Kết quả điều trị tán sỏi niệu quản nội soi ngược dòng bằng năng lượng holmium laser tại Bệnh viện Quân Y 87

Từ tháng 10/2016 đến tháng 5/2017 tại Khoa ngoại chung - Bệnh viện Quân

y 87, chúng tôi thực hiện nghiên cứu tiến cứu tán sỏi niệu quản nội soi ngược dòng(

TSNQNSND) với nguồn năng lượng Laser Holmium YAG cho 40 bệnh nhân (41 niệu

quản, 42 vị trí sỏi ). Có 28 nam ( 70% ), 12 nữ ( 30% ), độ tuổi trung bình: 65,22 ± 15,19

, trong đó có 1 bệnh nhân bị sỏi 2 bên, 1 bệnh nhân có 2 viên sỏi vừa ở đoạn 1/3 giữa vừa

ở đoạn 1/3 trên. Tỷ lệ tán sỏi thành công: 41/42 viên sỏi (97,6%), thất bại 1/42 ( 2,4%).

Tỉ lệ sạch sỏi ngay sau tán sỏi 92,7%. 4 trường hợp có biến chứng nhẹ sau phẫu thuật: 2

bệnh nhân nhiễm trùng và 2 bệnh nhân đau quặn thận.

pdf 11 trang phuongnguyen 100
Bạn đang xem tài liệu "Kết quả điều trị tán sỏi niệu quản nội soi ngược dòng bằng năng lượng holmium laser tại Bệnh viện Quân Y 87", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Kết quả điều trị tán sỏi niệu quản nội soi ngược dòng bằng năng lượng holmium laser tại Bệnh viện Quân Y 87

Kết quả điều trị tán sỏi niệu quản nội soi ngược dòng bằng năng lượng holmium laser tại Bệnh viện Quân Y 87
CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 
39
KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ TÁN SỎI NIỆU QUẢN NỘI SOI NGƯỢC 
DÒNG BẰNG NĂNG LƯỢNG HOLMIUM LASER TẠI BỆNH 
VIỆN QUÂN Y 87
Phan Đức Thanh1, Vũ Đình Phương1, Nguyễn Việt Cường2
Tóm tắt
Từ tháng 10/2016 đến tháng 5/2017 tại Khoa ngoại chung - Bệnh viện Quân 
y 87, chúng tôi thực hiện nghiên cứu tiến cứu tán sỏi niệu quản nội soi ngược dòng( 
TSNQNSND) với nguồn năng lượng Laser Holmium YAG cho 40 bệnh nhân (41 niệu 
quản, 42 vị trí sỏi ). Có 28 nam ( 70% ), 12 nữ ( 30% ), độ tuổi trung bình: 65,22 ± 15,19 
, trong đó có 1 bệnh nhân bị sỏi 2 bên, 1 bệnh nhân có 2 viên sỏi vừa ở đoạn 1/3 giữa vừa 
ở đoạn 1/3 trên. Tỷ lệ tán sỏi thành công: 41/42 viên sỏi (97,6%), thất bại 1/42 ( 2,4%). 
Tỉ lệ sạch sỏi ngay sau tán sỏi 92,7%. 4 trường hợp có biến chứng nhẹ sau phẫu thuật: 2 
bệnh nhân nhiễm trùng và 2 bệnh nhân đau quặn thận. 
Summary
THE RESULT 0F URETEROSCOPIC LITHOTRIPSY 
TREATMENT BY USING A 9.5F SEMIRIGID URETEROSCOPY WITH 
HOLMIUM: YAG LASER AT MILITARY HOSPITAL 175
From May - 2013 to May- 2017, in General Surgical Department of the 87 
Military Hospital, a prospective study was conducted in 40 patients (with 41 ureters, 
42 ureteral stones) treated with ureteroscopic lithotripsy by using a 9.5F semirigid 
ureteroscope with holmium: YAG laser. In this study, there were 40 patients: 28 males 
and 12 females, with a mean age of 65,22 ± 15,19 years old . Bilateral ureteroscopy 
simultaneously were in 1 patient. One patient had both middle ureteral stone and 
upper ureteral stone.The success rate of stone removal was 97,6%. Unsuccessful was 
1 Bệnh viện Quân y 87
2 Bệnh viện Quân y 175
Người phản hồi (Corresponding): Phan Đức Thanh ([email protected])
Ngày nhận bài: 12/01/2018, ngày phản biện: 29/01/2018
Ngày bài báo được đăng: 30/3/2018
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 13 - 3/2018 
40
2,4%. Stone-free rate was 92,7%. Four minor postoperative complications( 10%): two 
patients had infections and two patients had acute postoperative pain.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Sỏi niệu quản (NQ) là một 
trong những bệnh lý thường gặp của hệ 
tiết niệu. Ở Việt Nam sỏi NQ chiếm tỷ 
lệ 28 - 40% trong bệnh lý sỏi tiết niệu 
[7],[9],[13]. Sỏi NQ thường gây các biến 
chứng do tắc đường tiết niệu, do nhiễm 
khuẩn. Nếu không được điều trị kịp thời 
thì chức năng thận bị suy giảm do ứ nước 
thận, ứ mủ thận [1],[7],[10]. Điều trị sỏi 
hệ tiết niệu đã có những thành tựu đáng 
kể. Tán sỏi qua nội soi (Endo Uroscopic 
Lithotrypsy)... đã giải quyết tới 90% các 
trường hợp sỏi và phẫu thuật lấy sỏi chiếm 
khoảng 10%. Việt Nam đã áp dụng tán 
sỏi NQ nội soi ngược dòng với các nguồn 
năng lượng khác nhau (xung cơ học, siêu 
âm, laser..), để điều trị sỏi NQ gần như 
hầu hết ở các BV lớn. Trong đó nguồn tán 
laser Ho: YAG có tính hiệu quả và an toàn 
cao [3],[4],[14],[17],[19],[21]. Tuy nhiên, 
ở các bệnh viện tuyến dưới và các cơ sở 
điều trị không phải là trung tâm hàng đầu 
của cả nước, với điều kiện về trang thiết 
bị, cơ sở vật tư điều trị và con người còn 
hạn chế thì kỹ thuật này vẫn còn là một 
thách thức không nhỏ. Việc tiếp tục có 
những nghiên cứu đánh giá về kết quả 
điều trị nội soi tán sỏi NQ ngược dòng tại 
các cơ sở này là hết sức cần thiết . Vì vậy, 
chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “ 
Kết quả tán sỏi nội soi ngược dòng sử 
dụng năng lượng Holmium Laser điều 
trị sỏi niệu quản tại Bệnh viện Quân y 
87” nhằm: Đánh giá kết quả điều trị và 
tìm hiểu một số tai biến, biến chứng của 
phương pháp qua đó rút ra một số kinh 
nghiệm trong điều trị sỏi NQ bằng tán 
sỏi qua nội soi NQ với nguồn năng lượng 
Holmium Laser.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG 
PHÁP NGHIÊN CỨU
- Nghiên cứu tiến cứu từ 10/2016- 
5/2017 trên 40 bệnh nhân ( BN) bị sỏi niệu 
quản được điều trị tán sỏi nội soi ngược 
dòng bằng laser holmium YAG.
- Tiêu chuẩn chọn bệnh : BN 
trưởng thành, sỏi niệu quản có kích 
thước: 5 - 20mm ở bất cứ vị trí nào của 
niệu quản, không có chống chỉ định tán 
sỏi nội soi. Loại trừ BN sỏi niệu quản trên 
phụ nữ mang thai.
- Chẩn đoán xác định và vị trí sỏi 
dựa vào KUB, siêu âm bụng,UIV hoặc 
CT-Scan.
- Bộ dụng cụ nội soi tán sỏi niệu 
quản:
+ Máy soi NQ của hãng Karl-
storz gồm ống soi bán cứng, kích thước 9.5 
Fr, dài 43 cm, có 2 kênh thao tác và 1 
kênh dẫn nước.
+ Nguồn tán sỏi: Holmium Laser 
của hãng Accutech, bước sóng 2080nm, 
phát xung thành nhịp 3-10Hz, năng lượng 
CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 
41
thay đổi từ 500-1800Mj.
+ Dụng cụ khác: Máy X quang 
C-arm, Rọ lấy sỏi, Kìm gắp sỏi, Dây 
dẫn,Thông JJ: 6-7 Fr.
1. Phương pháp phẫu thuật:
- Vô cảm: Tê tủy sống( 39BN), 
mê nội khí quản( 1 BN). BN nằm tư thế 
sản khoa.
- Tiến hành soi NQ và tán sỏi NQ 
với nguồn laser Holmium YAG.
2. Nội dung nghiên cứu:
 - Dịch tễ: Tuổi, giới
 - Xét nghiệm: Công thức bạch 
cầu, ure+ creatinin máu, nước tiểu ( BC, 
HC niệu).
 - KUB : vị trí sỏi, kích thước sỏi, 
mức độ cản quang ( so sánh mức độ cản 
quang của xương sườn 12).
- UIV: Đánh giá sự bài tiết thuốc 
và lưu thông thuốc bên NQ có sỏi.
- Siêu âm : đánh giá mức độ thận 
ứ dịch ( 4 mức độ : I, II, III, IV )
- Các ghi nhận trong phẫu thuật: 
tình trạng lỗ NQ, niêm mạc NQ, polype 
NQ, vấn đề đặt sonde JJ, thời gian tán sỏi, 
thời gian hậu phẫu, ghi nhận những khó 
khăn, tai biến, biến chứng
3. Đánh giá kết quả
- Thành công: tán sỏi vỡ nát, các 
mảnh sỏi được lấy ra hoàn toàn hay chỉ 
còn những mảnh vụn nhỏ < 3mm có thể 
tự tiểu ra được, không có tai biến, biến 
chứng trong mổ. Chụp KUB kiểm tra khi 
tái khám thấy sạch sỏi.
- Thất bại: không tán được sỏi, 
do các nguyên nhân như: sỏi quá rắn, sỏi 
chạy lên thận, tai biến trong phẫu thuật 
phải chuyển phương pháp điều trị, chụp 
KUB khi tái khám thấy còn sỏi NQ hoặc 
sỏi chạy lên thận.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu tiến cứu của chúng 
tôi: 40 BN bị sỏi NQ, trong đó có 1 BN 
có sỏi NQ 2 bên và 1 BN có sỏi ở 2 vị trí ( 
chậu và lưng ) cùng một bên được TSNS. 
Như vậy có tất cả 42 vị trí sỏi được tán 
với kết quả như sau:
1. Những đặc điểm chung:
1.1. Tuổi: Tuổi trung bình 65,22 
± 15,19. Nhỏ nhất: 20; lớn nhất 76 tuổi. 
Tuổi 20-60 chiếm đa số (85%), độ tuổi 
còn lao động. Không có sự khác biệt giữa 
các nhóm tuổi (p = 0,103).
1.2. Giới
Nam (chiếm 70%) gặp nhiều hơn nữ (chiếm 30%). Tỷ lệ Nam/ Nữ = 7/3. Sự 
khác biệt có ý nghĩa thống kê với p = 0,024.
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 13 - 3/2018 
42
1.3. Tiền sử về niệu khoa:
Bảng 1. Tiền sử bệnh lý tiết niệu (n=40)
Tiền sử Số BN Tỷ lệ %
Mổ mở lấy sỏi thận hoặc NQ 4 10,0
Nội soi tán sỏi NQ ngược dòng 1 2,5
Tán sỏi ngoài cơ thể 1 2,5
Nhiễm trùng niệu 1 2,5
Tổng 7
Có 7/40 BN (22,5%) có tiền sử bệnh lý tiết niệu. Trong đó có 4 BN đã từng 
được phẫu thuật mở lấy sỏi NQ hoặc sỏi thận.
2. Những đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng:
- BN vào viện với triệu chứng lâm sàng chủ yếu là đau vùng hông lưng bên bị 
sỏi: 30 BN ( 75,0%), các triệu chứng khác như cơn đau quặn thận, đái buốt, đái dắt, đái 
máu, sốt..v.v. gặp với tỷ lệ thấp.
- Số lượng BC trung bình là 9,02 ± 2,47. Số lượng BC cao nhất 16,1 K/mL. Có 
1 BN có cấy khuẩn niệu dương tính với chủng E. Coli. 
- Ure cao nhất: 8,5 mmol/l. Creatinin cao nhất: 140 µmol/l.
- Mức độ ứ nước ở thận do sỏi gây ra:
Biểu đồ : Mức độ ứ nước của thận bệnh lí trên siêu âm 
- Chức năng thận bệnh lý trên UIV:
CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 
43
Bảng 2. Phân tiết thuốc của thận trên UIV (n = 34)
Phân tiết thuốc Số trường hợp Tỷ lệ %
Bình thường 15 44.1
Chậm 15 44.1
Không phân tiết 4 11.8
Tổng 34 100.0
 Thận chậm phân tiết và không phân tiết chiếm tỉ lệ 55,9%; Thận phân tiết bình 
thường chiếm tỉ lệ 44,1%.
- Lưu thông của niệu quản bên có sỏi trên UIV
Bảng 3. Lưu thông của thuốc cản quang trên UIV (n=41)
Lưu thông thuốc Số trường hợp Tỷ lệ %
Không xuống NQ 9 21.95
Dừng trên sỏi 9 21.95
Qua sỏi xuống BQ 12 29.27
Không xác định 11 26.83
Tổng 41 100.0
Có 11/41 (26,83%) không xác 
định được lưu thông đường niệu do thận 
không phân tiết thuốc trên UIV hoặc không 
chụp UIV. Số BN thuốc không xuống NQ 
hoặc thuốc dừng lại trên sỏi như nhau đều 
là 9 BN (21,95%). 12 BN (29,27%) thuốc 
qua sỏi xuống bàng quang.
3. Đặc điểm của sỏi: 
- Vị trí: Sỏi NQ đoạn 1/3 dưới 
23/42 (54,8%), đoạn 1/3 giữa 9/42 
(21,4%), đoạn 1/3 trên 10/42 (23,8%).
- Kích thước: trung bình: 9,88 
± 4,42 mm ( nhỏ nhất 5mm, lớn nhất 20 
mm).
4. Những đặc điểm liên quan 
đến phẫu thuật: Trong quá trình tán sỏi 
cho 42 vị trí sỏi, chúng tôi có ghi nhận 
sau:
4.1. Hình thái miệng NQ: bình 
thường: 24/41 (58,5%), phù nề : 11/41 
(26,8%), hẹp: 6/41 (14,6% ).
4.2.Tình trạng niêm mạc NQ 
trước tán sỏi: 42 trường hợp soi và tiếp 
cận sỏi cho thấy: Niêm mạc NQ tại vị trí 
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 13 - 3/2018 
44
sỏi trước tán bình thường: chiếm 26,2%, 
bị xung huyết chiếm 45,2%, khảm (dính 
vào sỏi): 16,7%, tăng sinh niêm mạc dạng 
polyp: 4,8%, Vừa khảm vừa polyp: 7,1%.
4.3. Tỷ lệ đặt được dây dẫn 
đường qua sỏi lúc ban đầu:
13/42 (31,0%) trường hợp không 
đặt được dây dẫn đường qua sỏi lúc ban 
đầu, phải tán vỡ 1 phần sỏi tạo đường 
hầm, sau đó luồn dây dẫn qua sỏi lên NQ 
trên sỏi
4.4.Thời gian tán sỏi và thời 
gian hậu phẫu: 
- Thời gian tán sỏi: Nhanh nhất: 
15 phút, lâu nhất: 69 phút. TB: 35.29 ± 
11.98 phút
- Thời gian hậu phẫu: Ngày điều 
trị hậu phẫu trung bình: 5,28 ± 2,15 ngày. 
32/39 BN (82,05%) có thời gian hậu phẫu 
≤ 6 ngày.
4.5.Những khó khăn và thất bại: 
thất bại:1/42 (2,4%) do sỏi cao, không đặt 
được dây dẫn qua sỏi và không tiếp cận 
được sỏi, sỏi di chuyển lên bể thận trong 
quá trình bơm nước phải chuyển nội soi 
sau phúc mạc lấy sỏi.
4.6.Vấn đề đặt sonde JJ sau tán 
sỏi: Trong 39 BN (41vị trí sỏi, 40 NQ) 
được tán sỏi thành công, chúng tôi đặt 
sonde JJ sau tán cho 40/40 NQ( 100%).
5. Đánh giá kết quả: Tỷ lệ tán 
sỏi thành công: 41/42 viên sỏi (97,6%). 
Tỉ lệ sạch sỏi ngay sau tán sỏi 92,7%. Có 
3 trường hợp(7,3%) còn sỏi vụn d < 3mm.
6. Các tai biến và biến chứng 
sớm:
- Tai biến: không.
- Biến chứng sớm: 40 BN với 41 
lần tán sỏi thành công, hậu phẫu: 2 BN sốt 
cao (5,0%), tiểu máu (0,0%) và 2 BN đau 
quặn thận (5,0%).
7. Mức độ cải thiện hình thái và 
chức năng của thận bên có sỏi NQ sau 
1 tháng trên siêu âm và UIV:
Bảng 4. Mức độ ứ nước trước và sau tán sỏi của thận bệnh lý trên siêu âm 
Mức độ ứ nước Trước mổ ( n=41) Sau mổ (n=39) P
< 0.001
SL TL SL TL
Không ứ nước 0 0 31 79,49
Độ I 23 56.1 7 17,95
Độ II 16 39.1 0 0
Độ III 1 2.4 1 2,56
Độ IV 1 2.4 0 0
Tổng 41 100.0 39 100
CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 
45
Với 41 thận được khảo sát trước tán sỏi. Loại trừ 1 trường hợp tán sỏi thất bại, 
38 BN tái khám sau 1 tháng với 39 thận được khảo sát (1 BN tán sỏi 2 bên một thì) cho 
thấy: Tỉ lệ thận ứ nước trước tán sỏi 100% giảm còn 20,51% sau tán sỏi.
Bảng 5. Phân tiết thuốc của thận trước và sau mổ trên UIV
Phân tiết thuốc
Trước mổ (n=34) Sau mổ (n=37) P
< 0.001
SL TL SL TL
Bình thường 15 44.1 33 89.2
Chậm 15 44.1 4 10.8 
Không phân tiết 4 11.8 0 0
Tổng 34 100.0 37 100
Chức năng của thận trên UIV 
được cải thiện rõ với 55,9 % chậm phân 
tiết và không phân tiết trước mổ giảm 
xuống còn 10,8 % chậm phân tiết và 
không có trường hợp nào không phân tiết 
sau mổ.
BÀN LUẬN
- Phương pháp điều trị sỏi niệu 
quản bằng tán sỏi nội soi niệu quản 
ngược dòng sử dụng nguồn năng lượng 
laser Holmium YAG: Với tỷ lệ thành 
công trong nghiên cứu của chúng tôi là 
97,6 % chung cho tất cả vị trí sỏi NQ đã 
góp phần cùng với các báo cáo của các 
tác giả trong nước khẳng định thêm cùng 
y văn thế giới , đây là một phương pháp 
điều trị sỏi niệu quản an toàn và hiệu quả 
cao.
- Vấn đề Polype niệu quản: 
Đây là hiện tượng phì đại lớp thượng mô 
niệu mạc tại chỗ bị kích thích bởi viêm 
nhiễm và xơ hóa do sỏi gây ra, là tổn 
thương lành tính. Khi polyp che khuất sỏi 
hoàn toàn nếu không giải quyết tốt vấn 
đề polyp mà tán sỏi, nguy cơ tổn thương 
NQ cao ( rách niêm mạc NQ, chảy máu từ 
chân polyp ), chạy sỏiĐể giải quyết vấn 
đề polyp che khuất sỏi NQ, Các tác giả 
như Sofer, Devarajan, Fried cho rằng việc 
tán sỏi NQ nội soi ngược dòng với nguồn 
laser Holmium YAG tỏ ra hiệu quả hơn cả 
so với các dạng năng lượng tán sỏi khác 
vì Holmium:YAG laser được hấp thu bởi 
nước hiện diện bên trong tế bào nên có thể 
làm bốc hơi tế bào. Vì vậy trong quá trình 
tiếp cận sỏi có thể dùng laser Holmium: 
YAG để đốt các polyp niệu mạc bám 
quanh sỏi, giúp bộc lộ phẫu trường tán sỏi 
rõ ràng hơn. Chúng tôi gặp 5/42 vị trí sỏi 
có polyp (12%) [2],[12],[19].
- Sỏi khảm và tỉ lệ đặt được dây 
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 13 - 3/2018 
46
dẫn đường lúc ban đầu qua sỏi: chúng tôi 
gặp 10/42 (23,8%) trường hợp sỏi khảm, 
trong đó có 3 trường hợp(7,1%) vừa sỏi 
khảm vừa có tăng sinh niêm mạc dạng 
polyp, đây là một vấn đề khá phức tạp cho 
nội soi tán sỏi. Sỏi khảm là tình trạng sỏi 
dính chặt vào niêm mạc NQ gây khó khăn 
khi đưa dây dẫn, rọ bắt sỏi hay các dụng 
cụ gắp sỏi qua nó. Chúng tôi chỉ đặt được 
dây dẫn đường lúc ban đầu lên phía trên 
sỏi là 4/10 (40%) trường hợp; các trường 
hợp còn lại, không đặt được dây dẫn qua 
sỏi, chúng tôi dùng máy soi đưa từ từ để 
tiếp cận, đốt polyp nếu có và tán vỡ một 
phần sỏi rồi luồn dây dẫn qua sỏi ngay 
sau đó.
Kỹ thuật tán sỏi nội soi sỏi NQ 
khảm là: tán sỏi tại chỗ, không cần làm 
bong hòn sỏi ra khỏi thành NQ. Khi tán 
sỏi vỡ một phần và có sự thông thương 
giữa bên trên và bên dưới sỏi thì đẩy dây 
dẫn đường vượt qua sỏi và để lại tại chỗ 
trong NQ, có tác dụng giúp định vị trong 
lúc thao tác [15]. Sau đó rút máy soi ra 
ngoài và đặt lại máy soi vào trong NQ, 
lần đặt máy này dễ dàng hơn so với lần 
đầu, máy được đặt vào NQ ở bên ngoài 
dây dẫn đường. Để dây dẫn đường bên 
ngoài máy soi NQ giúp cho có sẵn một 
kênh thao tác trong máy soi NQ, dùng để 
đặt rọ bắt sỏi. Dùng cần tán sỏi tán vỡ sỏi, 
nếu sỏi vẫn còn khảm vào thành NQ thì 
có thể tán sỏi mà không cần dùng dụng cụ 
bắt sỏi, thỉnh thoảng có thể làm bong các 
sỏi vụn bằng đầu máy tán sỏi.Theo chúng 
tôi, cần tuân thủ kỹ thuật tán sỏi đó là 
trước khi tán sỏi phải nhìn thấy rõ hòn sỏi. 
Những trường hợp sỏi NQ khảm có tăng 
sinh niêm mạc dạng polyp, che kín không 
còn nhìn thấy sỏi sẽ rất dễ gây ra tai biến 
trong khi tán. Nguồn năng lượng Laser tỏ 
rõ ưu thế, có thể đốt teo các sang thương 
dạng polyp, giúp quan sát được sỏi trong 
quá trình tán sỏi, hạn chế tai biến có thể 
có mà nguồn năng lượng xung hơi không 
làm được. Theo Mostafa Khalil (2013), 
Scott V. Wiener (2012), tán sỏi NQ khảm 
bằng năng lượng Laser còn có ưu điểm 
là tạo ra các mảnh sỏi vụn có kích thước 
nhỏ hơn và sỏi không di chuyển lên thận 
[18],[22].
 - Vai trò sonde JJ sau tán sỏi 
niệu quản nội soi: là vấn đề mà các nhà 
niệu khoa rất quan tâm và có nhiều ý kiến 
khác nhau. Hiện nay, vấn đề này cũng bắt 
đầu có sự hướng dẫn rõ ràng về việc có 
hay không đặt sonde JJ sau tán sỏi. Do 
những ảnh hưởng theo hướng tiêu cực do 
sonde JJ gây ra cho bệnh nhân trong thời 
gian mang JJ mà nhiều tác giả trong và 
ngoài nước đã đề cập, cũng như sự ảnh 
hưởng về việc mất thời gian và tài chính 
khi phải tái khám để rút sonde JJ. Vì vậy 
các tác giả khuyến cáo chỉ nên đặt sonde 
sau tán sỏi nội soi khi có một trong những 
vấn đề sau: có sỏi thận phía trên sỏi NQ 
được tán có nguy cơ rơi xuống làm tắc 
nghẽn đường niệu, tán sỏi NQ 2 bên cùng 
lúc, thời gian tán sỏi kéo dài ( trên 45 phút 
), tổn thương niêm mạc niệu quản nhiều 
CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 
47
gây phù nề, tổn thương lỗ NQ ( toác, 
rách), mức độ ứ dịch của thận trên sỏi ít 
[4],[7],[11]. Với 40 niệu quản được tán 
sỏi chúng tôi đều đặt thông JJ (100%), vì 
ít nhiều thì miệng niệu quản và niêm mạc 
niệu quản cũng có tổn thương ở các mức 
độ khác nhau trong quá trình đặt máy và 
tán sỏi. Hơn nữa, tâm lý phẫu thuật viên 
còn e ngại về việc không đặt JJ, chúng 
tôi cố gắng khắc phục vấn đề này trong 
nghiên cứu.
- Thời gian tán sỏi
Thời gian tán sỏi được tính từ lúc 
đặt máy soi đến lúc kết thúc phẫu thuật. 
Do vậy, thời gian tán sỏi phụ thuộc nhiều 
yếu tố như giới tính, vị trí sỏi trên NQ, số 
lượng sỏi phải tán, các bất thường cũng 
như các tổn thương khác của niệu quản 
kèm theo và sự thuần thục của phẫu thuật 
viên.
Thời gian tán sỏi trung bình của 
chúng tôi 35,29 ± 11,8 phút; nhanh nhất: 
15 phút, lâu nhất: 69 phút . Thời gian tán 
sỏi sử dụng năng lượng Laser của một số 
tác giả:
Bảng 4.1: Thời gian tán sỏi bằng Laser của một số tác giả
Tác giả Thời gian (phút)
Nguyễn Việt Cường (2016) 23,5 ± 14,3
Đỗ Ngọc Thế (2012) 24,95
Trịnh Hoàng Giang (2013) 31,2 ± 4,52
Nguyễn Văn Trí Dũng ( 2011) 39,4 ± 12,5
NC này 35.29 ± 11.98
- Tai biến, biến chứng:
Tai biến: Chúng tôi không gặp 
trường hợp nào thủng hoặc đứt NQ, BQ 
hay niệu đạo. Có 1 trường hợp (2,4%) sỏi 
di chuyển lên thận do ở đoạn khúc nối 
bể thận niệu quản, NQ ngay phía trên sỏi 
giãn to và sát với bể thận, trong quá trình 
bơm nước đặt máy để tiếp cận sỏi, sỏi di 
chuyển lên thận. Dương Văn Trung có tỷ 
lệ sỏi di chuyển lên thận một phần hoặc 
hoàn toàn là 1,73% [16]. Đỗ Ngọc thế, 
Trần Các (2012), thực hiện tán sỏi NQ 
nội soi, năng lượng Laser cho 107 BN, có 
8,4% sỏi di chuyển lên thận, chuyển mổ 
mở 2,8% [14]. Một số tác giả vẫn cố gắng 
soi lên bể thận, bắt sỏi trong rọ và tán sỏi. 
Chúng tôi không chủ trương thực hiện mà 
lựa chọn chuyển phương pháp vì máy soi 
bán cứng 9.5F có thể bị gãy, hoặc thủng 
đứt niệu quản trong quá trình thao tác, đó 
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 13 - 3/2018 
48
là tai biến hết sức nặng nề. Một số tác giả 
đặt thông JJ theo dõi và tán sỏi thì 2 sau 
1-2 tuần vì lúc này sỏi có thể di chuyển 
xuống thấp hơn và niệu quản dưới sỏi 
cũng rộng hơn nên dễ thao tác hơn [16]. 
Đối với những cơ sở có trang bị máy soi 
niệu quản mềm thì chỉ định sử dụng máy 
soi mềm cho những trường hợp sỏi cao là 
hoàn toàn thỏa đáng.
Biến chứng hậu phẫu: Trong 39 
bệnh nhân tán sỏi thành công, có hai BN 
bị sốt cao sau mổ (5%), cấy nước tiểu và 
cấy máu đều âm tính, điều trị bằng kháng 
sinh, kháng viêm, diễn biến ổn định. 2 
BN (5%) có cơn đau quặn thận, chúng tôi 
cho dùng thuốc giảm đau, kháng viêm, 
giãn cơ trơn, BN ổn định. Các trường hợp 
nước tiểu sau mổ hồng nhạt và diễn biến 
trong dần sau 1-2 ngày chúng tôi không 
cho đó là biến chứng. Dương Văn Trung 
và Nguyễn Thành Đức có 1 BN bị nhiễm 
khuẩn huyết [6],[16]. Perez Castro E, 
Osther PJ và cộng sự (2014), nghiên cứu 
lâm sàng toàn cầu từ 2010 - 2012 đã có 
9681 BN sỏi NQ được tán sỏi qua nội soi, 
tỉ lệ biến chứng chung: 3,8 - 7,7%, biến 
chứng chảy máu là 5,3% [20].
KẾT LUẬN
- Điều trị sỏi niệu quản bằng 
phương phán nội soi tán sỏi ngược dòng 
là an toàn và hiệu quả cao, tỷ lệ tai biến và 
biến chứng thấp.
- Nguồn năng lượng Laser 
Holmium YAG tán vụn sỏi, tỷ lệ sạch 
sỏi cao và có thể xử lý tốt các tổn thương 
khác của niệu quản.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đỗ Tuấn Anh, Nguyễn Tuấn Đạt, 
Trần Đức, Trần Các (2010), “ Kết quả điều trị 
nội soi tán sỏi niệu quản 2 bên một thì bằng 
xung hơi tại Bệnh viện TƯQĐ 108, Y học 
Việt nam tháng 11, số 2, tr. 27-31.
2. Nguyễn Vũ Khải Ca, Hoàng 
Long và cs (2012), “ Đánh giá kết quả điều 
trị sỏi niệu quản bằng phương pháp tán sỏi 
Holmium laser tại bệnh viện Việt Đức”, Y 
học TP. Hồ Chí Minh, Tập 16, Phụ bản số 3, 
tr. 331-334.
3. Trương Văn Cẩn, Lê Đình Khánh 
và cs(2012), “ Đánh giá kết quả điều trị hẹp 
đường niệu trên bằng Laser qua nội soi niệu 
quản ngược dòng”, Y học TP. Hồ Chí Minh, 
Tập 16, Phụ bản số 3, tr. 274-277.
4. Nguyễn Tân Cương (2010), “ Kết 
quả tán sỏi niệu quản nội soi ngược dòng 
bằng siêu âm”, Y học TP. Hồ Chí Minh, Tập 
14, Phụ bản số 1, tr. 108-111
5. Nguyễn Văn Trí Dũng, Vũ Hồng 
Thịnh (2011), “ So sánh hai phương pháp tán 
sỏi niệu quản ngược dòng bằng siêu âm và 
Laser”, Y học TP. Hồ Chí Minh, Tập 15, Phụ 
bản số 3, tr. 151-155.
6. Nguyễn Thành Đức và cs (2010), 
“ 297 trường hợp nội soi tán sỏi niệu quản tại 
bệnh viện 175”, Tạp chí y dược học quân sự, 
tr. 86-88.
7. Trần Văn Hinh (2011), “ Chiến 
lược điều trị sỏi niệu’, Tài liệu tập huấn 
CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 
49
ngoại tiết niệu, Bộ Quốc Phòng – Cục quân 
y – Bệnh viện TƯQĐ 108, tr. 64-74.
8. Trần Văn Hinh, Đào Thế Anh, 
Trương Thanh Tùng (2010), “ Đặt ống thông 
niệu quản sau tán sỏi nội soi niệu quản ngược 
dòng liệu có cần thiết hay không?”, Y học 
Việt nam, tháng 11, số 2, tr.318-322.
9. Ngô Gia Hy (1980), “ Sỏi niệu”, 
Niệu học tập I, Nxb Y học, tr. 50-126.
10. Nguyễn Mễ (2003), “ Sỏi niệu 
quản”, Bệnh học tiết niệu, Nxb Y học, tr. 244-
248.
11. Nguyễn Thị Hồng Oanh (2014), 
“ Đánh giá kết quả điều trị sỏi niệu quản 
bằng phương pháp tán sỏi qua nội soi niệu 
quản ngược dòng bệnh viện 175”, Luận văn 
chuyên khoa cấp II, Học viện quân y
12. Trịnh Minh Quân (2016), “ 
Đánh giá kết quả điều trị sỏi niệu quản bằng 
phương pháp tán sỏi qua nội soi niệu quản 
ngược dòng sử dụng năng lượng Holmium 
Laser tại bệnh viện đa khoa An Sinh”, Luận 
văn chuyên khoa cấp II, Học viện quân y.
13. Trần Văn Sáng (1998), “ Sỏi tiết 
niệu”, Bài giảng bệnh học niệu khoa, Nxb 
Mũi Cà Mau, tr. 106-155.
14. Đỗ Ngọc Thế, Trần Đức, Trần 
Các (2012), “ Đánh giá kết quả nội soi tán 
sỏi niệu quản bằng Laser HO: YAG trên 107 
bệnh nhân sỏi niệu quản”, Y học TP. Hồ Chí 
Minh, Tập 16, Phụ bản số 3, tr. 318-322.
15. Nguyễn Bửu Triều (2003), “ Tán 
sỏi niệu quản qua nội soi”, Nội soi tiết niệu, 
Nxb Y học, tr. 91-110.
16. Dương Văn Trung (2010), “ 
Kết quả bước đầu tán sỏi thận nội soi ngược 
dòng”, Y học Việt nam, tháng 11, số 2, tr. 
577-581.
17. Vũ Văn Ty (2010), “ Những tiến 
bộ trong điều trị sỏi niệu”, Y học Việt nam, 
tháng 11, số 2, tr. 276-281.
18. Khalil M (2013), “ Management 
of impacted proximal ureteral stone: 
Extracorporeal shock wave lithotripsy versus 
ureteroscopy with holmium: YAG laser 
lithotripsy”, Urol Ann, Vol. 5, pp. 88-92.
19. Leach F.S, et al (2002), “ Ureteral 
Fibroepithelial Polyps; Current Options for 
Diagnosis and Management”, Infect Urol, 
No. 15, Vol. 3, pp. 1-6.
20. Perez C.E, et al (2014), “ 
Differences in Ureteroscopic Stone Treatment 
and Outcomes for Distal, Mid-, Proximal, or 
Multiple Ureteral Locations: The Clinical 
Research Office of the Endourological 
Society Ureteroscopy Global Study”, Eur 
Urol - PubMed-NCBI, pp.1-2.
21. Segura JW, et al (1997), “ 
Ureteral Stones Clinical Guidelines Panel 
summary report on the management of 
ureteral calculi. The American Urological 
Association”, Journal Urol-PubMed-NCBI, 
No. 158, Vol. 5, pp.1915-1921.
22. Weiner S.V, et al (2012), “ Effect 
of Stone Composition on Operative Time 
During Ureteroscopic Holmium: Yttrium-
Aluminum-Garnet Laser Lithotripsy With 
Active Fragment Retrieval”, Journal Urology, 
No. 80, Vol. 4, pp. 790794.

File đính kèm:

  • pdfket_qua_dieu_tri_tan_soi_nieu_quan_noi_soi_nguoc_dong_bang_n.pdf