Kết quả điều trị phẫu thuật bệnh sling động mạch phổi tại Bệnh viện Nhi Trung Ương

Sling động mạch phổi là một bất thường mạch máu hiếm gặp do động mạch phổi trái xuất phát bất thường từ

động mạch phổi phải và thường có tình trạng hẹp khí quản bẩm sinh đi kèm. Biểu hiện lâm sàng của bệnh chủ

yếu liên quan đến các triệu chứng hô hấp: khò khè, thở rít kéo dài, viêm phổi tái diễn, đôi khi có thể suy hô hấp

sớm sau sinh, những bệnh nhân này thường đòi hỏi phẫu thuật (phẫu thuật) sớm. Từ năm 2014 đến 2019, 26

bệnh nhân được phẫu thuật điều trị và theo dõi bệnh sling động mạch phổi tại Bệnh viện Nhi Trung ương. Trên cơ

sở đó, chúng tôi tiến hành nghiên cứu kết quả phẫu thuật và tìm một số yếu tố liên quan đến kết quả phẫu thuật

bệnh sling động mạch phổi tại Bệnh viện Nhi Trung ương với các kết quả như sau: tỉ lệ tử vong liên quan tới phẫu

thuật là 15,4% (4/26), hai bệnh nhân tử vong liên quan tới hội chứng cung lượng tim thấp, hai bệnh nhân còn lại

liên quan đến tình trạng nhiễm trùng sau phẫu thuật. Tất cả đều xảy ra ở những bệnh nhân cần phẫu thuật sửa khí

quản hẹp đi kèm. Theo dõi dài hạn được thực hiện ở 21/22 bệnh nhân (trung bình 20 tháng) với 1 bệnh nhân tử

vong muộn do suy hô hấp, viêm phổi sau thời điểm phẫu thuật 2 tháng, hẹp động mạch phổi trái xảy ra ở 5 bệnh

nhân (20%). Hầu hết các bệnh nhân cải thiện các triệu chứng lâm sàng. Từ đó, chúng tôi rút ra một số nhận xét:

các bệnh nhân sling động mạch phổi không cần sửa khí quản hẹp đi kèm có kết quả tốt. Tỉ lệ tử vong chủ yếu

liên quan tới phẫu thuật sửa khí quản hẹp đi kèm. Các triệu chứng lâm sàng được cải thiện rõ rệt sau phẫu thuật.

pdf 7 trang phuongnguyen 200
Bạn đang xem tài liệu "Kết quả điều trị phẫu thuật bệnh sling động mạch phổi tại Bệnh viện Nhi Trung Ương", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Kết quả điều trị phẫu thuật bệnh sling động mạch phổi tại Bệnh viện Nhi Trung Ương

Kết quả điều trị phẫu thuật bệnh sling động mạch phổi tại Bệnh viện Nhi Trung Ương
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
24 TCNCYH 131 (7) - 2020
Tác giả liên hệ: Đỗ Thị Hải Vân, 
Trường Đại học Y Hà Nội
Email: [email protected]
Ngày nhận: 18/02/2020
Ngày được chấp nhận: 06/07/2020
 KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ PHẪU THUẬT BỆNH SLING ĐỘNG MẠCH 
PHỔI TẠI BỆNH VIỆN NHI TRUNG ƯƠNG
Đặng Thị Hải Vân¹, , Nguyễn Đức Tuấn¹, Nguyễn Lý Thịnh Trường2, 
Nguyễn Hương Giang2, Lê Trọng Tú1
1Trường Đại học Y Hà Nội
2Bệnh viện Nhi Trung ương 
Sling động mạch phổi là một bất thường mạch máu hiếm gặp do động mạch phổi trái xuất phát bất thường từ 
động mạch phổi phải và thường có tình trạng hẹp khí quản bẩm sinh đi kèm. Biểu hiện lâm sàng của bệnh chủ 
yếu liên quan đến các triệu chứng hô hấp: khò khè, thở rít kéo dài, viêm phổi tái diễn, đôi khi có thể suy hô hấp 
sớm sau sinh, những bệnh nhân này thường đòi hỏi phẫu thuật (phẫu thuật) sớm. Từ năm 2014 đến 2019, 26 
bệnh nhân được phẫu thuật điều trị và theo dõi bệnh sling động mạch phổi tại Bệnh viện Nhi Trung ương. Trên cơ 
sở đó, chúng tôi tiến hành nghiên cứu kết quả phẫu thuật và tìm một số yếu tố liên quan đến kết quả phẫu thuật 
bệnh sling động mạch phổi tại Bệnh viện Nhi Trung ương với các kết quả như sau: tỉ lệ tử vong liên quan tới phẫu 
thuật là 15,4% (4/26), hai bệnh nhân tử vong liên quan tới hội chứng cung lượng tim thấp, hai bệnh nhân còn lại 
liên quan đến tình trạng nhiễm trùng sau phẫu thuật. Tất cả đều xảy ra ở những bệnh nhân cần phẫu thuật sửa khí 
quản hẹp đi kèm. Theo dõi dài hạn được thực hiện ở 21/22 bệnh nhân (trung bình 20 tháng) với 1 bệnh nhân tử 
vong muộn do suy hô hấp, viêm phổi sau thời điểm phẫu thuật 2 tháng, hẹp động mạch phổi trái xảy ra ở 5 bệnh 
nhân (20%). Hầu hết các bệnh nhân cải thiện các triệu chứng lâm sàng. Từ đó, chúng tôi rút ra một số nhận xét: 
các bệnh nhân sling động mạch phổi không cần sửa khí quản hẹp đi kèm có kết quả tốt. Tỉ lệ tử vong chủ yếu 
liên quan tới phẫu thuật sửa khí quản hẹp đi kèm. Các triệu chứng lâm sàng được cải thiện rõ rệt sau phẫu thuật.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Sling động mạch phổi¹ là bệnh tim bẩm sinh 
do động mạch phổi trái xuất phát bất thường từ 
động mạch phổi phải, đi giữa khí quản và thực 
quản tới cấp máu cho phổi trái, gây chèn ép 
lên khí quản. Yu và cộng sự² báo cáo tỉ lệ sling 
động mạch phổi chiếm khoảng 59/1.000.000 
trẻ ở độ tuổi học đường. Theo Xie và cộng sự3 
sling động mạch phổi chiếm tỉ lệ 0,14% trong 
số các bệnh nhân được chẩn đoán bệnh tim 
bẩm sinh.
Biểu hiện lâm sàng chủ yếu của bệnh là 
tình trạng khò khè hoặc thở rít kéo dài. Những 
bệnh nhân hẹp nặng khí quản có thể suy hô 
hấp ngay sau sinh. Bên cạnh đó một số bệnh 
nhân không biểu hiện triệu chứng lâm sàng.⁴ 
Sling động mạch phổi được chẩn đoán chủ yếu 
dựa vào siêu âm tim và chụp cắt lớp vi tính lồng 
ngực. Bệnh cảnh sling động mạch phổi được 
điều trị triệt để bằng phẫu thuật. Phương pháp 
phẫu thuật sửa sling động mạch phổi là cắt 
rời động mạch phổi trái khỏi động mạch phổi 
phải và trồng lại vào thân động mạch phổi ở vị 
trí bình thường. Những bệnh nhân có hẹp khí 
quản đi kèm được sửa hẹp khí quản kiểu trượt 
cùng thì với sửa sling động mạch phổi.⁵ Với sự 
cải tiến không ngừng của các phương pháp 
phẫu thuật, kết quả điều trị bệnh sling động 
mạch phổi ngày càng được cải thiện. Nghiên 
cứu của Yong và cộng sự¹ ghi nhận tỉ lệ tử vong 
liên quan đến phẫu thuật là 14,3%. 
Tại Bệnh viện Nhi Trung ương, số bệnh 
nhân được chẩn đoán và điều trị phẫu thuật 
sling động mạch phổi tăng dần trong những 
năm gần đây, tuy nhiên hiện tại chưa có một 
Từ khóa: phẫu thuật sling động mạch phổi, sửa hẹp khí quản kiểu trượt.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
25TCNCYH 131 (7) - 2020
nghiên cứu nào nhận xét về kết quả điều trị 
phẫu thuật của bệnh lí này. Vì vậy chúng tôi 
tiến hành nghiên cứu đề tài này với mục tiêu: 
nhận xét kết quả điều trị phẫu thuật bệnh sling 
động mạch phổi tại Bệnh viện Nhi Trung ương.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
26 bệnh nhân phẫu thuật điều trị sling động 
mạch phổi tại Bệnh viện Nhi Trung ương. Trong 
đó 22 bệnh nhân phẫu thuật sửa sling động 
mạch phổi kèm sửa hẹp khí quản đi kèm, 4 
bệnh nhân phẫu thuật sửa sling động mạch 
phổi đơn thuần.
+ Chẩn đoán sling động mạch phổi trong 
phẫu thuật: quan sát trực tiếp thấy động mạch 
phổi trái xuất phát muộn hơn vị trí thông thường 
từ động mạch phổi phải, đi giữa khí quản và 
thực quản tới cấp máu cho phổi trái.
+ Phương pháp phẫu thuật: động mạch phổi 
trái được cắt rời khỏi động mạch phổi phải và 
đưa ra trước khí quản, sau đó trồng lại động 
mạch phổi trái vào đoạn xa thân chung động 
mạch phổi ở vị trí xuất phát bình thường của 
động mạch phổi trái. Các bệnh nhân có hẹp 
khí quản đi kèm và có các triệu chứng trên lâm 
sàng được phẫu thuật sửa chữa cùng thì với 
phẫu thuật sling động mạch phổi.
2. Phương pháp
Nghiên cứu mô tả cắt ngang và theo dõi các 
bệnh nhân sau phẫu thuật với mẫu thuận tiện 
trong thời gian từ tháng 7 năm 2014 tới tháng 
7 năm 2019.
- Các biến số nghiên cứu: tuổi phẫu thuật 
(tháng), cân nặng lúc phẫu thuật (kg), biến 
chứng sau phẫu thuật (rối loạn nhịp, suy thận 
cấp, nhiễm trùng, hội chứng cung lượng tim 
thấp), các biến số liên quan đến các thông số 
hồi sức sau phẫu thuật (thời gian chạy tuần 
hoàn ngoài cơ thể, hematocrit thấp nhất, thời 
gian thở máy, thời gian nằm viện), các biến 
số liên quan đến theo dõi sau phẫu thuật (tình 
trạng viêm phổi tái diễn, khò khè tái diễn, kích 
thước các động mạch phổi sau phẫu thuật)
3. Xử lý số liệu
Thu thập số liệu theo mẫu bệnh án nghiên 
cứu, xử lý số liệu theo các phương pháp thống 
kê với phần mềm SPSS 16.0, sử dụng các test 
thống kê phù hợp, khi so sánh mức khác biệt có 
ý nghĩa thống kê với p < 0,05.
4. Đạo đức nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả, quan sát, không can 
thiệp vào quá trình chẩn đoán, điều trị của bệnh 
nhân. Được sự tự nguyện chấp thuận tham gia 
nghiên cứu của bệnh nhân và người nhà bệnh 
nhân.
III. KẾT QUẢ
Trong thời gian nghiên cứu có 26 bệnh nhân 
được phẫu thuật bệnh sling động mạch phổi tại 
Bệnh viện Nhi Trung ương.
1. Đặc điểm chung của các bệnh nhân 
nghiên cứu.
- Tuổi trung bình: 12,6 ± 14,1 tháng; nhỏ 
nhất: 9 ngày, lớn nhất: 65 tháng. Cân nặng 
trung bình: 7,2 ± 3 kg; nhỏ nhất: 2,5 kg; lớn 
nhất: 14 kg.
- Phương pháp phẫu thuật: 25/26 bệnh 
nhân sửa sling động mạch phổi bằng phương 
pháp cắt rời động mạch phổi trái khỏi động 
mạch phổi phải và trồng lại vào thân động mạch 
phổi ở vị trí bình thường. Một bệnh nhân trong 
phẫu thuật thấy có 1 động mạch phổi trái xuất 
phát bình thường, 1 động mạch phổi trái xuất 
phát muộn từ động mạch phổi phải, bệnh nhân 
được giữ lại cả hai động mạch phổi trái. 22 
bệnh nhân sửa khí quản hẹp cùng thì với sửa 
sling động mạch phổi theo phương pháp sửa 
khí quản kiểu trượt. 12 bệnh nhân phẫu thuật 
bệnh tim bẩm sinh đi kèm cùng thì với sửa sling 
động mạch phổi.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
26 TCNCYH 131 (7) - 2020
2. Kết quả điều trị phẫu thuật và các yếu tố liên quan
- Kết quả điều trị phẫu thuật.
Bảng 1. Kết quả điều trị phẫu thuật
Kết quả phẫu thuật 
Phẫu thuật sling và khí 
quản hẹp
Phẫu thuật sling đơn 
thuần
Tổng
Tử vong (n - %) 4 - 18,2% 0 - 0% 4 - 15,4%
Sống
Phẫu thuật lần một 
(n - %)
17 - 77,3% 4 - 100% 21 - 80,8%
Phẫu thuật lần hai 
(n - %)
1 - 4,5% 0 - 0% 1 - 3,8%
Tổng (n - %) 22 - 100% 4 - 100% 26 -100%
Tỉ lệ tử vong liên quan đến phẫu thuật là 15,4% (4/26). Tất cả các bệnh nhân tử vong đều ở nhóm 
sửa khí quản hẹp đi kèm. Một bệnh nhân phải tạo hình lại khí quản ngày thứ 7 sau phẫu thuật do 
rò khí quản.
- Biến chứng sau phẫu thuật
Biểu đồ 1. Các biến chứng sau phẫu thuật, N = 26.
Tỉ lệ biến chứng sau phẫu thuật là 30,8% (8/26). Biến chứng nhiễm trùng hay gặp nhất 15,4% 
(4/26). 
- Các yếu tố liên quan đến kết quả phẫu thuật
Dựa vào kết quả phẫu thuật sớm, chia bệnh nhân làm 2 nhóm: Nhóm 1: các bệnh nhân sống, ra 
viện sau phẫu thuật; Nhóm 2: các bệnh nhân tử vong sớm (tử vong trong vòng 30 ngày sau phẫu 
thuật hoặc trước khi ra viện).1 Tiến hành tìm các yếu tố liên quan tới kết quả phẫu thuật.
+ Liên quan giữa tuổi, cân nặng với kết quả phẫu thuật: Tuổi trung bình nhóm bệnh nhân tử vong 
là 6 ± 4,7 tháng thấp hơn nhóm sống (13 ± 15,2 tháng). Cân nặng trung bình nhóm bệnh nhân tử 
vong là 6,4 ± 2,8 kg thấp hơn nhóm sống (7,2 ± 3,2 tháng). Tuy nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa 
thống kê (p > 0,05).
+ Mối liên quan giữa phương pháp phẫu thuật và kết quả phẫu thuật
7,7 7,7
15,4
3,8
0
5
10
15
20
25
30
HC cung lượng 
tim thấp
Rối loạn nhịp tim Nhiễm trùng Suy thận cấp
T
ỉ 
lệ
 %
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
27TCNCYH 131 (7) - 2020
Bốn bệnh nhân tử vong sớm đều có sửa khí quản hẹp đi kèm. Trong khi 4 bệnh nhân sửa sling 
đơn thuần đều sống đến thời điểm kết thúc nghiên cứu. Tỉ lệ tử vong ở nhóm phẫu thuật sửa khí 
quản cao hơn nhóm không sửa khí quản (22,2% so với 0%), nhưng sự khác biệt không có ý nghĩa 
thống kê (p > 0,05).
Trong số 12 bệnh nhân phẫu thuật bệnh tim bẩm sinh đi kèm, 1 bệnh nhân sau phẫu thuật tim 
bẩm sinh còn ống động mạch tử vong liên quan đến biến chứng sau phẫu thuật. Tỉ lệ tử vong của 
hai nhóm có và không phẫu thuật bệnh tim bẩm sinh đi kèm khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p 
> 0,05).
Bảng 2. Liên quan giữa các thông số hồi sức sau phẫu thuật với kết quả phẫu thuật
Các thông số
Sống 
(n = 22)
Tử vong 
(n = 4)
Tổng p
Thời gian tuần hoàn ngoài cơ thể (phút) 130 ± 60 204 ± 37 147 ± 60 0,03
Hematocrit thấp nhất (%) 28,8 ± 2,3 26,5 ± 1,7 28,2 ± 2,2 0,07
Thời gian thở máy (ngày) 9 ± 6 35 ± 25 13 ± 13 0,02
Thời gian nằm viện (ngày) 31 ± 16 59 ± 31 36 ± 23 0,01
Thời gian chạy tuần hoàn ngoài cơ thể ở nhóm bệnh nhân sống thấp hơn nhóm bệnh nhân tử 
vong. Thời gian thở máy và thời gian nằm viện của nhóm bệnh nhân tử vong cao hơn so với nhóm 
bệnh nhân sống sau phẫu thuật. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với độ tin cậy 95% (p < 0,05).
- Theo dõi sau phẫu thuật
Theo dõi 22 bệnh nhân sống ra viện: 1 bệnh nhân tử vong sau phẫu thuật sửa sling động mạch 
phổi kết hợp sửa khí quản 2 tháng vì suy hô hấp, viêm phế quản phổi. Một bệnh nhân chuyển nơi 
cư trú, không khám lại. 20 bệnh nhân khám lại tại thời điểm sau phẫu thuật 3 tháng, 15 bệnh nhân 
khám lại sau 6 tháng, 13 bệnh nhân khám lại sau 9 tháng.
+ Tiến triển lâm sàng sau phẫu thuật.
Biểu đồ 2. Tiến triển lâm sàng sau phẫu thuật
20
5
2
0
10
3
2
0
5
10
15
20
25
Trước phẫu 
thuật
Sau 3 tháng Sau 6 tháng Sau 9 tháng
S
ố
 b
ệ
n
h
 n
h
â
n
Thở rít Viêm phế quản phổi
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
28 TCNCYH 131 (7) - 2020
Các triệu chứng lâm sàng giảm rõ rệt so với trước phẫu thuật. 
+ Tiến triển đường kính các động mạch phổi sau phẫu thuật.
Biểu đồ 3. Theo dõi đường kính động mạch phổi trên siêu âm tim sau phẫu thuật.
Tỉ lệ hẹp động mạch phổi trái sau phẫu thuật: 25% (5/20). Tỉ lệ bệnh nhân giãn động mạch phổi 
phải giảm đáng kể từ 40% (14/35) trước phẫu thuật xuống 10,0% (2/20) tại thời điểm 3 tháng sau 
phẫu thuật.
Tại thời điểm kết thúc nghiên cứu (tháng 8 năm 2019): Thời gian theo dõi trung bình: 20 tháng, 
ngắn nhất: 2 tháng, dài nhất: 5 năm. Trong số 20 bệnh nhân sống được theo dõi: 25% (5/20) bệnh 
nhân có hẹp động mạch phổi trái. Một bệnh nhân hẹp khí quản sau phẫu thuật.
IV. BÀN LUẬN
14
2
1
1
5
4
0
2
4
6
8
10
12
14
16
Trước phẫu 
thuật
Sau 3 tháng Sau 6 tháng Sau 9 tháng
S
ố
 b
ệ
n
h
 n
h
â
n
Giãn ĐMP phải Hẹp ĐMP trái
Kết quả điều trị phẫu thuật
Tỉ lệ tử vong liên quan đến phẫu thuật là 
15,4% (4/26). Tương tự nghiên cứu của Yong 
và cộng sự1 báo cáo tỉ lệ tử vong liên quan đến 
phẫu thuật là 14,3% ở 21 bệnh nhân (12 sửa 
khí quản) nhưng cao hơn trong nghiên cứu của 
Oshima và cộng sự⁶ (6,5%; 31 bệnh nhân, 28 
bệnh nhân sửa khí quản). Ở nghiên cứu của 
chúng tôi, bốn bệnh nhân tử vong sớm chủ yếu 
liên quan đến các biến chứng như nhiễm trùng 
(2 bệnh nhân), hội chứng cung lượng tim thấp 
sau phẫu thuật (2 bệnh nhân). Cả bốn bệnh 
nhân tử vong đều có sửa hẹp khí quản đi kèm. 
Trong khi 4 bệnh nhân sửa sling động mạch 
phổi đơn thuần đều sống đến thời điểm kết 
thúc nghiên cứu. Có thể thấy sửa khí quản đi 
kèm là một trong những yếu tố ảnh hưởng tới 
tỉ lệ tử vong sớm. Ngiên cứu của Hong và cộng 
sự⁷ cũng ghi nhận kết quả phẫu thuật tốt hơn ở 
nhóm chỉ phẫu thuật sửa sling động mạch phổi 
đơn thuần so với nhóm có sửa hẹp khí quản đi 
kèm. Tỉ lệ tử vong của hai nhóm có và không 
có phẫu thuật tim bẩm sinh đi kèm là khác biệt 
không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Fiore và 
cộng sự⁸ cho rằng vá thông liên nhĩ hoặc thông 
liên thất phần màng có thể thực hiện cùng thì 
với sửa sling động mạch phổi mà không làm 
tăng nhiều độ rủi ro. Tuy nhiên những bệnh 
tim bẩm sinh phức tạp (như tứ chứng Fallot) 
nên được sửa chữa khi bệnh nhân đã hồi phục 
sau quá trình phẫu thuật sling động mạch phổi. 
Trong nghiên cứu, một bệnh nhân Fallot ⁴ phẫu 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
29TCNCYH 131 (7) - 2020
thuật sửa toàn bộ cùng thì với sửa sling động 
mạch phổi. Sau phẫu thuật, bệnh nhân ổn 
định và sống khỏe mạnh tới thời điểm kết thúc 
nghiên cứu.
Theo dõi các yếu tố hồi sức sau phẫu thuật, 
chúng tôi nhận thấy thời gian chạy tuần hoàn 
ngoài cơ thể của nhóm sống thấp hơn nhóm 
tử vong (p < 0,05). Thời gian chạy tuần hoàn 
ngoài cơ thể kéo dài ở các bệnh nhân nhi có thể 
gây nên tình trạng huyết động không ổn định 
sau phẫu thuật, đặc biệt khi có bệnh tim bẩm 
sinh phức tạp đi kèm.⁴ Thời gian thở máy trung 
bình: 13 ± 13 ngày; thời gian thở máy trung 
bình của nhóm sống ngắn hơn nhóm tử vong 
(p < 0,05). Thời gian nằm viện trung bình: 36 
± 23 ngày. Thời gian nằm viện trung bình của 
nhóm sống ngắn hơn nhóm tử vong (p < 0,05). 
Kết quả này tương tự nghiên cứu của Yong và 
cộng sự¹ (thời gian thở máy và nằm viện trung 
bình là 9 và 24 ngày).
Theo dõi 20 bệnh nhân sống sau phẫu thuật 
tại các thời điểm 3 tháng, 6 tháng và 9 tháng 
sau phẫu thuật. Ghi nhận các triệu chứng lâm 
sàng cải thiện rõ rệt. Số bệnh nhân còn khò 
khè, thở rít, viêm phổi tái diễn giảm dần ở các 
thời điểm 3 tháng, 6 tháng và 9 tháng. Trên hình 
ảnh nội soi khí quản, chỉ có một bệnh nhân có 
biến chứng hẹp khí quản tái phát do quá phát 
mô hạt và đáp ứng tốt với nong khí quản. Điều 
này chứng tỏ, ở phương pháp phẫu thuật sửa 
khí quản kiểu trượt, sự phát triển của khí quản 
có thể đáp ứng được sự phát triển của trẻ và 
các biến chứng dài hạn về hô hấp hiếm khi xảy 
ra. Nghiên cứu của Yong và cộng sự¹ cũng báo 
cáo kết quả tiến triển lâm sàng tốt sau phẫu 
thuật, hầu hết các bệnh nhân không còn triệu 
chứng khi theo dõi dài hạn. Tại thời điểm kết 
thúc nghiên cứu có 5/20 bệnh nhân (25%) có 
hẹp động mạch phổi trái sau phẫu thuật. Trong 
số này, 4 bệnh nhân hẹp động mạch phổi trái từ 
trước. Một bệnh nhân được nong động mạch 
phổi trái tại thời điểm 3 tháng, sau nong vẫn còn 
tình trạng hẹp động mạch phổi trái, bệnh nhân 
có chỉ định phẫu thuật tạo hình động mạch phổi 
trái, 3 bệnh nhân đang được hẹn theo dõi thêm 
ở lần khám lại 6 tháng. Một bệnh nhân phát 
hiện hẹp động mạch phổi trái khi khám lại sau 
18 tháng, sau nong động mạch phổi trái có kết 
quả tốt. Tình trạng này có thể do quá trình phát 
triển cân nặng của trẻ tốt, trong khi miệng nối 
động mạch phổi trái sau phẫu thuật được giải 
phóng khỏi sự chèn ép nhưng chưa phát triển 
tốt, do đó có sự hẹp tương đối của động mạch 
phổi khi so với cân nặng hiện tại của trẻ. Tỉ lệ 
hẹp động mạch phổi trái trong nghiên cứu của 
chúng tôi là thấp hơn so với nghiên cứu của 
Goldstein và cộng sự⁶ nhưng cao hơn so với 
nghiên cứu của Yong và cộng sự¹ (tỉ lệ 4,8%). 
V. KẾT LUẬN
Các bệnh nhân sling động mạch phổi không 
cần phẫu thuật sửa khí quản hẹp đi kèm có kết 
quả rất tốt. Tỉ lệ tử vong chủ yếu liên quan tới 
việc cần thiết phải phẫu thuật khí quản hẹp đi 
kèm. Phẫu thuật sửa chữa các bệnh tim bẩm 
sinh đi kèm có thể được thực hiện một cách 
an toàn ở một số bệnh nhân nhất định. Nhóm 
bệnh nhân tử vong sau phẫu thuật chủ yếu liên 
quan đến các biến chứng sau phẫu thuật như 
hội chứng cung lượng tim thấp, nhiễm trùng 
sau phẫu thuật.
Lời cảm ơn
Nhóm nghiên cứu chúng tôi chân thành 
cảm ơn Lãnh đạo và các anh chị đồng nghiệp 
tại Trung tâm Tim mạch trẻ em, Bệnh viện Nhi 
Trung ương, các bệnh nhân và gia đình bệnh 
nhân mắc bệnh tim mạch điều trị tại Bệnh viện 
Nhi Trung ương đã nhiệt tình tham gia nghiên 
cứu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Yong MS, d’Udekem Y, Brizard CP et 
al. Surgical management of pulmonary artery 
sling in children. J Thorac Cardiovasc Surg. 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
30 TCNCYH 131 (7) - 2020
2013; 145(4): 1033–1039.
2. Yu JM, Liao CP, Ge S et al. The 
prevalence and clinical impact of pulmonary 
artery sling on school-aged children: A large-
scale screening study. Pediatr Pulmonol. 2008; 
43(7):656–661.
3. Xie J, Juan YH, Wang Q et al. 
Evaluation of left pulmonary artery sling, 
associated cardiovascular anomalies, and 
surgical outcomes using cardiovascular 
computed tomography angiography. Sci Rep. 
2017; 7: 40042.
4. Collins RT, Weinberg PM, Ewing S 
et al. Pulmonary Artery Sling in an Asymphẫu 
thuậtomatic 15-Year-Old Boy. Circulation. 2008; 
117(18): 2403–2406.
5. Backer CL, Russell HM, Kaushal S et 
al. Pulmonary artery sling: current results with 
cardiopulmonary bypass. J Thorac Cardiovasc 
Surg. 2012; 143(1): 144–151.
6. Oshima Y, Yamaguchi M, Yoshimura 
N et al. Management of pulmonary artery sling 
associated with tracheal stenosis. Ann Thorac 
Surg. 2008; 86(4): 1334–1338.
7. Hong X, Liu C, Zhou G et al. Treatment 
of 21 pediatric children with pulmonary artery 
sling/tracheal stenosis: What kinds of patients 
can survive to discharge without tracheal 
intervention?. Int J Clin Exp Med. 2017; 10: 
3588–3593.
8. Fiore AC, Brown JW, Weber TR et al. 
Surgical treatment of pulmonary artery sling 
and tracheal stenosis. Ann Thorac Surg. 2005; 
79(1): 38-46.
9. Goldstein BH, Bergersen L, Powell AJ 
et al. Long-term outcome of surgically repaired 
unilateral anomalous pulmonary artery origin. 
Pediatr Cardiol. 2010; 31(7): 944–951.
Summary
SURGICAL MANAGEMENT OF PULMONARY ARTERY SLING 
IN CHIDREN AT THE NATIONAL CHIDREN’S HOSPITAL
Pulmonary artery sling is a rare vascular abnormaly associated with congenital tracheal stenosis. 
The natural prognosis is poor and these patients often require early surgical intervention. From 2014 to 
2019, 26 infants had been surgical treatment of pulmonary artery sling at the National Children’s Hospital. 
We conduct research on surgical treatment results and discover several factors related to the results of 
surgical treatment at National Children’s Hospital. Among 26 patients, 25 (96%) patients received left 
pulmonary artery re‐implantation, and 22 (85%) received slide tracheoplasty. There were 4 hospital 
deaths (15.4%) from low cardiac output syndrome (2) and sepsis (2). All deaths occurred in patients 
requiring tracheal repair. Retracheoplasty was required in one patient at 7 days post surgery. Follow-
up was complete in 21/22 patients (mean, 20 months; ranges, 2 months to 5 years) with 1 late death 
from respiratory distress at 2 months after surgery. At follow-up, left pulmonary artery stenosis occurred 
in 5 patients. Intervention for excessive granulations was necessary in one patient. The symptoms 
had reduced in all of patients after surgery. Children with pulmonary artery sling who do not require 
tracheal surgery have excellent outcomes. Mortality is determined by the need for tracheal surgery. 
Keywords: pulmonary artery sling surgery, slide trachealplasty.

File đính kèm:

  • pdfket_qua_dieu_tri_phau_thuat_benh_sling_dong_mach_phoi_tai_be.pdf