Kết quả điều trị tạo hình đốt sống bằng bơm cement có bóng cho bệnh nhân xẹp đốt sống do loãng xương

THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU: Đây là nghiên cứu tiến cứu trong việc sử dụng tạo hình đốt sống (THĐS) bằng bơm cement có bóng cho bệnh nhân xẹp đốt sống (XĐS) do loãng xương (LX) có triệu chứng.

MỤC TIÊU: Đánh giá độ an toàn và hiệu quả của phương pháp bơm cement có bóng trong điều trị đau lưng do XĐS LX.

 TỔNG QUAN: XĐS do LX có thể gây nên gù cột sống tiến triển và đau lưng mãn tính. Phương pháp điều trị truyền thống bao gồm bất động tại giường, dùng thuốc giảm đau và mặc áo nẹp. Phương pháp THĐS bằng bơm cement không bóng đã đạt thành công trong điều trị giảm đau. Tuy nhiên kỹ thuật này không có khả năng chỉnh hình đốt sống bị xẹp. THĐS bằng bơm cement có bóng là 1 phương pháp mới, nhằm đặt 2 quả bóng vào thân đốt sống. Khi bóng nở, quá trình lèn xương sẽ giúp khôi phục chiều cao đốt xẹp và tạo ra khoang trống trong thân đốt, để bơm cement

pdf 8 trang phuongnguyen 260
Bạn đang xem tài liệu "Kết quả điều trị tạo hình đốt sống bằng bơm cement có bóng cho bệnh nhân xẹp đốt sống do loãng xương", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Kết quả điều trị tạo hình đốt sống bằng bơm cement có bóng cho bệnh nhân xẹp đốt sống do loãng xương

Kết quả điều trị tạo hình đốt sống bằng bơm cement có bóng cho bệnh nhân xẹp đốt sống do loãng xương
TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2016
42
Đỗ Mạnh Hùng, 
Đinh Ngọc Sơn 
Nguyễn Lê Bảo Tiến, 
Nguyễn Văn Thạch.
Khoa Phẫu thuật cột sống, 
Viện Chấn thương chỉnh 
hình, Bệnh viện Việt Đức
Do Manh Hung, 
Dinh Ngoc Son 
Nguyen Le Bao Tien, 
Nguyen Van Thach
KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ TẠO HÌNH ĐỐT SỐNG 
BẰNG BƠM CEMENT CÓ BÓNG CHO BỆNH NHÂN 
XẸP ĐỐT SỐNG DO LOÃNG XƯƠNG
TÓM TẮT
THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU: Đây là nghiên cứu tiến cứu trong việc sử dụng tạo 
hình đốt sống (THĐS) bằng bơm cement có bóng cho bệnh nhân xẹp đốt sống 
(XĐS) do loãng xương (LX) có triệu chứng.
MỤC TIÊU: Đánh giá độ an toàn và hiệu quả của phương pháp bơm cement có 
bóng trong điều trị đau lưng do XĐS LX.
TỔNG QUAN: XĐS do LX có thể gây nên gù cột sống tiến triển và đau lưng 
mãn tính. Phương pháp điều trị truyền thống bao gồm bất động tại giường, dùng 
thuốc giảm đau và mặc áo nẹp. Phương pháp THĐS bằng bơm cement không 
bóng đã đạt thành công trong điều trị giảm đau. Tuy nhiên kỹ thuật này không 
có khả năng chỉnh hình đốt sống bị xẹp. THĐS bằng bơm cement có bóng là 1 
phương pháp mới, nhằm đặt 2 quả bóng vào thân đốt sống. Khi bóng nở, quá trình 
lèn xương sẽ giúp khôi phục chiều cao đốt xẹp và tạo ra khoang trống trong thân 
đốt, để bơm cement.
PHƯƠNG PHÁP: 37 đốt sống được bơm cement có bóng trên 32 bệnh nhân. Chỉ 
định can thiệp khi người bệnh bị đau lưng do XĐS do LX nguyên phát hoặc thứ 
phát. Thời gian theo dõi trung bình là 6.7 tháng. Đốt sống tổn thương được phát 
hiện trên phim chụp MRI cột sống. Chúng tôi ghi nhận các biến chứng liên quan 
đến kỹ thuật. Phim X quang cột sống trước và sau can thiệp được so sánh để xác 
định độ khôi phục cột sống. So sánh sự khác biệt về chất lượng cuộc sống trước 
và sau can thiệp dựa trên bảng điểm SF-36.
KẾT QUẢ: Nghiên cứu chỉ ra rằng không có biến chứng nào liên quan trực tiếp 
tới kỹ thuật cũng như quá trình nở bóng. 70% đốt sống được bơm cement có bóng 
đã khôi phục chiều cao. Có 3 đốt sống phát hiện rò cement (8.1%). Dựa vào bảng 
điểm SF-36: điểm đau cơ thể thay đổi 11.6-58.7 (p = 0.0001), điểm chức năng cơ 
thể thay đổi 11.7-47.4 (p = 0.002), sự cải thiện rất có ý nghĩa thống kê.
KẾT LUẬN: THĐS bằng bơm cement có bóng rất hiệu quả trong điều trị XĐS 
do LX. Bơm cement có bóng giúp cải thiện triệu chứng đau sớm, phục hồi vận 
động sớm, cũng như khôi phục chiều cao những đốt sống bị xẹp do LX.
ABSTRACT 
Study Design. Prospective study of inflatable bone tamp usage in the treatment of 
symptomatic osteoporotic compression fractures.
Objectives. To evaluate the safety and efficacy of inflatable bone tamp reduction 
and cement augmentation, “kyphoplasty,” in the treatment of painful osteoporotic 
vertebral compression fractures.
Summary of Background Data. Osteoporotic compression fractures can result 
in progressive kyphosis and chronic pain. Traditional treatment for these patients 
Phần 1: Phẫu thuật cột sống
43
includes bed rest, analgesics, and bracing. Augmentation of vertebral compression 
fractures with polymethylmethacrylate, “vertebroplasty,” has been used to treat 
pain. This technique, however, makes no attempt to restore the height of the collapsed 
vertebral body. Kyphoplasty is a new technique that involves the introduction of 
inflatable bone tamps into the vertebral body. Once inflated, the bone tamps restore 
the vertebral body back toward its original height while creating a cavity that can 
be filled with bone cement.
Patients and Methods. 37 consecutive kyphoplasty procedures were performed in 
32 patients. The indications included painful primary or secondary osteoporotic 
vertebral compression fractures. Mean duration of symptoms was 6.7 months. 
Symptomatic levels were identified by correlating the clinical data with MRI findings. 
Perioperative variables and bone tamp complications or issues were recorded and 
analyzed. Preoperative and postoperative radiographs were compared to calculate 
the degree of restoration. Outcome data were obtained by comparing preoperative 
and latest postoperative SF-36 data.
Results. At the completion of the study there were no major complications related 
directly to use of this technique or use of the inflatable bone tamp. In 70% of the 
vertebral bodies kyphoplasty restored the lost height. Cement leakage occurred at 
three levels (8.1%). SF-36 scores for Bodily Pain 11.6 –58.7, (P = 0.0001) and 
Physical Function 11.7– 47.4, (P = 0.002) were among those that showed significant 
improvement.
Conclusions. The inflatable bone tamp was efficaciousin the treatment of 
osteoporotic vertebral compression fractures. Kyphoplasty is associated with early 
clinical improvement of pain and function as well as restoration of vertebral body 
height in the treatment of painful osteoporotic compression fractures. 
Key words: kyphoplasty, vertebral compression fracture, osteoporosis, PMMA bone 
cement, vertebroplasty
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Theo các báo cáo nghiên cứu trên thế giới, loãng 
xương (LX) là một bệnh lý hệ thống, gây ảnh hưởng 
sức khỏe trên 24 triệu người Mỹ. Bệnh lý LX được đặc 
trương bởi sự mất chất khoáng xương từ từ kín đáo, 
dẫn đến ảnh hưởng cấu trúc xương, làm xẹp đốt sống 
(XĐS) một cách tự nhiên hoặc sau chấn thương nhẹ 
(18). Ở Mỹ, mỗi năm trung bình có khoảng 700 000 
trường hợp XĐS do LX, và khoảng 1 phần 3 số bệnh 
nhân này bị di chứng đau mãn tính (5). Trong số BN 
XĐS có khoảng 85% trường hợp nguyên nhân xẹp là 
do LX nguyên phát, số còn lại là do LX thứ phát hoặc 
các bệnh lý ác tính. XĐS gây ra các biến dạng tiến triển 
theo trục dọc của cột sống, thay đổi cấu trúc cơ sinh học 
của cột sống, và có thể làm tăng nguy cơ XĐS thì 2 lên 
gấp 5 lần, do sự dịch chuyển lực làm yếu các đốt sống 
bên trên hoặc bên dưới. Dù XĐS có gây đau lưng hay 
không, nhưng khi xẹp từ 2 đốt sống trở lên sẽ gây ảnh 
hưởng sức khỏe trầm trọng, ảnh hưởng chất lượng cuộc 
sống, làm tăng chi phí y tế do giảm chức năng thông 
khí phổi, giảm sự thèm ăn, giảm khả năng vận động, 
đau mạn tính, hoặc trầm cảm. Tác hại của XĐS do LX 
cũng tương tự như gãy cổ xương đùi. Chi phí cho điều 
trị XĐS do LX ở Mỹ năm 1995 là 746 triệu USD (17). 
Các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng XĐS do LX có liên 
quan đến trên 30% trường hợp tử vong ở người cao tuổi 
(12), điều này không quan sát được ở những bệnh nhân 
gãy xương quay do LX. Ngoài ra, khi 1 đốt sống bị xẹp, 
dự đoán gây mất 9% dung tích sống, và đặc biệt nghiêm 
trọng ở những bệnh nhân có các bệnh lý phổi trước đó. 
Rất nhiều người bệnh phàn nàn vế sự giảm chiều cao 
chung, nguyên nhân là do sự gấp háng và gối thứ phát 
TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2016
44
để bù lại quá trình gù tiến triển của cột sống ngực và 
thắt lưng. Có thể nói XĐS do LX gây ra những vấn đề 
nghiêm trọng như đau mãn tính, biến dạng cột sống, 
giảm chức năng thông khí phổi, giảm vận động và làm 
tăng nguy cơ tử vong. 
Phương pháp điều trị truyền thống cho bệnh nhân 
XĐS do LX là bất động tại giường, dùng thuốc giảm đau 
và mặc áo đai cột sống. Phương pháp này không giúp 
ích gì trong việc chỉnh hình chiều cao đốt sống bị xẹp, 
và bản thân sự bất động lại càng làm tăng nguy cơ mất 
chất khoáng của xương. Việc chỉ định phẫu thuật cho 
XĐS do LX rất hạn chế, cho số ít trường hợp mất vũng 
cột sống hoặc có tổn thương thần kinh kèm theo. Bệnh 
nhân có thể được phẫu thuật theo lối trước hoặc lối sau 
với hàn xương liên thân đốt, tuy nhiên khả năng thành 
công cũng rất thấp do chất lượng xương của người bệnh 
kém và các bệnh lý phối hợp.
Năm 1987 Galibert là người đầu tiên đề xuất kỹ thuật 
tạo hình đốt sống (THĐS) bằng bơm cement không 
bóng (8). Mục đích của kỹ thuật này là bơm cement hóa 
học vào trong đốt sống bị xẹp. Do áp lực cao trong thân 
đốt sống nên đòi hỏi cement phải có độ nhớt để có thể 
lan tỏa trong thân đốt đang bị nén xuống. Mặc dù THĐS 
bằng bơm cement không bóng đã đạt thành công trong 
việc giảm đau cho bệnh nhân, tuy nhiên kỹ thuật này 
không giúp ích trong việc hoàn trả chiều cao đốt sống bị 
xẹp. Hạn chế chính của của kỹ thuật bơm cement không 
bóng là sự rò rỉ cement, tỷ lệ rò chiếm 65% trong điều trị 
XĐS do di căn (20) và 30% trong XĐS do LX.
THĐS bằng bơm cement có bóng là một phương 
pháp mới với nhiều lợi thế. Kỹ thuật này được phát triển 
bởi Mark Reiley, phẫu thuật viên chấn thương chỉnh 
hình người Mỹ. Quá trình bao gồm đặt hệ thống ống dẫn 
vào thân đốt sống, tiếp đó đặt 2 quả bóng vào trong thân 
đốt, được thiết kế để bơm phồng đốt sống bị xẹp. Lúc 
này quả bóng sẽ tạo khoang trống trong thân đốt và được 
lấp đầy bởi cement. Khi bơm cement vào khoang trống 
sẽ dễ dàng hơn trong việc kiểm soát sự dịch chuyển của 
cement và làm giảm nguy cơ rò cement ra ngoài. Mục 
tiêu của nghiên cứu là chúng tôi muốn đánh giá kết quả 
điều trị của phương pháp THĐS bằng bơm cement có 
bóng cho bệnh nhân bị đau lưng do XĐS do LX. Chúng 
tôi tập trung đánh giá sự thuận lợi của kỹ thuật, tư thế, 
độ an toàn và khả năng nắn chỉnh đốt xẹp. Chúng tôi 
cũng nghiên cứu về tỷ lệ rò cement, và kết quả ban đầu 
của bệnh nhân.
Hình 1: Bộ bơm cement có bóng
II. ĐỐI TƯƠNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
NGHIÊN CỨU
 Đây là 1 nghiên cứu tiến cứu được xây dựng để đánh 
giá kết quả ban đầu và sự khôi phục chiều cao đốt sống 
bị xẹp của 32 bệnh nhân sau điều trị XĐS do LX bằng 
phương pháp THĐS bằng bơm cement có bóng. 
* Đối tượng nghiên cứu: 
32 bệnh nhân được THĐS bằng bơm cement có 
bóng, với 37 đốt sống được bơm cement từ tháng 12 
năm 2013 đến tháng 6 năm 2014. Tuổi trung bình của 
bệnh nhân là 66.5 (47 - 84). Tất cả bệnh nhân đều bị 
XĐS do LX, không đáp ứng với điều trị nội khoa sau 
1 tháng. Khoảng thời gian trung bình xuất hiện triệu 
chứng đau lưng là 4.5 tháng (0.5 - 24 tháng). Đốt sống 
bị tổn thương được xác định bằng vùng đau lưng tương 
Phần 1: Phẫu thuật cột sống
45
Hình 2: Các bước bơm cement có bóng. Hình chiếu bên C-arm
ứng trên khám lâm sáng, phim MRI có hình ảnh phù 
nề đốt sống bị xẹp. Loại trừ những trường hợp xẹp do 
nguyên nhân khác, hoặc có biểu hiện chèn ép thần kinh.
* Kỹ thuật THĐS bằng bơm cement có bóng: 
Tất cả bệnh nhân đều trải qua THĐS bằng bơm 
cement có bóng qua ở một hay nhiều đốt sống, bằng kỹ 
thuật chọc kim qua cuống sống hai bên, dưới sự hướng 
dẫn của màn huỳnh quang tăng sáng (Hình 1 và 2). Bệnh 
nhân được đặt ở tư thế nằm sấp, xác định đốt sống bị 
xẹp trên C-arm và gây tê tại chỗ điểm vào. Chọc 2 kim 
11G qua cuống sống 2 bên. Qua đó đặt 2 ống dẫn vào 
thân đốt sống, tiếp theo khoan tạo đường hầm vào thân 
đốt. Qua 2 đường hầm này, hai quả bóng được đưa vào 
đốt sống bị xẹp và bơm từ từ cho đến khi gần chạm đến 
bờ trên và dưới của đốt sống, hoặc áp lực bơm tối đa là 
300 PSI. Lúc này, quá trình lèn xương do sự nở rộng 
của quả bóng sẽ giúp chỉnh hình chiều cao đốt sống bị 
xẹp, trả lại hình dáng đốt sống ban đầu. Sau khi rút 2 
quả bóng ra sẽ tạo thành 2 khoang trống trong thân đốt 
sống. Khoang trống này nhanh chóng được lấp đầy bởi 
cement cho đến khi nó gần chạm tới hai phần ba sau của 
tường sau đốt sống, dưới sự hướng dẫn của C-arm. Tùy 
thuộc vào kích cỡ của đốt sống bị xẹp mà lượng cement 
bơm tối đa có thể dao động từ 1.5 - 8ml trên mỗi đốt.
* Đo góc đốt sống được khôi phục trên 
phim X quang: 
Để đánh giá khả năng chỉnh hình đốt sống bị xẹp 
chúng tôi sử dụng 2 góc đo là góc xẹp đốt sống và góc 
gù cột sống (Hình 3). Góc xẹp đốt sống là góc tạo bởi 2 
đường thẳng nối bờ sụn tiếp phía trên và phía dưới đốt 
sống bị xẹp. Góc gù cột sống là góc tạo bởi 2 đường 
thẳng nối tường sau đốt sống ngay trên đốt xẹp và tường 
sau đốt xẹp. Chúng tôi đánh giá 2 góc này trước và sau 
THĐS bằng bơm cement có bóng, so sánh 2 trung bình 
với T - test. Giá trị P có ý nghĩa thống kê khi < 0.05
TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2016
46
Hình 3: Cách đo góc xẹp, góc gù cột sống (trước và sau bơm cement)
* Đánh giá sự rò cement: 
Sự rò cement được đánh giá sau can thiệp. Rò cement 
sau can thiệp được xác định dựa trên phim X quang sau 
mổ, xác định vị trí rò cement và tương quan với bất cứ 
triệu chứng lâm sàng nào sau mổ.
* Đánh giá kết quả sớm: 
Kết quả điều trị được đánh giá dựa trên sự so sánh 
bảng chất lượng cuộc sống (SF-36) trước và sau mổ. 
Bệnh nhân tự mình trả lời bảng câu hỏi SF-36 mà không 
có bất cứ sự hỗ trợ nào, so sánh trung bình trước mổ, sau 
mổ 1 tháng, 3 tháng và 6 tháng bằng T - test. Giá trị P có 
ý nghĩa thống kê khi < 0.05.
III. KẾT QUẢ
Tất cả 32 bệnh nhân với 37 đốt sống được THĐS 
bằng bơm cement có bóng an toàn, triệu chứng đau và 
chức năng vận động đều cải thiện sớm ngay sau can 
thiệp. Không có trường hợp nào phàn nàn về triệu chứng 
đau xấu đi sau điều trị. Tầng được phẫu thuật giao động 
từ T6 đến L5, và tập trung chủ yếu ở vùng bản lề ngực 
- thắt lưng (T11 = 7, T12 = 9, L1 = 9). 100% bệnh nhân 
được gây tê tại chỗ để can thiệp, không có trường hợp 
nào gây mê. Sau phẫu thuật tất cả người bệnh được giữ 
lại bệnh viện điều trị ít nhất 1 ngày. 28 bệnh nhân được 
xuất viện ngày hôm sau. 4 bệnh nhân được xuất viện sau 
2 ngày. Lượng cement trung bình bơm vào mỗi đốt sống 
là 4.9 ± 1.2 ml, đốt được bơm ít nhất là 2.4 ml, đốt bơm 
nhiều nhất là 7.2 ml. Áp lực trung bình của bóng bơm 
cement là 220 PSI (khoảng 70 – 300 PSI). Chúng tôi có 
1 trường hợp bóng bị vỡ trong quá trình bơm. Nguyên 
nhân là do sau bơm áp lực quá cao, tuy nhiên trường hợp 
này không đòi hỏi phải thay thế bóng khác. Bóng nở 
không cân đối được ghi nhận trong giai đoạn sớm của 
quá trình bơm ở 1 vài trường hợp. Những trường hợp 
còn lại 2 quả bóng đều nở cân đối 2 bên. Điều này có thể 
lý giải là do các quả bóng nằm ở những vị trí có mật độ 
xương khác nhau.
37 đốt sống sau bơm cement có bóng đều được chụp 
phim X quang nghiêng kiểm tra. Chúng tôi ghi nhận 
được sự chỉnh hình đốt sống đáng kể. Góc gù được hiệu 
chỉnh tử 13.1 ± 5.1° trước bơm cement xuống còn 7.1 ± 
3.9° sau bơm, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 
0.001. Góc xẹp thay đổi tử 15.5 ± 4.0° trước bơm xuống 
còn 7.9 ± 2.5° sau bơm, sự khác biệt có ý nghĩa thống 
kê với p < 0.001. Số lượng đốt điều trị có thể chia làm 
2 nhóm, nhóm 1 với khả năng chỉnh hình đốt sống cao 
(chiếm 70%), nhóm 2 khả năng khôi phục chiều cao đốt 
sống thấp (chiếm 30%). Lượng cement trung bình được 
bơm ở 26 đốt sống có khả năng nắn chỉnh cao là 5.7ml, 
trong khi lượng cement trung bình ở 11 đốt sống có khả 
năng nắn chỉnh thấp chỉ là 3.3 ml (p < 0.05). Có 8 đốt 
sống khôi phục được hoàn toàn chiều cao thân đốt tương 
Phần 1: Phẫu thuật cột sống
47
Hình 4: Điểm SF-36 trước và sau phẫu thuật
(CNCT: chức năng cơ thể, VTCT: vai trò cơ thể, ĐCT: đau cơ thể, SKC: sức khỏe chung,
SS: sức sống, CNXH: chức năng xã hội, VTCX: vai trò cảm xúc, SKTT: sức khỏe tinh thần)
tự với các đốt sống liền kề và 5 đốt sống không có bất cứ 
sự thay đổi nào sau phẫu thuật
Bảng điểm SF-3 có 5 phần: điểm đau cơ thể, chức 
năng cơ thể, vai trò cơ thể, sức sống, sức khỏe tinh thần 
là cải thiện rõ rệt sau can thiệp (Hình 4). Điểm đau cơ 
thể được cải thiện từ 11.6 lên 58.7 (P = 0.0001). Điểm 
chức năng cơ thể cải thiện từ 11.7 lên 47.4 (P = 0.0020). 
Vai trò cơ thể thay đổi từ 1.2 lên 29.8 (P = 0.57). Điểm 
sức sống tiến triển từ 24.8 lên 47.9 (P = 0.0013). Sức 
khỏe tinh thần cải thiện từ 59.2 lên 71.1 (P = 0.015). 
Chức năng xã hội thay đổi từ 28.6 lên 69 (P = 0.0004). 
Điểm sức khỏe chung và điểm vai trò cảm xúc thay đổi 
không có ý nghĩa thống kê.
Chúng tôi có 3 đốt sống bị rò cement ra ngoài 
(8.1%). Có 2 trường hợp rò cement lên đĩa đệm và 1 
trường hợp rò ra tường trước đốt sống. Ngay khi phát 
hiện rò cement trên C-arm chúng tôi dừng bơm cement 
ngay lập tức. Cà 3 trường hợp này đều không có bất cứ 
triệu chứng bất thường nào ngay sau bơm và trong suốt 
quá trình theo dõi. Đốt sống rò cement có thể do các 
đường nứt trong thân đốt lan lên bờ sụn tiếp hoặc tường 
trước thân đốt sống.
Thời gian theo dõi cuối cùng trung bình là 6.7 tháng. 
Không có bất cứ biến chứng nào liên quan trực tiếp tới 
kỹ thuật THĐS bằng bơm cement có bóng. Cũng như 
không có bất cứ tổn thương tủy sống hay màng cứng 
liên quan đến việc chọc kim, khoan vào thân đốt sống. 
Quả bóng nở ra được bao phủ toàn bộ trong thân đốt 
sống và 2 khoang trống được tạo ra thành công trong tất 
cả các trường hợp. 
IV. BÀN LUẬN
Thông qua kết quả nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy 
THĐS bằng bơm cement có bóng rất hiệu quả trong 
chỉ định điều trị cho bệnh nhân đau lưng do XĐS LX. 
Phương pháp bơm cement có bóng giúp bệnh nhân giảm 
đau sớm, cải thiện chức năng vận động, cũng như khôi 
phục chiều cao đốt sống bị xẹp. 
Cho đến nay, vẫn còn nhiều tranh luận về sự khác 
biệt giữa phương pháp THĐS bằng bơm cement không 
bóng và bơm cement có bóng. Cả 2 phương pháp đều 
có hiệu quả giảm đau rõ rệt cho bệnh nhân. Tuy nhiên, 
nghiên cứu của chúng tôi đã chỉ ra sự khác biệt của 2 kỹ 
thuật dựa trên sự khôi phục chiều cao đốt sống bị xẹp và 
nguy cơ rò cement. Chúng tôi nhận thấy tỷ lệ rò cement 
của phương pháp bơm cement có bóng thấp hơn đáng 
kể sơ với tỷ lệ rò cement của phương pháp bơm cement 
không bóng đã được công bố. Điều này khẳng định giả 
TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2016
48
thuyết rằng bơm cement vào khoang trống được tạo ra 
do quá trình lèn xương sẽ an toàn và ít rò rỉ cement hơn 
nhiều so với bơm vào đốt sống không được nắn chỉnh. 
Bên cạnh đó, việc khôi phục chiều cao đốt sống bị xẹp, 
khôi phục lại góc gù cột sống sẽ giúp bảo vệ các đốt 
sống phía trên và phía dưới đốt xẹp ít chịu tác động của 
lực dịch chuyển. Điều này cũng được khẳng định dựa 
trên những công bố của các tác giả khác về tỷ lệ XĐS 
thứ phát sau bơm với thời gian theo dõi dài.
Sự chỉnh hình đốt xẹp được cải thiện rõ rệt sau phẫu 
thuật với hệ số hiệu chỉnh góc gù là 6° và góc xẹp là 
7.6° (p < 0.001). Theo Kyeong-Sik Ryu [13], sự hiệu 
chỉnh góc gù từ 16.06 ± 5.24° thành 8.84 ± 3.89°. Như 
vậy, sự khôi phục chiều cao đốt sống bị xẹp là ưu điểm 
của phương pháp bơm cement có bóng, điều mà phương 
pháp bơm không bóng chưa làm được. Trong nghiên 
cứu này, chúng tôi không cố gắng phân tầng hoặc tính 
toán thời gian có triệu chứng lâm sàng bởi vì tất cả bệnh 
nhân có chỉ định đều được đưa vào nghiên cứu. Tuy 
nhiên chúng tôi cho rằng thời gian gãy xương có thể ảnh 
hưởng đến kết quả khôi phục chiều cao đốt sống. Tại 
thời điểm theo dõi cuối cùng, 70% đốt sống có khả năng 
nắn chỉnh cao, tuy nhiên thời gian theo dõi cần kéo dài 
hơn để xác định sự duy trì khả năng nắn chỉnh này. Với 
những bệnh nhân bị XĐS mãn tính, một số trường hợp 
chúng tôi có thể khôi phục chiều cao đốt sống, một số 
trường hợp không thể nắn chỉnh. Tuy nhiên, với tất cả 
những bệnh nhân này chúng tôi đều có thể tạo ra khoang 
trống trong thân đốt sống bằng quá trình lèn xương. 
Điều ấn tượng hơn là chúng tôi có thể dự đoán khả năng 
nắn chỉnh tăng cao ở những đốt sống có thời gian bị xẹp 
ít hơn 3 tháng.
Nghiên cứu của chúng tôi cũng chỉ ra rằng bơm 
cement có bóng là 1 phương pháp an toàn. Các quả bóng 
đều hoạt động tốt và giúp khôi phục được chiều cao đốt 
sống. Triệu chứng đau của bệnh nhân đều cải thiện ngay 
trong vòng 24h đầu sau phẫu thuật. Trong 1 số trường 
hợp, những người bệnh rất cao tuổi có thể đi lại ngay 
sau can thiệp, điều mà trước đó là không thể. Điều này 
đặc biệt quan trọng đối với những bệnh nhân có yếu tố 
nguy cơ cao, giúp họ sớm vận động là giúp giảm nguy 
cơ tử vong. Trong trường hợp bệnh nhân bị gãy xương 
quay hoặc gãy cổ xương đùi do LX, chúng ta phải miễn 
cưỡng chấp nhận sự tổn hại các chức năng cơ sinh học 
do thời gian bắt buộc của quá trình liền xương. Nhưng 
đối với cột sống, chúng ta có thể chiến thắng sự tổn hại 
chức năng cơ sinh học, bởi vì chúng ta đã có 1 phương 
pháp giúp nắn chỉnh sớm và làm vững cột sống sớm cho 
bệnh nhân XĐS do LX. Khi đánh giá tỷ lệ tử vong tăng 
cao ở những trường hợp gãy xương do LX, vận động 
sớm là điều quan trọng hàng đầu giúp giảm tỷ lệ tử 
vong, điều này cũng tương tự trong quần thể bệnh nhân 
cao tuổi bị gãy cổ xương đùi.
Có 1 điều đáng quan tâm là sự tương thích sinh học 
của xương cement trong điều trị XĐS do LX. Khi sử 
dụng xương cement nhân tạo chúng ta dự đoán rằng nó 
sẽ giúp ngăn chặn sự lùn ép đốt sống. Tuy nhiên, câu hỏi 
ở đây là tiến trình tự nhiên của xương cement trong đốt 
sống bị LX sau 20 - 30 năm sẽ như thế nào? Để trả lời 
câu hỏi này chúng ta còn cần những nghiên cứu với thời 
gian dài hơn.
V. KẾT LUẬN
THĐS bằng bơm cement có bóng là một phương 
pháp an toàn và hiệu quả trong việc nắn chỉnh và làm 
vững đốt sống bị xẹp do LX. Quả bóng khi nở ra sẽ giúp 
đốt xẹp khôi phục chiều cao và tạo khoang trống. Khi 
bơm cement vào khoang trống, áp lực bơm sẽ giàm, từ 
đó giảm nguy cơ rò cement ra ngoài. Bơm cement có 
bóng giúp bệnh nhân giảm đau ngay sau can thiệp và cải 
thiện chức năng cuộc sống rõ rệt.
Phần 1: Phẫu thuật cột sống
49
Tài liệu tham khảo
1. Barr JD, Barr MS, Lemley TJ, McCann RM. Percutaneous 
vertebroplasty for pain relief and spinal stabilisation. Spine 
2000;25:923– 8.
2. Bostrum MPG, Lane JM. Future directions: augmentation of 
osteoporotic vertebral bodies. Spine 1997;22(suppl):38 – 42.
3. Cook DJ, Guyatt GH, Adachi JD, et al. Quality of life issues 
in women with vertebral fractures due to osteoporosis. 
Arthritis Rheum 1993;36:750 – 6.
4. Cooper C, Atkinson EJ, Jacobsen SJ, et al. Population-
based study of survival after osteoporotic fractures. Am J 
Epidemiol 1993;137:1001–5.
5. Cooper C, Atkinson EJ, O’Fallon WM, Melton LJ III. 
Incidence of clinically diagnosed vertebral fractures: a 
population-based study in Rochester, Minnesota, 985–1989. 
J Bone Miner Res 1992;7:221–7.
6. Cortet B, Cotton A, Boutry N, et al. Percutaneous 
vertebroplasty in the treatment of osteoporotic vertebral 
compression fractures: an open prospective study. J 
Rheumatol 1999;26:2222– 8.
7. Deramond H, Depriester C, Galibert P, Le Gars D. 
Percutaneous vertebroplasty with polymethylmethacrylate: 
technique, indications and results. Radiol Clin North Am 
1998;36:533– 46.
8. Galibert P, Deramond H. Note préliminaire sur le traitement 
des angiomes vertébraux par vertébroplastie acrylique 
percutanée. Neurochirurgie 1987; 33:166 –7.
9. Greendale GA, Barrett-Connor E, Ingles S, Haile R. Late 
physical and functional effects of osteoporotic fractures 
in women: the Rancho Bernardo Study. J Am Geriatr Soc 
1995;43:955– 61.
10. Heaney RP. The natural history of vertebral osteoporosis: 
is low bone mass an epiphenomenon? Bone 1992;13(suppl 
2):23– 6.
11. Jensen ME, Evans AJ, Mathis JM, Kallmes DF, Cloft 
HJ, Dion JE. Percutaneous polymethylmethacrylate 
vertebroplasty in the treatment of osteoporotic vertebral 
body compression fractures: technical aspects. Am J 
Neuroradiol 1997;18:1897–904.
12. Kado DM, Browner WS, Palermo L, Nevitt MC, Genant 
HK, Cummings, SR. Vertebral fractures and mortality 
in older women: a prospective study. Arch Intern Med 
1999;159:1215–20. 
13. Kyeong-Sik Ryu et al. Single ballon kyphoplasty using far-
lateral extrapedicular approach. Spinal Disord teach. Volume 
20, Number 5, 2007. 392-398.
14. Leech JA, Dulberg C, Kellie S, Pattie L, Gay J. 
Relationship of lung function to severity of osteoporosis in 
women. Am Rev Respir Dis 1990;141:68 –71.
15. Lyles KW, Gold DT, Shipp KM, Pieper CF, Martinez S, 
Mulhausen, PL. Association of osteoporotic vertebral 
fractures with impaired functional status. Am J Med 
1993;94:595– 601.
16. Mathis JM, Petri M, Naff N. Percutaneous vertebroplasty 
treatment of steroid-induced osteoporotic compression 
fractures. Arthritis Rheum 1998;41: 171–5. 
17. Melton LJ III. Epidemiology of spinal osteoporosis. Spine 
1997;22(suppl): 2–11. 
18. Riggs BL, Melton LJ III. Involutional osteoporosis. N Engl J 
Med 1986;314: 1676 . 86.
19. Silverman SL. The clinical consequences of vertebral 
compression fracture. Bone 1992;13(suppl 2):27–31.
20. Weill A, Chiras J, Simon JM, Rose M, Sola-Martinez T, 
Enkaoua E. Spinal metastases: indications for and results 
of percutaneous injection of acrylic cement. Radiology 
1996;199:241–7. Address reprint requests to

File đính kèm:

  • pdfket_qua_dieu_tri_tao_hinh_dot_song_bang_bom_cement_co_bong_c.pdf