Kết quả điều trị thay thế đầu trên xương đùi do u xương sụn chuyển dạng ác tính bằng vật liệu PEEK: nhân 2 trường hợp lâm sàng

U xương sụn là một dạng u xương thường gặp của hệ cơ xương khớp. Tỉ lệ chiếm 10 – 15 % tổng số các

loại khối u xương và chiếm khoảng 35% các khối u xương lành tính. Mặc dù là loại u xương lành tính nhưng

khi khối u phát triển quá mức (hoặc ác tính hoá) ở vị trí gần khớp như khớp háng có thể gây chèn ép, ảnh

hưởng tới thẩm mỹ, thậm chí cả chức năng vận động, sinh hoạt của bệnh nhân. Khi đó yêu cầu phẫu thuật

được đặt ra, hiện nay trên thế giới phương pháp như thay khớp megaprosthesis, thay khớp kèm ghép xương

đồng loại (APC) đã được áp dụng nhưng hạn chế là giá thành đắt và không thể dự tính được chính xác

kích thước của xương người bệnh và vật liệu sử dụng. Với sự phát triển của khoa học công nghệ và vật liệu

sinh học lần đầu tiên đoạn đầu trên xương đùi được thay thế bằng vật liệu PEEK (polyetheretherketone)

kết hợp cùng thay khớp háng nhân tạo đã mang lại kết quả phục hồi tốt, trở thành một phương pháp mới

cho các phẫu thuật u xương. Chúng tôi xin giới thiệu 2 trường hợp u xương sụn đầu trên xương đùi chuyển

dạng ác tính, được điều trị lấy u và thay thế đoạn xương kèm khớp háng nhân tạo bằng vật liệu PEEK in 3D

pdf 8 trang phuongnguyen 100
Bạn đang xem tài liệu "Kết quả điều trị thay thế đầu trên xương đùi do u xương sụn chuyển dạng ác tính bằng vật liệu PEEK: nhân 2 trường hợp lâm sàng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Kết quả điều trị thay thế đầu trên xương đùi do u xương sụn chuyển dạng ác tính bằng vật liệu PEEK: nhân 2 trường hợp lâm sàng

Kết quả điều trị thay thế đầu trên xương đùi do u xương sụn chuyển dạng ác tính bằng vật liệu PEEK: nhân 2 trường hợp lâm sàng
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 125 (1) - 202086
KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ THAY THẾ ĐẦU TRÊN XƯƠNG ĐÙI DO U 
XƯƠNG SỤN CHUYỂN DẠNG ÁC TÍNH BẰNG VẬT LIỆU PEEK: 
NHÂN 2 TRƯỜNG HỢP LÂM SÀNG
Trần Trung Dũng1,,2, Phạm Trung Hiếu1,2, Nguyễn Trần Quang Sáng3
Nguyễn Trung Tuyến1,2 và Đào Nguyên Chính¹ 
 ¹Bệnh viện Đa khoa Xanh Pôn 
²Trường Đại học Y Hà Nội
3Bệnh viện K
U xương sụn là một dạng u xương thường gặp của hệ cơ xương khớp. Tỉ lệ chiếm 10 – 15 % tổng số các 
loại khối u xương và chiếm khoảng 35% các khối u xương lành tính. Mặc dù là loại u xương lành tính nhưng 
khi khối u phát triển quá mức (hoặc ác tính hoá) ở vị trí gần khớp như khớp háng có thể gây chèn ép, ảnh 
hưởng tới thẩm mỹ, thậm chí cả chức năng vận động, sinh hoạt của bệnh nhân. Khi đó yêu cầu phẫu thuật 
được đặt ra, hiện nay trên thế giới phương pháp như thay khớp megaprosthesis, thay khớp kèm ghép xương 
đồng loại (APC)  đã được áp dụng nhưng hạn chế là giá thành đắt và không thể dự tính được chính xác 
kích thước của xương người bệnh và vật liệu sử dụng. Với sự phát triển của khoa học công nghệ và vật liệu 
sinh học lần đầu tiên đoạn đầu trên xương đùi được thay thế bằng vật liệu PEEK (polyetheretherketone) 
kết hợp cùng thay khớp háng nhân tạo đã mang lại kết quả phục hồi tốt, trở thành một phương pháp mới 
cho các phẫu thuật u xương. Chúng tôi xin giới thiệu 2 trường hợp u xương sụn đầu trên xương đùi chuyển 
dạng ác tính, được điều trị lấy u và thay thế đoạn xương kèm khớp háng nhân tạo bằng vật liệu PEEK in 3D.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Từ khóa: U xương sụn chuyển dạng, PEEK, in 3D
U xương sụn là tổn thương lành tính thường 
gặp nhất của các xương đang phát triển. U 
xương sụn có thể xuất hiện ở bất kì vị trí nào 
có sụn phát triển như xương đùi, xương chày, 
xương cánh tay, cẳng tay ... Tỉ lệ bắt gặp ở chi 
dưới chiểm 50% tổng số ca, trong đó xương đùi 
chiếm 30%, chi trên có tỉ lệ ít hơn, xương cánh 
tay chiếm từ 10 – 20 %, cột sống và xương 
sườn cũng có ghi nhận trường hợp xuất hiện 
u xương sụn. Nguyên nhân chính xác đến 
nay chưa được nghiên cứu rõ, có ý kiến cho 
rằng liên quan đến gen, tuy nhiên khả năng 
di truyền của u xương sụn chưa được khẳng 
định chính xác. Thông thường khối u xương 
sụn thường được phát hiện từ khi người bệnh 
còn trẻ tuổi với biển hiện có thể sờ thấy một 
khối cứng, chắc, không đau nổi lên, vị trí hay 
gặp là gần các sụn phát triển, gần các khớp.
Chỉ định can thiệp phẫu thuật được đặt ra khi 
khối u gây ảnh hưởng nhiều đến thẩm mỹ, hình 
dáng của người bệnh với mục đính chính chủ 
yếu là đục bỏ, lấy bớt khối u, phục hồi lại dáng 
vẻ bên ngoài. Kích thước khối u thường khoảng 
từ 7 – 10 cm, hiếm gặp các trường hợp to quá 
15 cm, Đặc biệt, trong trường hợp khi khối u 
phát triển quá mức chuyển dạng ác tính hóa có 
Tác giả liên hệ: Đào Nguyên Chính, 
Bệnh viện Đa khoa Xanh Pôn
Email: [email protected]
Ngày nhận: 20/02/2020
Ngày được chấp nhận: 09/03/2020
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 125 (1) - 2020 87
thể gây chèn ép vào các cấu trúc xung quanh 
như mạch máu và thần kinh, vị trí gần khớp lớn 
như khớp háng hay khớp gối thì vấn đề phẫu 
thuật còn được đặt ra để giải quyết vấn đề chức 
năng vận động và sinh hoạt. Khi đó chức năng 
của khớp háng và đoạn xương đùi lấy bỏ cần 
phải được thay thế bằng vật liệu có cấu trúc 
và chức năng tương tự. Bảo tồn chi sau phẫu 
thuật lấy bỏ u xương đầu trên xương đùi vẫn 
đang là câu hỏi lớn, là thách thức đối với các 
phẫu thuật viên Chấn thương chỉnh hình. Trên 
thế giới hiện nay có kỹ thuật được mô tả nhiều 
nhất trong phẫu thuật thay thế đoạn đầu trên 
xương đùi kèm thay khớp háng là sử dụng khớp 
Megaprosthesis hay APC-Allograft prosthetic 
composite (thay khớp kèm ghép xương đồng 
loại).1-4 Mỗi phương pháp đều có những ưu 
nhược điểm riêng, nhưng nhìn chung hạn chế 
còn tồn tại là đoạn xương hay vật liệu thay thế 
có kích thước, không khớp hoàn toàn với đoạn 
xương cần lấy bỏ, vì vậy sau phẫu thuật có 
thể gặp tình trạng bệnh nhân 2 đoạn chi không 
bằng nhau, cơ lực bên chi bệnh phục hồi kém 
hơn, dẫn đến quá trình tập phục hồi chức năng 
gặp khó khăn. 
Với sự phát triển của khoa học công 
nghệ và vật liệu sinh học thì vật liệu PEEK 
(polyetheretherketone) cùng công nghệ in 3D 
ra đời, đáp ứng được yêu cầu về kỹ thuật và 
độ chính xác, bền vững của vật liệu.5,6 Vật 
liệu PEEK (Polyether Ether Ketone) là loại 
nhựa nhiệt dẻo trong họ Polyaryletherketone 
(PAEK), là một loại polymer có khả năng cấy 
ghép (Implanteble Polymer Types). PEEK được 
nghiên cứu và ứng dụng trong y tế đặc biệt là 
các sản phẩm cấy ghép từ những năm 19905. 
Một số đặc tính sinh học của vật liệu PEEK: có 
tính phù hợp sinh học, có đặc tính cơ học như 
xương đặc, không cản trở khi thăm khám tia X, 
không thay đổi cấu trúc và tạo ra gốc tự do khi 
tiệt khuẩn bằng tia gamma ở liều 25 – 40 kGy 
(liều khử trùng tiêu chuẩn vật liệu ghép là 25 
kGy).⁶ Với các đặc tính đó, các sản phẩm từ 
vật liệu PEEK ngày càng trở nên phổ biến trong 
lĩnh vực chấn thương chỉnh hình hay phẫu 
thuật tạo hình sọ não, cột sống.
Hiện nay các sản phẩm cấy ghép trong y tế 
từ PEEK đang được làm từ hai công nghệ chủ 
yếu là tạo khuôn sau đó phun ép nhựa PEEK và 
cắt phay CNC. Tuy nhiên cả hai phương pháp 
này đều có hạn chế như chi phí làm khuôn khá 
tốn kém, thời gian lâu. Cắt phay CNC gây lãng 
phí vật liệu. Giải pháp tối ưu là in 3D, tuy nhiên 
phải sử dụng PEEK dạng sợi hoặc tạo sợi từ 
hạt. Máy in phải có đầu in chịu nhiệt độ trên 
350 độ C. Công nghệ in 3D ngoài ưu điểm tăng 
độ chính xác của sản phẩm còn hạn chế tối đa 
sự lãng phí vật liệu, thời gian chế tạo ngắn5,7. 
Các yếu tố đó sẽ làm hạ giá sản phẩm. Hiện 
nay PEEK có 3 dạng sản phẩm thô: PEEK hạt, 
PEEK tấm, thanh và PEEK sợi6. Tùy thuộc 
vào yêu cầu của sản phẩm để lựa chọn công 
nghệ, từ đó lựa chọn vật liệu phù hợp. Đối với 
sản phẩm chế tạo riêng, công nghệ in 3D, sử 
dụng sợi PEEK là phù hợp nhất. Ngược lại, đối 
với sản phẩm chế tạo đồng loạt nên sử dụng 
kỹ thuật ép khuôn. Cắt phay CNC cũng là một 
giải pháp được lựa chọn trong chế tạo các sản 
phẩm từ PEEK.
II. GIỚI THIỆU CA BỆNH
Ca lâm sàng 1: Bệnh nhân nam 46 tuổi, xuất 
hiện khối vùng mặt sau đùi phải từ nhỏ, tự sờ 
thấy được, không đau, đi lại và hoạt động bình 
thường. Khối u ngày càng to dần và khoảng 2 
năm nay thì thấy kích thước khối u tăng nhanh, 
đau nhiều và biến dạng vùng đùi phải. Khám 
thấy vùng đùi phải mặt sau ngoài có khối kích 
thước ~ 25 x 20 cm, sờ cứng, ấn đau nhẹ. Khớp 
háng hạn chế gấp và khép chân. XQuang và 
MRI: hình ảnh u đầu trên xương đùi phải nghĩ 
nhiều tới u xương sụn. 
Chẩn đoán: U chồi xương sụn đầu trên 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 125 (1) - 202088
xương đùi phải theo dõi chondrosacom
Hình 1. Hình ảnh bên ngoài khối u gây 
biến dạng xương đùi và phim XQ, MRI 
bệnh nhân trước mổ
Bệnh nhân đã được phẫu thuật cắt bỏ đoạn 
xương chứa u và phần mềm xâm lấn xung 
quanh. Diện cắt xương cách rìa u > 5cm, diện 
cắt phần mềm cách rìa u > 2 cm. Khối u được 
cắt bỏ có kích thước ~ 14,5 x 14,8 x 13,2 cm, 
trọng lượng là 2 kg, tổ chức xương sụn và có 
tăng sinh mạch. 
Sau đó bệnh nhân được phẫu thuật tạo hình 
khớp háng phải toàn phần chuôi dài có vít chốt 
ngang và phẫu thuật thay thế đoạn đầu trên 
xương đùi bằng đoạn xương chế tạo từ vật liệu 
PEEK. 
Quy trình chế tạo đoạn PEEK đầu trên 
xương đùi:
1. Nhập dữ liệu đoạn xương cần thay thế 
của bệnh nhân
Các dữ liệu được thu thập qua hình ảnh 
vùng tổn thương của bệnh nhân trên film chụp 
MRI hoặc CT dưới dạng file DICOM (Digital 
Imaging and Communications in Medicine 
Standars (tiêu chuẩn ảnh số và truyền thông 
trong y tế). 
2. Thiết kế trên máy tính
Từ những dữ liệu thu thập, sử dụng phần 
mềm thiết kế 3D để thiết kế ra đoạn xương phù 
hợp với tổn thương trên vi tính qua các bước:
- Tạo mô hình CAD (CAD Model Creation)
- Chuyển đổi sang định dạng STL 
(Conversion to STL format) 
 - Cắt file STL (Slice the STL file)
3. Chế tạo sản phẩm bằng công nghệ in 3D 
hoặc ép phun
Sử dụng máy in 3D chuyên dụng có đầu in 
chịu nhiệt trên 400 độ C hoặc máy ép phun có 
áp lực cao. 
Phương pháp in 3D sử dụng nhựa sợi, in 
trực tiếp.
Phương pháp ép phun sử dụng nhựa PEEK 
hạt, phải thiết kế khuôn thép chịu lực.
 4. Kiểm tra kích thước
Sản phẩm được kiểm tra ngoại quan trên bề 
mặt cẩn thận, phát hiện kịp thời các khuyết tật 
xảy ra trong quá trình in. So sánh kích thước 
sản phẩm thật và sản phẩm thiết kế.
 Sau đó, sản phẩm được kiểm tra kích thước 
theo quy định trong tiêu chuẩn cơ sở. 
5. Vệ sinh sản phẩm, đóng gói, tiệt trùng
Sản phẩm được vệ sinh sạch sẽ bằng cơ 
học như dùng chổi lông, loại bỏ các lớp bụi bẩn 
và nhựa dư bám dính, sau đó được rửa bằng 
siêu âm, hoạt hóa plasma, làm khô, đóng gói 
hai lớp và tiệt trùng bằng tia gamma liều 25 kGy.
6. Kiểm tra vi sinh
Sau tiệt trùng, sản phẩm được chọn lấy 
ngẫu nhiên, thử nghiệm độ vô khuẩn để đảm 
bảo hoàn toàn tiệt khuẩn.
7. Thử nghiệm an toàn sinh học
Các sản phẩm sau chế tạo thường chịu tác 
động của nhiệt độ khi in hoặc đúc (trên 400 độ 
C) và tia xạ khi khử trùng. Vì vậy cần thiết lấy 
mẫu ngẫu nhiên thử nghiệm độc tính tế bào và 
phù hợp mô.
8. Nơi chế tạo và thử nghiệm
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 125 (1) - 2020 89
Viện nghiên cứu và phát triển vật liệu y sinh 
– Công ty cổ phần y sinh Ngọc Bảo.
Hình 2. Ảnh vật liệu PEEK được ghép
Bệnh nhân được tập phục hồi chức năng 
ngay ngày đầu tiên sau mổ, hiện tại tháng thứ 4 
sau mổ, bệnh nhân ổn định, vết mổ khô, liền tốt 
có thể đi lại được, chạy bộ nhẹ, vận động khớp 
háng gần như bình thường. Thang điểm Harris 
Hip Score 8 trước và sau mổ lần lượt là 52 và 
95 điểm. Bệnh nhân cảm thấy hài lòng với kết 
quả phẫu thuật này.
Hình 3. Ảnh chụp XQ của bệnh nhân trong 
ca lâm sàng 1 sau mổ 4 tháng
Hình 4. Sẹo vết mổ và các động tác bệnh 
nhân thực hiện được sau mổ 4 tháng
Ca lâm sàng 2: Bệnh nhân nam 50 tuổi, 
xuất hiện khối vùng mặt sau đùi phải từ nhỏ, tự 
sờ thấy được, không đau, đi lại và hoạt động 
bình thường. Khối u bắt đầu tăng to lên, gây 
biến dạng và hạn chế vận động khoảng 1 năm 
nay. Khám thấy vùng đùi phải mặt sau ngoài có 
khối kích thước ~ 20 x 18 cm, sờ cứng, ấn đau 
nhẹ. Khớp háng hạn chế gấp và khép chân. 
XQuang và MRI: hình ảnh u đầu trên xương đùi 
phải nghĩ nhiều tới u xương sụn. 
Chẩn đoán: U chồi xương sụn đầu trên 
xương đùi phải theo dõi chondrosacom.
Hình 5. Ảnh khối u gây biến dạng vùng đầu 
trên xương đùi và phim XQ, MRI 
trước phẫu thuật
Trong cùng ngày, bệnh nhân được tiến hành 
phẫu thuật với phương án được đặt ra là lấy bỏ 
khối u xương đùi, thay thế bằng đoạn xương 
kích thước tương tự bằng vật liệu PEEK kèm 
theo thay khớp háng toàn phần. Khối u được 
cắt bỏ có kích thước ~ 19 x 14,5 x 10 cm, trọng 
lượng là 1,6 kg, tổ chức xương sụn và có tăng 
sinh mạch. Kết quả giải phẫu bệnh là u xương 
sụn lành tính.
Bệnh nhân được tập phục hồi chức năng 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 125 (1) - 202090
ngay ngày đầu tiên sau mổ, hiện tại tháng thứ 
4 sau mổ, bệnh nhân ổn định, vết mổ khô, liền 
tốt có thể đi lại được, chạy bộ nhẹ, còn đau nhẹ 
khi đi lại nhiều.
Hình 6. Khối u xương sụn được lấy bỏ và 
tương quan kích thước của khối u trong 
hai ca phẫu thuật
Hình 7. Ảnh chụp XQ sau mổ 
của ca lâm sàng 2
Bệnh nhân được tập phục hồi chức năng 
ngay ngày đầu tiên sau mổ, hiện tại tháng thứ 
4 sau mổ, bệnh nhân ổn định, vết mổ khô, liền 
tốt có thể đi lại được, chạy bộ nhẹ, còn đau nhẹ 
khi đi lại nhiều.
III. BÀN LUẬN
U xương sụn là loại u xương lành tính 
thường hay xuất hiện ở vị trí các xương dài, 
gần sụn phát triển. Trong trường hợp này, khối 
u xuất hiện vị trí đầu gần xương đùi từ nhỏ, ít 
ảnh hưởng tới vận động đi lại. Nhưng 2 năm 
nay, khối u kích thước thay đổi, tăng lên nhanh 
chóng và gây biến dạng xương đùi, chèn ép đến 
các tổ chức xung quanh có thể là khối u bắt đầu 
đã chuyển dạng ác tính mà kết quả giải phẫu 
bệnh chưa thể trả lời chính xác vì vị trí lấy bệnh 
phẩm còn ít, thành phần sâu bên trong khối u 
có thể chưa được phân tích và tổ chức ác tính 
có thể còn bỏ sót. Đối với các khối u xương sụn 
vị trí đầu trên xương đùi quá phát hay chuyển 
dạng ác tính ảnh hưởng nhiều tới thẩm mỹ, chất 
lượng cuộc sống, các hoạt động sinh hoạt, vận 
động của bệnh nhân thì phẫu thuật cắt bỏ khối 
u kèm đoạn xương là cần thiết. Phẫu thuật đòi 
hỏi thay thế đoạn xương mới hoàn toàn bằng 
vật liệu PEEK tương ứng với đoạn xương lấy 
bỏ kèm theo thay khớp háng nhân tạo mới do 
đó cần thiết phải có bộ khớp háng nhân tạo với 
chuôi dài và có vít chống xoay cho đoạn đầu 
dưới xương đùi của bệnh nhân để tránh di lệch 
xoay của đoạn xương.1,9
Ngoài ra, theo nguyên lý stress shielding, 
khi thay khớp háng, trọng lực sẽ truyền dọc 
theo trục của chuôi khớp chứ ko qua cấu trúc 
thành xương bệnh nhân, vì thế sau một thời 
gian, theo định luật Wolff,10 thì quanh chuôi 
khớp xương sẽ loãng còn dưới chuôi khớp 
xương sẽ dầy lên, nếu như để chuôi khớp ngắn 
quá, khi bệnh nhân đi lại thì chính điểm tì của 
chóp chuôi sẽ bẻ gãy xương.
 Mặt khác, do phần đầu trên xương đùi làm 
bằng PEEK là vật liệu không có tính giãn nở về 
mặt sinh học như xương thật, nên nếu dùng 
các chuôi khớp thông thường (chuôi theo giải 
phẫu) sẽ không thể nào cố định chắc chắn 
(hoặc lắp vừa) với phần ống tủy đầu trên xương 
đùi. Lúc đó bắt buộc phải sử dụng khớp chuôi 
dài đặc biệt dạng module, với phần cổ và đầu 
trên xương đùi là 1 khối riêng, còn phần chuôi 
thân xương đùi là một khối riêng. Vừa đảm bảo 
cố định tốt vào xương vừa đảm bảo đặt được 
đúng theo giải phẫu chiều cong xương đùi hoặc 
làm lỏng chuôi khớp, khiến chuôi tụt xuống, đây 
là một lý do khác cần phải có vít chốt ngang của 
bộ khớp chuôi dài.
Sau khi khối u vùng đầu trên xương đùi 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 125 (1) - 2020 91
được lấy bỏ, có nhiều phẫu thuật khác nhau 
được áp dụng để tái tạo lại như APC - thay 
khớp chuôi dài kèm ghép xương đồng loại4 
hay khớp Megaprosthesis. Vấn đề ghép xương 
đồng loại hiện nay vẫn có tỉ lệ bệnh nhân xuất 
hiện đào thải mảnh ghép sau ghép mặc dù đã 
dùng các loại chống thải ghép hay về sự khan 
hiếm nguồn cung cấp. Sau nhiều thời gian 
nghiên cứu, chúng tôi đã nghĩ tới sử dụng một 
loại vật liệu sinh học có thể thay thế được đoạn 
xương bị cắt bỏ với những yêu cầu rõ ràng như 
bền, dẻo, tính tương thích sinh học và ít các tác 
dụng phụ thải ghép khi đặt trong cơ thể. Đó là 
vật liệu PEEK (polyetheretherketone). Bản chất 
là Polimer tổng hợp, nhựa PEEK được mô tả 
lần đầu tiên vào những thập niên năm 60, lúc 
đó thành phần chủ yếu là cacbon và các loại 
sợi thủy tinh.⁶ Từ những năm 80 đến nay thì 
vật liệu PEEK ngày càng được sử dụng nhiều 
trong chuyên ngành chấn thương chỉnh hình và 
cột sống với đặc tính vượt trội. PEEK hỗ trợ sự 
đổi mới, sức mạnh, độ bền và độ cứng cần thiết 
của nó. Nó trở nên phổ biến do độ đàn hồi tốt 
hơn tương tự như xương người. Yêu cầu đa 
dạng được thực hiện bởi cấy ghép PEEK trong 
lĩnh vực y tế như sau:
Phục hồi nhanh chóng cho bệnh nhân: vật 
liệu PEEK cấy ghép giúp phục hồi nhanh chóng 
cơ thể bệnh nhân sau phẫu thuật.
Chính xác: cấy ghép được sử dụng bởi vật 
liệu này có độ chính xác tốt hơn và phù với cơ 
thể bệnh nhân.
Áp dụng dễ dàng trong khi phẫu thuật: vì cấy 
ghép được thực hiện theo thông số kỹ thuật cá 
nhân và được sử dụng dễ dàng để phẫu thuật.
Tính mềm dẻo, linh hoạt: những vật liệu này 
có tính linh hoạt cao hơn như sản xuất van tim 
cho bệnh nhân mắc bệnh tim.
Hiệu quả: cấy ghép có thể hỗ trợ tải trọng 
của cơ thể làm tăng hiệu quả của bệnh nhân.
Tăng tỷ lệ thành công của hoạt động
Trong quá trình hoạt động, các vật liệu cấy 
ghép này làm tăng tỷ lệ hoạt động thành công 
do tính chất của nó. Hạn chế của nghiên cứu 
này là thời gian theo dõi ngắn, chưa đánh giá 
cụ thể được hiệu quả về kinh thế của phương 
pháp này.
Vật liệu PEEK với công nghệ in 3D: Có rất 
ít bài báo nghiên cứu được xuất bản trong bản 
về lĩnh vực in 3D với vật liệu PEEK trong y tế. 
Bài báo đầu tiên trong lĩnh vực này đã được 
xuất bản vào năm 2014. Năm 2015, hai bài báo 
đã được báo cáo và năm 2016, ba bài báo đã 
được xuất bản. Trong năm 2017, chỉ có một 
bài báo được xuất bản, và trong năm 2018 đến 
tháng 11, ba bài báo được xuất bản cho đến 
nay. Với việc áp dụng công nghệ dựng hình vi 
tính cắt lớp ba chiều, thông qua một hệ thống 
xử lý một mô hình với kích thước và các chi tiết 
hoàn toàn giống với cấu trúc thật của xương 
sẽ được dựng và in ra theo đúng giải phẫu vốn 
có. Thông qua mô hình này có thể tính toán và 
dự tính đo đạc các thông số vật liệu trong mổ. 
Trong những năm tới, ứng dụng vật liệu PEEK 
có thể trở nên khả thi về mặt thương mại và 
được sử dụng thông dụng trong lĩnh vực y tế.
IV. KẾT LUẬN
Qua hai ca bệnh trên cho thấy việc sử dụng 
vật liệu sinh học PEEK làm vật liệu thay thế cho 
đoạn xương đầu trên xương đùi là một phương 
pháp có thể được áp dụng rộng rãi. Tuy nhiên, 
nghiên cứu này cần có thêm thời gian theo dõi, 
chưa đánh giá chi tiết về hiệu quả kinh tế của 
phương pháp này. 
Ngày nay, với sự phát triển của công nghệ in 
3D cùng vật liệu y sinh học PEEK, đang mở ra 
tương lai, triển vọng, hướng phát triển mới cho 
lĩnh vực y tế nói chung và cho chuyên nghành 
Chấn thương Chỉnh hình nói riêng. 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 125 (1) - 202092
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bickels J, Meller I, Henshaw RM, et al. 
Reconstruction of hip stability after proximal 
and total femur resections. Orthopaedics and 
Related Research (1976-2007). 2000;375:218-
230.
2. Morris HG, Capanna R, Del Ben M, et 
al.Prosthetic reconstruction of the proximal 
femur after resection for bone tumors. The 
Journal of arthroplasty. 1995; 10(3): 293-299.
3. Farid Y, Lin PP, Lewis VO, et al. 
Endoprosthetic and allograft-prosthetic 
composite reconstruction of the proximal femur 
for bone neoplasms. Clinical Orthopaedics and 
Related Research®. 2006; 442: 223-229.
4. Donati D, Giacomini S, Gozzi E, et al. 
. Proximal femur reconstruction by an allograft 
prosthesis composite. Clinical Orthopaedics 
and Related Research (1976-2007). 2002; 394: 
192-200
5. Nakahara I, Takao M, Bandoh S, 
et al. In vivo implant fixation of carbon fiber 
reinforced PEEK hip prostheses in an ovine 
model. Journal of Orthopaedic Research. 2013; 
31(3): 485-492.
6. Kurtz SME. PEEK biomaterials 
handbook. 2019.
7. Yang C, Tian X, Li D, et al. Influence of 
thermal processing conditions in 3D printing on 
the crystallinity and mechanical properties of 
PEEK material. Journal of Materials Processing 
Technology. 2017; 248: 1-7.
8. Nilsdotter A, & Bremander, A. Measures 
of hip function and symptoms: Harris hip score 
(HHS), hip disability and osteoarthritis outcome 
score (HOOS), Oxford hip score (OHS), 
Lequesne index of severity for osteoarthritis 
of the hip (LISOH), and American Academy 
of orthopedic surgeons (AAOS) hip and knee 
questionnaire. Arthritis care & research. 
63(S11) 2011: S200-S207.
9. Johnson ME, Mankin HJ . Reconstructions 
after resections of tumors involving the proximal 
femur. The Orthopedic clinics of North America. 
1991; 22(1): 87-103.
10. Joshi MG, Advani SG, Miller F, 
et al. Analysis of a femoral hip prosthesis 
designed to reduce stress shielding. Journal of 
biomechanics. 2000; 33(12):1655-1662.
Summary
HIP REPLACEMENT AND PROXIMAL FEMUR 
RECONSTRUCTION WITH PEEK MATERIAL IN TREATMENT 
OF MALIGNAL TRANSFORMATION OF OSTEOCHONDROMA
Osteochondroma is a very common muscleskeletal system abnormality which account for 10 - 
15% of all types of bone tumors and about 35% of all benign bone tumor. Despite being a benign 
bone tumor, when the tumor grows large and excessively or has malignal transformation, it can 
cause compression, affecting the cosmestic, movement and activities of the patient. In this case, 
operation is required. Nowadays several applications have been used such as megaprothesis or 
hip replacement or allograft prosthetic composite. These methods are expensive and surgeons 
cannot estimate accurately the size of the patient 's bone and the material to be used in the surgery. 
With the development of science and technology and biological materials the first time, the bone of 
proximal femur was replaced by PEEK (polyetheretherketone) combined with total hip replacement. 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 125 (1) - 2020 93
We present 2 cases diagnosed for malignal transformation of osteochondroma of proximal femur, 
treated by resection tumor, hip replacement and reconstruction with PEEK material and 3D-printing. 
This method brought good recovery results and will be a new method for bone tumor surgery.
Key words: malignal transformation of osteochondroma, PEEK, 3D-printing.

File đính kèm:

  • pdfket_qua_dieu_tri_thay_the_dau_tren_xuong_dui_do_u_xuong_sun.pdf