: 16%, Lương Minh Hải (2007), 
thoát vị 2 bên: 34,6%, Trịnh Văn Thảo 
thoát vị hai bên: 7,8%[9].
4. Vai trò của siêu âm trong 
thoát vị bẹn
Trong nghiên cứu của chúng tôi 
có 100% trường hợp thoát vị bẹn được 
siêu âm. Kết quả tất cả các trường hợp 
đều thấy hình ảnh của khối thoát vị nằm 
trong ống bẹn trong đó 76,1% thấy có túi 
TV, 16,9% chưa thấy bất thường và 7% có 
triệu chứng khác. Những trường hợp dãn 
tĩnh mạch tinh được chẩn đoán qua siêu 
âm trước phẫu thuật, nhưng không ghi 
CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 
57
nhận cách xử lý trong khi phẫu thuật.
5. Phẫu thuật thành công và thất 
bại: PT nội soi thất bại do nhiều nguyên 
nhân:
Thủng phúc mạc: có 2 trường hợp 
bị thủng phúc mạc trong quá trình thao 
tác, gây hẹp phẫu trường không thể tiếp 
tục làm nội soi được.
Tai biến chảy máu trong phẫu 
thuật: có 1 trường hợp gặp tai biến này 
phải phẫu thuật hở cầm máu.
Không giải quyết túi thoát vị được 
qua nội soi: còn 1 trường hợp trong lúc 
phẫu thuật phát hiện thấy tinh hoàn ẩn.
6. Kỹ thuật phẫu thuật 
Vị trí trocar kính soi: Như 
Meyer A. (2013)[21], và nhiều tác giả 
khác, những ca phẫu thuật thoát vị bẹn nội 
soi tại bệnh viện Nhân Dân 115 đều đặt 
trocar kính soi dưới rốn 1 cm, sau cơ thẳng 
bụng và trước lá cân sau.
Vị trí trocar phẫu thuật: Có 
nhiều vị trí đặt trocar phẫu thuật, Lương 
Minh Hải[3] đặt 2 trocar phẫu thuật 
hợp với trocar kính soi thành tam giác 
đều. Meyer A. (2013)[ 21], Phạm Hữu 
Thông[12] trocar thứ nhất đặt tại điểm 
giữa mu và rốn, trocar thứ hai nằm ngay 
bờ trên xương mu.
Tại bệnh viện Nhân Dân 115 có 
73 ca đặt trocar phẫu thuật thứ nhất ở điểm 
giữa xương mu và rốn, trocar thứ 2 tại bờ 
trên xương mu, có 1 ca trocar thứ 3 được 
đặt ở giữa thẳng hàng 2 troars trên. 
Phẫu tích túi thoát vị: Thoát vị 
bẹn trực tiếp phẫu tích đơn giản, chỉ việc 
kéo ra khỏi lỗ thoát vị rồi đẩy trở lại ổ 
bụng. Thoát vị bẹn gián tiếp, phẫu tích túi 
thoát vị đi trong bao thớ thừng tinh phức 
tạp hơn, tay trái sử dụng kẹp kẹp túi thoát 
vị kéo lên sát thành bụng, tay phải dùng 
dụng cụ nhẹ nhàng phẫu tích túi thoát vị ra 
khỏi ống dẫn tinh và bó mạch tinh. Cột túi 
thoát vị lại bằng chỉ không tan hoặc kẹp 
bằng hemolock, cắt túi ở dưới chỗ cột chỉ 
gần sát lỗ bẹn sâu.
Kỹ thuật đặt mảnh ghép: Để có 
thể đưa mảnh ghép được vào khoang 
ngoài phúc mạc, chúng tôi phải cuộn tròn 
mảnh ghép như cuộn điếu thuốc lá, và đưa 
qua lỗ trocar kính soi. Trải mảnh ghép sao 
cho bờ trong tại khớp mu, bờ ngoài tận 
gai chậu trước trên cùng bên , chồng lên 
thừng tinh. Mảnh ghép phải phẳng, không 
gấp mép, và ép sát vào thành bẹn trước và 
sau. Nếu thoát vị 2 bên, bờ trong 2 mảnh 
ghép phải chồng lên nhau ít nhất 1cm tại 
khớp mu.
7. Kết quả phẫu thuật
Thời gian phẫu thuật
Kết quả này không có sự khác biệt 
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 13 - 3/2018 
58
với Trịnh Văn Thảo: 64,54 phút[9], Verma 
N. 70,8 phút. Tuy nhiên có sự khác biệt với 
kết quả của Lương Minh Hải (2010)[3] là 
79,87 phút, Phạm Hữu Thông (2003)[11] 
là 142 phút, do khâu cố định mảnh ghép 
làm kéo dài thời gian phẫu thuật. Các tác 
giả nước ngoài Meyer A. (2013)[22] có 
thời gian phẫu thuật 1 bên trung bình 38 
phút, Vasiliadis A. (2015) là 45 phút[26], 
ngắn hơn so với nghiên cứu của chúng tôi.
Thời gian nằm viện sau phẫu 
thuật
Thời gian nằm viện sau phẫu thuật 
trung bình trong nghiên cứu của chúng tôi 
2,74 ngày, Trịnh Văn Thảo là 3,8 ngày[9], 
Lương Minh Hải 2,38 ngày[3], Lê Quốc 
Phong 5,3 ngày với phương pháp TEP và 
5,6 ngày với phương pháp Lichteinstein[6].
Thời gian trở lại sinh hoạt bình 
thường
Chúng tôi nhận thấy các bệnh 
nhân hoàn toàn có thể sớm trở lại sinh 
hoạt như trước phẫu thuật. Tuy nhiên, sau 
phẫu thuật, tâm lý của người bệnh còn lo 
lắng và mong muốn nghỉ ngơi vài ngày 
sau phẫu thuật.
Thời gian trở lại làm việc bình 
thường
Tâm lý chung của bệnh nhân là lo 
lắng khối phồng sẽ xuất hiện trở lại như 
trước khi phẫu thuật. Vì vậy, người bệnh 
cũng chưa muốn trở lại công việc sớm 
hoặc trở lại nhưng làm những việc nhẹ 
nhàng hơn. Chúng tôi cũng ghi nhận 1 
trường hợp bệnh nhân làm việc nặng hơn 
trước và cũng không thấy tái phát hay đau 
sau phẫu thuật (trước đây làm ruộng, sau 
đó làm bốc vác).
Đánh giá kết quả sau phẫu thuật
Đánh giá kết quả, chúng tôi dựa 
vào tiêu chuẩn của tác giả Trịnh Văn 
Thảo[9], Lê Quốc Phong[7]. Kết quả trong 
nghiên cứu của 69 BN chúng tôi: 
Kết quả tốt 64 TH (92,8%), khá 4 
TH (5,8%) và kém 1 TH (1,4%). Trong 4 
trường hợp khá là 3 ca tụ dịch, 2 ca đau sau 
phẫu thuật, nhưng không phải phẫu thuật 
lại. Không có ca nào bị rối loạn phóng 
tinh hoặc teo tinh hoàn. Trường hợp kém 
là trường hợp có tái phát, được phát hiện 
sau gần 4 tháng, phải nhập viện phẫu thuật 
lại theo Lichteinstein.
Tái phát có thể do: 
- Phẫu tích không đủ, chưa đến 
vùng thoát vị, đánh giá chưa đúng các mốc 
giải phẫu. Tụ dịch, tụ máu.
- Mảnh ghép bị cuộn lại thay vì 
trải thẳng, mảnh ghép nhỏ, che phủ không 
đủ vùng khiếm khuyết, mảnh ghép di 
chuyển... 
Theo dõi sau 6 tháng, chúng tôi 
CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 
59
ghi nhận tái phát 1/69 TH (1,5%).
Tính thẩm mỹ của phẫu thuật 
nội soi
Điều trị thoát vị bẹn hai bên bằng 
phương pháp phẫu thuật nội soi hoàn toàn 
ngoài phúc mạc (TEP) chỉ cần đặt 3 trocar 
thẳng hàng tại đường giữa dưới rốn do đó 
chỉ có 3 vết sẹo có chiều dài tổng cộng 
khoảng 2 cm.
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu 73 bệnh nhân 
được phẫu thuật nội soi đặt mảnh ghép 
trước phúc mạc, chúng tôi kết luận như 
sau:
Thoát vị đa số xảy ra ở nam giới, 
thường là thể gián tiếp với bên phải nhiều 
hơn bên trái.
Thời gian phẫu thuật ghi nhận 
không cắt mảnh ghép sẽ làm nhanh hơn có 
cắt mảnh ghép, thoát vị 1 bên làm nhanh 
hơn 2 bên và thoát vị trực tiếp làm nhanh 
hơn gián tiếp, không gặp tai biến phẫu 
thuật. Đa số bệnh nhân được vận động 
sớm 24 giờ sau mổ, thời gian hồi phục sau 
mổ nhanh và đa số ra viện 2 ngày sau mổ. 
Tỉ lệ biến chứng 4,1% (đau và tụ dịch vết 
mổ). Biến chứng muộn đau bẹn bìu 1,5%, 
tụ dịch vết mổ 3,1%. Tỉ lệ tái phát 1,5%.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Huy Cường, Nguyễn Thành 
Phúc, Hồ Nguyễn Hoàng, Trần Nguyễn 
Quang Trung (2015), “Kết quả sớm điều 
trị thoát vị bẹn bằng phẫu thuật nội soi 
hoàn toàn ngoài phúc mạc”, Kỷ yếu hội 
nghị khoa học bệnh viện An Giang 2015, 
tr. 36-43
2. Vương Thừa Đức, Dương Ngọc 
Thành (2011), “Đau mạn tính vùng bẹn 
đùi sau mổ thoát vị bẹn”, Y Học TP.Hồ Chí 
Minh, 15 (1), tr.115-123
3. Lương Minh Hải, Vương Thừa 
Đức (2010) “Đánh giá kỹ thuật đặt mảnh 
ghép hoàn toàn ngoài phúc mạc (NSNPM) 
trong điều trị thoát vị bẹn”, Y Học TP.Hồ 
Chí Minh, tr. 603-609.
4. Lê Quang Nghĩa (2016), “Tổng 
quan về mổ thoát vị bẹn”, Y Học TP.Hồ 
Chí Minh, tr. 59-63
5. Lê Quang Nghĩa (2016), “Lịch 
sử mổ nội soi”, Y Học TP.Hồ Chí Minh, 
tr.25-30
6. Lê Quốc Phong, Lê Mạnh Hà 
(2013), “Kết quả điều trị thoát vị bẹn bằng 
kỹ thuật Lichtenstein và nội soi ngoài 
phúc mạc”, Y Học Thực Hành (878), (8), 
tr. 56-59.
7. Lê Quốc Phong (2015), Đánh 
giá kết quả ứng dụng đặt tấm lưới nhân 
tạo theo phương pháp Lichtenstein điều 
trị thoát vị bẹn ở bệnh nhân từ 40 tuổi trở 
lên, Luận văn tiến sĩ y học Đai. Học Y 
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 13 - 3/2018 
60
Dược Huế
8. Nguyễn Đoàn Văn Phú (2015), 
Nghiên cứu ứng dụng điều trị phẫu thuật 
thoát vị bẹn bằng tấm lưới nhân tạo có 
nút, Luận văn tiến sĩ y học ĐH Y Dược 
Huế
9. Trịnh Văn Thảo (2010), Nghiên 
cứu ứng dụng phẫu thuật nội soi đặt mảnh 
ghép hoàn toàn ngoài phúc mạc trong điều 
trị thoát vị bẹn, Luận văn tiến sĩ y học Học 
Viện Quân Y
10. Phạm Hữu Thông, Đỗ Đình 
Công, Phan Tôn Ngọc Vũ (2010), “ Kết 
quả phẫu thuật nội soi ngoài phúc mạc 
điều trị thoát vị bẹn dưới gây tê tủy sống 
và gây mê, Tạp chí Y Học TP. Hồ Chí 
Minh, 14 (1), tr. 134-139.
11. Phạm Hữu Thông, Đỗ Đình 
Công, Nguyễn Anh Dũng, Nguyễn Thế 
Hiệp (2003), “Nhận xét kết quả ban đầu 
của phẫu thuật điều trị thoát vị bẹn qua 
ngả soi ổ bụng”, Tạp chí Y Học TP. Hồ Chí 
Minh, 7 (1), tr. 192-202
12. Phạm Hữu Thông, Đỗ Đình 
Công (2010), “Kết quả của phương pháp 
không cắt và cắt mảnh ghép cho thừng tinh 
chui qua trong phẫu thuật nội soi ngoài 
phúc mạc điều trị thoát vị bẹn”, Y Học TP. 
Hồ Chí Minh,14 (1), tr. 140-145
13. Bùi Trường Tèo (2010), 
Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm 
sàng và kết quả điều trị thoát vị bẹn bằng 
mổ mở đặt mảnh ghép theo Lichtenstein 
tại Cần Thơ, Luận văn chuyên khoa cấp 
II, Đại Học Y Dược Huế
14. Eklund A. (2011), 
“Laparoscopic or open inguinal hernia 
repair – which is best for the patient?”, 
Acta Universitatis Upsaliensis Uppsala, 
pp.11-53
15. Feldman L.S., Wexler M.J., 
and Fraser S.A. (2005), “laparoscopic 
hernia repair”, ACS Principles and 
Practice, pp.1-4
16. Guire C.I., Baigrie R.J., 
Theunissen Đ., Fernandes N.I., Chapmen 
I.R. (2012), “Outcome of laparoscopic 
inguinal hernia repair in a South African 
private practice setting”, SAJS, 50 (1), pp. 
115-119
17. Gourgiotis S., Germanos 
S., Stratopoulos C., Moustafellos P.C., 
Panteli A., Hadjiyannakis E. (2006), 
“Lichteinstein tension-free repair of 
inguinal hernia”, Chiurgia, pp. 511-514
18. Hoizheimmer R.G. (2004), 
“First Results Of Lichtenstein Hernia 
Repair With Ultrapro®-Mesh As Cost 
Saving Procedure”, European journal of 
medical research, pp. 323-327
19. Kavic S.M (2013), 
“Laparoscopic versus open repair: 
CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 
61
a superior approach to inguinal 
herniorrhaphy?”, OA Minimally Invasive 
Surgery, pp.1-4
20. Kulacoglu H. (2011), “Current 
options in inguinal hernia repair in adult 
patients”, Hippokratia, pp.223-231
21. Meyer A., Pierre Blanc, Jean 
Gabriel Balique, Masaya Kitamura (2013), 
“Laparoscopic totally extraperitoneal 
inguinal hernia repair”, Original Article 
Meyer. pp.32-36
22. Onuigbo W.I.B. and Njeze 
G.E. (2016), “Inguinal Hernia”, Journal 
of Surgery and Operative Care, 1 (2), pp. 
1-10
23. Palermo M., Acquafresca 
P. A., Bruno M., Tarsitano F. (2015), 
Hernioplasty with and without Mesh: 
Analysis Of The Immediate Complications 
in A Randomized Controlled Clinical 
Trial, ABCD Arq Bras Cir Dig, pp. 157-
160
24. Thomas J.W. , Michael L. B. 
(2016), “Inguinal hernia”, The Washington 
Manual of surgery seventh Edition, pp. 
706-729
25. Thomas J.W. , Michael L. B. 
(2016), “Inguinal hernia”, The Washington 
Manual of surgery seventh Edition, pp. 
706-729
26. Wang Y., Zhang X. (2015), 
“Short-term results of open inguinal hernia 
repair with self-gripping Parietex ProGrip 
mesh in China: A Retrospective Study of 
90 cases”, Asian Journal of Surgery, pp. 
1-6
27. Zollinger (2011). “Repair of 
Inguinal Hernia, Laparoscopic Totally 
Extraperitoneal (TEP)”. Atlas of surgical 
operations. ninth Edition, pp. 430-435.

File đính kèm:

  • pdfket_qua_dieu_tri_thoat_vi_ben_bang_phau_thuat_noi_soi_dat_ma.pdf