Kết quả điều trị tạo hình đốt sống bằng bơm cement có bóng cho bệnh nhân xẹp đốt sống do loãng xương
THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU: Đây là nghiên cứu tiến cứu trong việc sử dụng tạo hình đốt sống (THĐS) bằng bơm cement có bóng cho bệnh nhân xẹp đốt sống (XĐS) do loãng xương (LX) có triệu chứng.
MỤC TIÊU: Đánh giá độ an toàn và hiệu quả của phương pháp bơm cement có bóng trong điều trị đau lưng do XĐS LX.
TỔNG QUAN: XĐS do LX có thể gây nên gù cột sống tiến triển và đau lưng mãn tính. Phương pháp điều trị truyền thống bao gồm bất động tại giường, dùng thuốc giảm đau và mặc áo nẹp. Phương pháp THĐS bằng bơm cement không bóng đã đạt thành công trong điều trị giảm đau. Tuy nhiên kỹ thuật này không có khả năng chỉnh hình đốt sống bị xẹp. THĐS bằng bơm cement có bóng là 1 phương pháp mới, nhằm đặt 2 quả bóng vào thân đốt sống. Khi bóng nở, quá trình lèn xương sẽ giúp khôi phục chiều cao đốt xẹp và tạo ra khoang trống trong thân đốt, để bơm cement
Tóm tắt nội dung tài liệu: Kết quả điều trị tạo hình đốt sống bằng bơm cement có bóng cho bệnh nhân xẹp đốt sống do loãng xương
TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2016 42 Đỗ Mạnh Hùng, Đinh Ngọc Sơn Nguyễn Lê Bảo Tiến, Nguyễn Văn Thạch. Khoa Phẫu thuật cột sống, Viện Chấn thương chỉnh hình, Bệnh viện Việt Đức Do Manh Hung, Dinh Ngoc Son Nguyen Le Bao Tien, Nguyen Van Thach KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ TẠO HÌNH ĐỐT SỐNG BẰNG BƠM CEMENT CÓ BÓNG CHO BỆNH NHÂN XẸP ĐỐT SỐNG DO LOÃNG XƯƠNG TÓM TẮT THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU: Đây là nghiên cứu tiến cứu trong việc sử dụng tạo hình đốt sống (THĐS) bằng bơm cement có bóng cho bệnh nhân xẹp đốt sống (XĐS) do loãng xương (LX) có triệu chứng. MỤC TIÊU: Đánh giá độ an toàn và hiệu quả của phương pháp bơm cement có bóng trong điều trị đau lưng do XĐS LX. TỔNG QUAN: XĐS do LX có thể gây nên gù cột sống tiến triển và đau lưng mãn tính. Phương pháp điều trị truyền thống bao gồm bất động tại giường, dùng thuốc giảm đau và mặc áo nẹp. Phương pháp THĐS bằng bơm cement không bóng đã đạt thành công trong điều trị giảm đau. Tuy nhiên kỹ thuật này không có khả năng chỉnh hình đốt sống bị xẹp. THĐS bằng bơm cement có bóng là 1 phương pháp mới, nhằm đặt 2 quả bóng vào thân đốt sống. Khi bóng nở, quá trình lèn xương sẽ giúp khôi phục chiều cao đốt xẹp và tạo ra khoang trống trong thân đốt, để bơm cement. PHƯƠNG PHÁP: 37 đốt sống được bơm cement có bóng trên 32 bệnh nhân. Chỉ định can thiệp khi người bệnh bị đau lưng do XĐS do LX nguyên phát hoặc thứ phát. Thời gian theo dõi trung bình là 6.7 tháng. Đốt sống tổn thương được phát hiện trên phim chụp MRI cột sống. Chúng tôi ghi nhận các biến chứng liên quan đến kỹ thuật. Phim X quang cột sống trước và sau can thiệp được so sánh để xác định độ khôi phục cột sống. So sánh sự khác biệt về chất lượng cuộc sống trước và sau can thiệp dựa trên bảng điểm SF-36. KẾT QUẢ: Nghiên cứu chỉ ra rằng không có biến chứng nào liên quan trực tiếp tới kỹ thuật cũng như quá trình nở bóng. 70% đốt sống được bơm cement có bóng đã khôi phục chiều cao. Có 3 đốt sống phát hiện rò cement (8.1%). Dựa vào bảng điểm SF-36: điểm đau cơ thể thay đổi 11.6-58.7 (p = 0.0001), điểm chức năng cơ thể thay đổi 11.7-47.4 (p = 0.002), sự cải thiện rất có ý nghĩa thống kê. KẾT LUẬN: THĐS bằng bơm cement có bóng rất hiệu quả trong điều trị XĐS do LX. Bơm cement có bóng giúp cải thiện triệu chứng đau sớm, phục hồi vận động sớm, cũng như khôi phục chiều cao những đốt sống bị xẹp do LX. ABSTRACT Study Design. Prospective study of inflatable bone tamp usage in the treatment of symptomatic osteoporotic compression fractures. Objectives. To evaluate the safety and efficacy of inflatable bone tamp reduction and cement augmentation, “kyphoplasty,” in the treatment of painful osteoporotic vertebral compression fractures. Summary of Background Data. Osteoporotic compression fractures can result in progressive kyphosis and chronic pain. Traditional treatment for these patients Phần 1: Phẫu thuật cột sống 43 includes bed rest, analgesics, and bracing. Augmentation of vertebral compression fractures with polymethylmethacrylate, “vertebroplasty,” has been used to treat pain. This technique, however, makes no attempt to restore the height of the collapsed vertebral body. Kyphoplasty is a new technique that involves the introduction of inflatable bone tamps into the vertebral body. Once inflated, the bone tamps restore the vertebral body back toward its original height while creating a cavity that can be filled with bone cement. Patients and Methods. 37 consecutive kyphoplasty procedures were performed in 32 patients. The indications included painful primary or secondary osteoporotic vertebral compression fractures. Mean duration of symptoms was 6.7 months. Symptomatic levels were identified by correlating the clinical data with MRI findings. Perioperative variables and bone tamp complications or issues were recorded and analyzed. Preoperative and postoperative radiographs were compared to calculate the degree of restoration. Outcome data were obtained by comparing preoperative and latest postoperative SF-36 data. Results. At the completion of the study there were no major complications related directly to use of this technique or use of the inflatable bone tamp. In 70% of the vertebral bodies kyphoplasty restored the lost height. Cement leakage occurred at three levels (8.1%). SF-36 scores for Bodily Pain 11.6 –58.7, (P = 0.0001) and Physical Function 11.7– 47.4, (P = 0.002) were among those that showed significant improvement. Conclusions. The inflatable bone tamp was efficaciousin the treatment of osteoporotic vertebral compression fractures. Kyphoplasty is associated with early clinical improvement of pain and function as well as restoration of vertebral body height in the treatment of painful osteoporotic compression fractures. Key words: kyphoplasty, vertebral compression fracture, osteoporosis, PMMA bone cement, vertebroplasty I. ĐẶT VẤN ĐỀ Theo các báo cáo nghiên cứu trên thế giới, loãng xương (LX) là một bệnh lý hệ thống, gây ảnh hưởng sức khỏe trên 24 triệu người Mỹ. Bệnh lý LX được đặc trương bởi sự mất chất khoáng xương từ từ kín đáo, dẫn đến ảnh hưởng cấu trúc xương, làm xẹp đốt sống (XĐS) một cách tự nhiên hoặc sau chấn thương nhẹ (18). Ở Mỹ, mỗi năm trung bình có khoảng 700 000 trường hợp XĐS do LX, và khoảng 1 phần 3 số bệnh nhân này bị di chứng đau mãn tính (5). Trong số BN XĐS có khoảng 85% trường hợp nguyên nhân xẹp là do LX nguyên phát, số còn lại là do LX thứ phát hoặc các bệnh lý ác tính. XĐS gây ra các biến dạng tiến triển theo trục dọc của cột sống, thay đổi cấu trúc cơ sinh học của cột sống, và có thể làm tăng nguy cơ XĐS thì 2 lên gấp 5 lần, do sự dịch chuyển lực làm yếu các đốt sống bên trên hoặc bên dưới. Dù XĐS có gây đau lưng hay không, nhưng khi xẹp từ 2 đốt sống trở lên sẽ gây ảnh hưởng sức khỏe trầm trọng, ảnh hưởng chất lượng cuộc sống, làm tăng chi phí y tế do giảm chức năng thông khí phổi, giảm sự thèm ăn, giảm khả năng vận động, đau mạn tính, hoặc trầm cảm. Tác hại của XĐS do LX cũng tương tự như gãy cổ xương đùi. Chi phí cho điều trị XĐS do LX ở Mỹ năm 1995 là 746 triệu USD (17). Các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng XĐS do LX có liên quan đến trên 30% trường hợp tử vong ở người cao tuổi (12), điều này không quan sát được ở những bệnh nhân gãy xương quay do LX. Ngoài ra, khi 1 đốt sống bị xẹp, dự đoán gây mất 9% dung tích sống, và đặc biệt nghiêm trọng ở những bệnh nhân có các bệnh lý phổi trước đó. Rất nhiều người bệnh phàn nàn vế sự giảm chiều cao chung, nguyên nhân là do sự gấp háng và gối thứ phát TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2016 44 để bù lại quá trình gù tiến triển của cột sống ngực và thắt lưng. Có thể nói XĐS do LX gây ra những vấn đề nghiêm trọng như đau mãn tính, biến dạng cột sống, giảm chức năng thông khí phổi, giảm vận động và làm tăng nguy cơ tử vong. Phương pháp điều trị truyền thống cho bệnh nhân XĐS do LX là bất động tại giường, dùng thuốc giảm đau và mặc áo đai cột sống. Phương pháp này không giúp ích gì trong việc chỉnh hình chiều cao đốt sống bị xẹp, và bản thân sự bất động lại càng làm tăng nguy cơ mất chất khoáng của xương. Việc chỉ định phẫu thuật cho XĐS do LX rất hạn chế, cho số ít trường hợp mất vũng cột sống hoặc có tổn thương thần kinh kèm theo. Bệnh nhân có thể được phẫu thuật theo lối trước hoặc lối sau với hàn xương liên thân đốt, tuy nhiên khả năng thành công cũng rất thấp do chất lượng xương của người bệnh kém và các bệnh lý phối hợp. Năm 1987 Galibert là người đầu tiên đề xuất kỹ thuật tạo hình đốt sống (THĐS) bằng bơm cement không bóng (8). Mục đích của kỹ thuật này là bơm cement hóa học vào trong đốt sống bị xẹp. Do áp lực cao trong thân đốt sống nên đòi hỏi cement phải có độ nhớt để có thể lan tỏa trong thân đốt đang bị nén xuống. Mặc dù THĐS bằng bơm cement không bóng đã đạt thành công trong việc giảm đau cho bệnh nhân, tuy nhiên kỹ thuật này không giúp ích trong việc hoàn trả chiều cao đốt sống bị xẹp. Hạn chế chính của của kỹ thuật bơm cement không bóng là sự rò rỉ cement, tỷ lệ rò chiếm 65% trong điều trị XĐS do di căn (20) và 30% trong XĐS do LX. THĐS bằng bơm cement có bóng là một phương pháp mới với nhiều lợi thế. Kỹ thuật này được phát triển bởi Mark Reiley, phẫu thuật viên chấn thương chỉnh hình người Mỹ. Quá trình bao gồm đặt hệ thống ống dẫn vào thân đốt sống, tiếp đó đặt 2 quả bóng vào trong thân đốt, được thiết kế để bơm phồng đốt sống bị xẹp. Lúc này quả bóng sẽ tạo khoang trống trong thân đốt và được lấp đầy bởi cement. Khi bơm cement vào khoang trống sẽ dễ dàng hơn trong việc kiểm soát sự dịch chuyển của cement và làm giảm nguy cơ rò cement ra ngoài. Mục tiêu của nghiên cứu là chúng tôi muốn đánh giá kết quả điều trị của phương pháp THĐS bằng bơm cement có bóng cho bệnh nhân bị đau lưng do XĐS do LX. Chúng tôi tập trung đánh giá sự thuận lợi của kỹ thuật, tư thế, độ an toàn và khả năng nắn chỉnh đốt xẹp. Chúng tôi cũng nghiên cứu về tỷ lệ rò cement, và kết quả ban đầu của bệnh nhân. Hình 1: Bộ bơm cement có bóng II. ĐỐI TƯƠNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đây là 1 nghiên cứu tiến cứu được xây dựng để đánh giá kết quả ban đầu và sự khôi phục chiều cao đốt sống bị xẹp của 32 bệnh nhân sau điều trị XĐS do LX bằng phương pháp THĐS bằng bơm cement có bóng. * Đối tượng nghiên cứu: 32 bệnh nhân được THĐS bằng bơm cement có bóng, với 37 đốt sống được bơm cement từ tháng 12 năm 2013 đến tháng 6 năm 2014. Tuổi trung bình của bệnh nhân là 66.5 (47 - 84). Tất cả bệnh nhân đều bị XĐS do LX, không đáp ứng với điều trị nội khoa sau 1 tháng. Khoảng thời gian trung bình xuất hiện triệu chứng đau lưng là 4.5 tháng (0.5 - 24 tháng). Đốt sống bị tổn thương được xác định bằng vùng đau lưng tương Phần 1: Phẫu thuật cột sống 45 Hình 2: Các bước bơm cement có bóng. Hình chiếu bên C-arm ứng trên khám lâm sáng, phim MRI có hình ảnh phù nề đốt sống bị xẹp. Loại trừ những trường hợp xẹp do nguyên nhân khác, hoặc có biểu hiện chèn ép thần kinh. * Kỹ thuật THĐS bằng bơm cement có bóng: Tất cả bệnh nhân đều trải qua THĐS bằng bơm cement có bóng qua ở một hay nhiều đốt sống, bằng kỹ thuật chọc kim qua cuống sống hai bên, dưới sự hướng dẫn của màn huỳnh quang tăng sáng (Hình 1 và 2). Bệnh nhân được đặt ở tư thế nằm sấp, xác định đốt sống bị xẹp trên C-arm và gây tê tại chỗ điểm vào. Chọc 2 kim 11G qua cuống sống 2 bên. Qua đó đặt 2 ống dẫn vào thân đốt sống, tiếp theo khoan tạo đường hầm vào thân đốt. Qua 2 đường hầm này, hai quả bóng được đưa vào đốt sống bị xẹp và bơm từ từ cho đến khi gần chạm đến bờ trên và dưới của đốt sống, hoặc áp lực bơm tối đa là 300 PSI. Lúc này, quá trình lèn xương do sự nở rộng của quả bóng sẽ giúp chỉnh hình chiều cao đốt sống bị xẹp, trả lại hình dáng đốt sống ban đầu. Sau khi rút 2 quả bóng ra sẽ tạo thành 2 khoang trống trong thân đốt sống. Khoang trống này nhanh chóng được lấp đầy bởi cement cho đến khi nó gần chạm tới hai phần ba sau của tường sau đốt sống, dưới sự hướng dẫn của C-arm. Tùy thuộc vào kích cỡ của đốt sống bị xẹp mà lượng cement bơm tối đa có thể dao động từ 1.5 - 8ml trên mỗi đốt. * Đo góc đốt sống được khôi phục trên phim X quang: Để đánh giá khả năng chỉnh hình đốt sống bị xẹp chúng tôi sử dụng 2 góc đo là góc xẹp đốt sống và góc gù cột sống (Hình 3). Góc xẹp đốt sống là góc tạo bởi 2 đường thẳng nối bờ sụn tiếp phía trên và phía dưới đốt sống bị xẹp. Góc gù cột sống là góc tạo bởi 2 đường thẳng nối tường sau đốt sống ngay trên đốt xẹp và tường sau đốt xẹp. Chúng tôi đánh giá 2 góc này trước và sau THĐS bằng bơm cement có bóng, so sánh 2 trung bình với T - test. Giá trị P có ý nghĩa thống kê khi < 0.05 TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2016 46 Hình 3: Cách đo góc xẹp, góc gù cột sống (trước và sau bơm cement) * Đánh giá sự rò cement: Sự rò cement được đánh giá sau can thiệp. Rò cement sau can thiệp được xác định dựa trên phim X quang sau mổ, xác định vị trí rò cement và tương quan với bất cứ triệu chứng lâm sàng nào sau mổ. * Đánh giá kết quả sớm: Kết quả điều trị được đánh giá dựa trên sự so sánh bảng chất lượng cuộc sống (SF-36) trước và sau mổ. Bệnh nhân tự mình trả lời bảng câu hỏi SF-36 mà không có bất cứ sự hỗ trợ nào, so sánh trung bình trước mổ, sau mổ 1 tháng, 3 tháng và 6 tháng bằng T - test. Giá trị P có ý nghĩa thống kê khi < 0.05. III. KẾT QUẢ Tất cả 32 bệnh nhân với 37 đốt sống được THĐS bằng bơm cement có bóng an toàn, triệu chứng đau và chức năng vận động đều cải thiện sớm ngay sau can thiệp. Không có trường hợp nào phàn nàn về triệu chứng đau xấu đi sau điều trị. Tầng được phẫu thuật giao động từ T6 đến L5, và tập trung chủ yếu ở vùng bản lề ngực - thắt lưng (T11 = 7, T12 = 9, L1 = 9). 100% bệnh nhân được gây tê tại chỗ để can thiệp, không có trường hợp nào gây mê. Sau phẫu thuật tất cả người bệnh được giữ lại bệnh viện điều trị ít nhất 1 ngày. 28 bệnh nhân được xuất viện ngày hôm sau. 4 bệnh nhân được xuất viện sau 2 ngày. Lượng cement trung bình bơm vào mỗi đốt sống là 4.9 ± 1.2 ml, đốt được bơm ít nhất là 2.4 ml, đốt bơm nhiều nhất là 7.2 ml. Áp lực trung bình của bóng bơm cement là 220 PSI (khoảng 70 – 300 PSI). Chúng tôi có 1 trường hợp bóng bị vỡ trong quá trình bơm. Nguyên nhân là do sau bơm áp lực quá cao, tuy nhiên trường hợp này không đòi hỏi phải thay thế bóng khác. Bóng nở không cân đối được ghi nhận trong giai đoạn sớm của quá trình bơm ở 1 vài trường hợp. Những trường hợp còn lại 2 quả bóng đều nở cân đối 2 bên. Điều này có thể lý giải là do các quả bóng nằm ở những vị trí có mật độ xương khác nhau. 37 đốt sống sau bơm cement có bóng đều được chụp phim X quang nghiêng kiểm tra. Chúng tôi ghi nhận được sự chỉnh hình đốt sống đáng kể. Góc gù được hiệu chỉnh tử 13.1 ± 5.1° trước bơm cement xuống còn 7.1 ± 3.9° sau bơm, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0.001. Góc xẹp thay đổi tử 15.5 ± 4.0° trước bơm xuống còn 7.9 ± 2.5° sau bơm, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0.001. Số lượng đốt điều trị có thể chia làm 2 nhóm, nhóm 1 với khả năng chỉnh hình đốt sống cao (chiếm 70%), nhóm 2 khả năng khôi phục chiều cao đốt sống thấp (chiếm 30%). Lượng cement trung bình được bơm ở 26 đốt sống có khả năng nắn chỉnh cao là 5.7ml, trong khi lượng cement trung bình ở 11 đốt sống có khả năng nắn chỉnh thấp chỉ là 3.3 ml (p < 0.05). Có 8 đốt sống khôi phục được hoàn toàn chiều cao thân đốt tương Phần 1: Phẫu thuật cột sống 47 Hình 4: Điểm SF-36 trước và sau phẫu thuật (CNCT: chức năng cơ thể, VTCT: vai trò cơ thể, ĐCT: đau cơ thể, SKC: sức khỏe chung, SS: sức sống, CNXH: chức năng xã hội, VTCX: vai trò cảm xúc, SKTT: sức khỏe tinh thần) tự với các đốt sống liền kề và 5 đốt sống không có bất cứ sự thay đổi nào sau phẫu thuật Bảng điểm SF-3 có 5 phần: điểm đau cơ thể, chức năng cơ thể, vai trò cơ thể, sức sống, sức khỏe tinh thần là cải thiện rõ rệt sau can thiệp (Hình 4). Điểm đau cơ thể được cải thiện từ 11.6 lên 58.7 (P = 0.0001). Điểm chức năng cơ thể cải thiện từ 11.7 lên 47.4 (P = 0.0020). Vai trò cơ thể thay đổi từ 1.2 lên 29.8 (P = 0.57). Điểm sức sống tiến triển từ 24.8 lên 47.9 (P = 0.0013). Sức khỏe tinh thần cải thiện từ 59.2 lên 71.1 (P = 0.015). Chức năng xã hội thay đổi từ 28.6 lên 69 (P = 0.0004). Điểm sức khỏe chung và điểm vai trò cảm xúc thay đổi không có ý nghĩa thống kê. Chúng tôi có 3 đốt sống bị rò cement ra ngoài (8.1%). Có 2 trường hợp rò cement lên đĩa đệm và 1 trường hợp rò ra tường trước đốt sống. Ngay khi phát hiện rò cement trên C-arm chúng tôi dừng bơm cement ngay lập tức. Cà 3 trường hợp này đều không có bất cứ triệu chứng bất thường nào ngay sau bơm và trong suốt quá trình theo dõi. Đốt sống rò cement có thể do các đường nứt trong thân đốt lan lên bờ sụn tiếp hoặc tường trước thân đốt sống. Thời gian theo dõi cuối cùng trung bình là 6.7 tháng. Không có bất cứ biến chứng nào liên quan trực tiếp tới kỹ thuật THĐS bằng bơm cement có bóng. Cũng như không có bất cứ tổn thương tủy sống hay màng cứng liên quan đến việc chọc kim, khoan vào thân đốt sống. Quả bóng nở ra được bao phủ toàn bộ trong thân đốt sống và 2 khoang trống được tạo ra thành công trong tất cả các trường hợp. IV. BÀN LUẬN Thông qua kết quả nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy THĐS bằng bơm cement có bóng rất hiệu quả trong chỉ định điều trị cho bệnh nhân đau lưng do XĐS LX. Phương pháp bơm cement có bóng giúp bệnh nhân giảm đau sớm, cải thiện chức năng vận động, cũng như khôi phục chiều cao đốt sống bị xẹp. Cho đến nay, vẫn còn nhiều tranh luận về sự khác biệt giữa phương pháp THĐS bằng bơm cement không bóng và bơm cement có bóng. Cả 2 phương pháp đều có hiệu quả giảm đau rõ rệt cho bệnh nhân. Tuy nhiên, nghiên cứu của chúng tôi đã chỉ ra sự khác biệt của 2 kỹ thuật dựa trên sự khôi phục chiều cao đốt sống bị xẹp và nguy cơ rò cement. Chúng tôi nhận thấy tỷ lệ rò cement của phương pháp bơm cement có bóng thấp hơn đáng kể sơ với tỷ lệ rò cement của phương pháp bơm cement không bóng đã được công bố. Điều này khẳng định giả TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2016 48 thuyết rằng bơm cement vào khoang trống được tạo ra do quá trình lèn xương sẽ an toàn và ít rò rỉ cement hơn nhiều so với bơm vào đốt sống không được nắn chỉnh. Bên cạnh đó, việc khôi phục chiều cao đốt sống bị xẹp, khôi phục lại góc gù cột sống sẽ giúp bảo vệ các đốt sống phía trên và phía dưới đốt xẹp ít chịu tác động của lực dịch chuyển. Điều này cũng được khẳng định dựa trên những công bố của các tác giả khác về tỷ lệ XĐS thứ phát sau bơm với thời gian theo dõi dài. Sự chỉnh hình đốt xẹp được cải thiện rõ rệt sau phẫu thuật với hệ số hiệu chỉnh góc gù là 6° và góc xẹp là 7.6° (p < 0.001). Theo Kyeong-Sik Ryu [13], sự hiệu chỉnh góc gù từ 16.06 ± 5.24° thành 8.84 ± 3.89°. Như vậy, sự khôi phục chiều cao đốt sống bị xẹp là ưu điểm của phương pháp bơm cement có bóng, điều mà phương pháp bơm không bóng chưa làm được. Trong nghiên cứu này, chúng tôi không cố gắng phân tầng hoặc tính toán thời gian có triệu chứng lâm sàng bởi vì tất cả bệnh nhân có chỉ định đều được đưa vào nghiên cứu. Tuy nhiên chúng tôi cho rằng thời gian gãy xương có thể ảnh hưởng đến kết quả khôi phục chiều cao đốt sống. Tại thời điểm theo dõi cuối cùng, 70% đốt sống có khả năng nắn chỉnh cao, tuy nhiên thời gian theo dõi cần kéo dài hơn để xác định sự duy trì khả năng nắn chỉnh này. Với những bệnh nhân bị XĐS mãn tính, một số trường hợp chúng tôi có thể khôi phục chiều cao đốt sống, một số trường hợp không thể nắn chỉnh. Tuy nhiên, với tất cả những bệnh nhân này chúng tôi đều có thể tạo ra khoang trống trong thân đốt sống bằng quá trình lèn xương. Điều ấn tượng hơn là chúng tôi có thể dự đoán khả năng nắn chỉnh tăng cao ở những đốt sống có thời gian bị xẹp ít hơn 3 tháng. Nghiên cứu của chúng tôi cũng chỉ ra rằng bơm cement có bóng là 1 phương pháp an toàn. Các quả bóng đều hoạt động tốt và giúp khôi phục được chiều cao đốt sống. Triệu chứng đau của bệnh nhân đều cải thiện ngay trong vòng 24h đầu sau phẫu thuật. Trong 1 số trường hợp, những người bệnh rất cao tuổi có thể đi lại ngay sau can thiệp, điều mà trước đó là không thể. Điều này đặc biệt quan trọng đối với những bệnh nhân có yếu tố nguy cơ cao, giúp họ sớm vận động là giúp giảm nguy cơ tử vong. Trong trường hợp bệnh nhân bị gãy xương quay hoặc gãy cổ xương đùi do LX, chúng ta phải miễn cưỡng chấp nhận sự tổn hại các chức năng cơ sinh học do thời gian bắt buộc của quá trình liền xương. Nhưng đối với cột sống, chúng ta có thể chiến thắng sự tổn hại chức năng cơ sinh học, bởi vì chúng ta đã có 1 phương pháp giúp nắn chỉnh sớm và làm vững cột sống sớm cho bệnh nhân XĐS do LX. Khi đánh giá tỷ lệ tử vong tăng cao ở những trường hợp gãy xương do LX, vận động sớm là điều quan trọng hàng đầu giúp giảm tỷ lệ tử vong, điều này cũng tương tự trong quần thể bệnh nhân cao tuổi bị gãy cổ xương đùi. Có 1 điều đáng quan tâm là sự tương thích sinh học của xương cement trong điều trị XĐS do LX. Khi sử dụng xương cement nhân tạo chúng ta dự đoán rằng nó sẽ giúp ngăn chặn sự lùn ép đốt sống. Tuy nhiên, câu hỏi ở đây là tiến trình tự nhiên của xương cement trong đốt sống bị LX sau 20 - 30 năm sẽ như thế nào? Để trả lời câu hỏi này chúng ta còn cần những nghiên cứu với thời gian dài hơn. V. KẾT LUẬN THĐS bằng bơm cement có bóng là một phương pháp an toàn và hiệu quả trong việc nắn chỉnh và làm vững đốt sống bị xẹp do LX. Quả bóng khi nở ra sẽ giúp đốt xẹp khôi phục chiều cao và tạo khoang trống. Khi bơm cement vào khoang trống, áp lực bơm sẽ giàm, từ đó giảm nguy cơ rò cement ra ngoài. Bơm cement có bóng giúp bệnh nhân giảm đau ngay sau can thiệp và cải thiện chức năng cuộc sống rõ rệt. Phần 1: Phẫu thuật cột sống 49 Tài liệu tham khảo 1. Barr JD, Barr MS, Lemley TJ, McCann RM. Percutaneous vertebroplasty for pain relief and spinal stabilisation. Spine 2000;25:923– 8. 2. Bostrum MPG, Lane JM. Future directions: augmentation of osteoporotic vertebral bodies. Spine 1997;22(suppl):38 – 42. 3. Cook DJ, Guyatt GH, Adachi JD, et al. Quality of life issues in women with vertebral fractures due to osteoporosis. Arthritis Rheum 1993;36:750 – 6. 4. Cooper C, Atkinson EJ, Jacobsen SJ, et al. Population- based study of survival after osteoporotic fractures. Am J Epidemiol 1993;137:1001–5. 5. Cooper C, Atkinson EJ, O’Fallon WM, Melton LJ III. Incidence of clinically diagnosed vertebral fractures: a population-based study in Rochester, Minnesota, 985–1989. J Bone Miner Res 1992;7:221–7. 6. Cortet B, Cotton A, Boutry N, et al. Percutaneous vertebroplasty in the treatment of osteoporotic vertebral compression fractures: an open prospective study. J Rheumatol 1999;26:2222– 8. 7. Deramond H, Depriester C, Galibert P, Le Gars D. Percutaneous vertebroplasty with polymethylmethacrylate: technique, indications and results. Radiol Clin North Am 1998;36:533– 46. 8. Galibert P, Deramond H. Note préliminaire sur le traitement des angiomes vertébraux par vertébroplastie acrylique percutanée. Neurochirurgie 1987; 33:166 –7. 9. Greendale GA, Barrett-Connor E, Ingles S, Haile R. Late physical and functional effects of osteoporotic fractures in women: the Rancho Bernardo Study. J Am Geriatr Soc 1995;43:955– 61. 10. Heaney RP. The natural history of vertebral osteoporosis: is low bone mass an epiphenomenon? Bone 1992;13(suppl 2):23– 6. 11. Jensen ME, Evans AJ, Mathis JM, Kallmes DF, Cloft HJ, Dion JE. Percutaneous polymethylmethacrylate vertebroplasty in the treatment of osteoporotic vertebral body compression fractures: technical aspects. Am J Neuroradiol 1997;18:1897–904. 12. Kado DM, Browner WS, Palermo L, Nevitt MC, Genant HK, Cummings, SR. Vertebral fractures and mortality in older women: a prospective study. Arch Intern Med 1999;159:1215–20. 13. Kyeong-Sik Ryu et al. Single ballon kyphoplasty using far- lateral extrapedicular approach. Spinal Disord teach. Volume 20, Number 5, 2007. 392-398. 14. Leech JA, Dulberg C, Kellie S, Pattie L, Gay J. Relationship of lung function to severity of osteoporosis in women. Am Rev Respir Dis 1990;141:68 –71. 15. Lyles KW, Gold DT, Shipp KM, Pieper CF, Martinez S, Mulhausen, PL. Association of osteoporotic vertebral fractures with impaired functional status. Am J Med 1993;94:595– 601. 16. Mathis JM, Petri M, Naff N. Percutaneous vertebroplasty treatment of steroid-induced osteoporotic compression fractures. Arthritis Rheum 1998;41: 171–5. 17. Melton LJ III. Epidemiology of spinal osteoporosis. Spine 1997;22(suppl): 2–11. 18. Riggs BL, Melton LJ III. Involutional osteoporosis. N Engl J Med 1986;314: 1676 . 86. 19. Silverman SL. The clinical consequences of vertebral compression fracture. Bone 1992;13(suppl 2):27–31. 20. Weill A, Chiras J, Simon JM, Rose M, Sola-Martinez T, Enkaoua E. Spinal metastases: indications for and results of percutaneous injection of acrylic cement. Radiology 1996;199:241–7. Address reprint requests to
File đính kèm:
ket_qua_dieu_tri_tao_hinh_dot_song_bang_bom_cement_co_bong_c.pdf

