Kết quả điều trị di căn não từ ung thư phổi tại trung tâm ung bướu Bệnh viện Quân Y 175

Mục tiêu: Ung thư phổi không tế bào nhỏ di căn não có tiên lượng xấu. Nghiên cứu

nhằm đánh giá kết quả điều trị trên đối tượng này.

Phương pháp: Hồi cứu 72 trường hợp ung thư phổi di căn não được nhập viện và

điều trị tại khoa Ung bướu, Bệnh viện 175 từ tháng 6/2010 đến tháng 10/2014.

Kết quả: Trung vị thời gian sống còn của nhóm bệnh nhân là 7,5 tháng. Khi phân

tích đơn biến, số ổ di căn não (p=0,032) và loại mô học (p=0,045) ảnh hưởng đến tiên

lượng sống còn. Chúng tôi không tìm được yếu tố tiên lượng độc lập.

Kết luận: Ung thư phổi di căn não có tiên lượng xấu. Cần chọn lựa bệnh nhân phù

hợp với các mô thức điều trị

pdf 7 trang phuongnguyen 120
Bạn đang xem tài liệu "Kết quả điều trị di căn não từ ung thư phổi tại trung tâm ung bướu Bệnh viện Quân Y 175", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Kết quả điều trị di căn não từ ung thư phổi tại trung tâm ung bướu Bệnh viện Quân Y 175

Kết quả điều trị di căn não từ ung thư phổi tại trung tâm ung bướu Bệnh viện Quân Y 175
TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175 - SOÁ 3 - 9/2015
76
KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ DI CĂN NÃO TỪ UNG THƯ PHỔI
TẠI TRUNG TÂM UNG BƯỚU BỆNH VIỆN QUÂN Y 175
Hà Mạnh Đức1, Nguyễn Thị Kim Oanh1, Phan Thế Nhật1, 
Vũ Hồng Nam1, Phạm Văn Lợi1, Đỗ Thị Thúy1
TÓM TẮT
Mục tiêu: Ung thư phổi không tế bào nhỏ di căn não có tiên lượng xấu. Nghiên cứu 
nhằm đánh giá kết quả điều trị trên đối tượng này.
Phương pháp: Hồi cứu 72 trường hợp ung thư phổi di căn não được nhập viện và 
điều trị tại khoa Ung bướu, Bệnh viện 175 từ tháng 6/2010 đến tháng 10/2014.
Kết quả: Trung vị thời gian sống còn của nhóm bệnh nhân là 7,5 tháng. Khi phân 
tích đơn biến, số ổ di căn não (p=0,032) và loại mô học (p=0,045) ảnh hưởng đến tiên 
lượng sống còn. Chúng tôi không tìm được yếu tố tiên lượng độc lập.
Kết luận: Ung thư phổi di căn não có tiên lượng xấu. Cần chọn lựa bệnh nhân phù 
hợp với các mô thức điều trị.
RESULTS OF LUNG-CANCER PATIENTS TREATED 
AT ONCOLOGY DEPARTMENT, 175 MILITARY HOSPITAL
ABSTRACT:
Purpose: Brain metastasis has a poor prognosis in patients with advanced non 
small cell lung cancer (NSCLC). In this study, we evaluate the prognosis of NSCLC 
patients with brain metastases.
Methods: In a retrospective cohort of 72 lung-cancer patients seen at Oncology 
department, 175 Hospital between June 2010 and October 2014, we examined the 
survival after a diagnosis of brain metastases for patients with brain metastases at 
initial diagnosis and patients who develop brain metastases later in their illness.
Results: The median survival time is 7,5 months. Univariate analysis shows that the 
number focal brain metastasis, histologic type have a significant influence. We cannot 
find any independent prognosis factors.
Conclusion: Our data show limited survival in patients with brain metastases from 
NSCLC.
(1) Bệnh viện Quân y 175
Người phản hồi (Corresponding): Hà Mạnh Đức ([email protected])
Ngày nhận bài: 18/3/2015; Ngày phản biện đánh giá bài báo: 20/4/2015
TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175 - SOÁ 3 - 9/2015
77
 ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư phổi là nguyên nhân ung thư 
gây tử vong hàng đầu trên thế giới ở cả 
nam và nữ với hơn 1,18 triệu người chết 
mỗi năm. Theo Globocan 2012, tại Việt 
Nam, ung thư phổi là một trong những 
ung thư có xuất độ đứng đầu, ở nam giới 
41.1/100 000 và ở nữ giới là 12.2 /100 000. 
Tử suất gần như tương đương với xuất độ 
mắc bệnh.
 Khoảng 85% là ung thư phổi không 
tế bào nhỏ. Hầu hết bệnh nhân được chẩn 
đoán ở giai đoạn trễ, sống còn toàn bộ 5 
năm chung cho tất cả các giai đoạn chỉ có 
15%. Tiên lượng của ung thư phổi tiến xa 
rất xấu, trung vị sống còn chỉ 8 – 10 tháng, 
sống còn 2 năm không quá 10 – 20%.
Di căn não là vấn đề thường gặp của 
ung thư phổi không tế bào nhỏ. Khoảng 
7 – 10% được phát hiện có di căn não từ 
thời điểm chẩn đoán đầu tiên, và có 20 – 
40% xuất hiện di căn não trong quá trình 
bệnh. Thời gian sống còn của bệnh nhân 
di căn não rất ngắn, đối với những bệnh 
nhân không điều trị chỉ có 1 – 3 tháng. 
Phối hợp giữa xạ trị ngoài toàn bộ não với 
dùng corticoids có thể cải thiện kết quả 
sống còn.
Có lẽ đây là loại bệnh có tiên lượng 
xấu nên chưa được sự quan tâm của các 
nhà lâm sàng? Nghiên cứu này được thực 
hiện nhằm đánh giá hiệu quả điều trị ung 
thư phổi di căn não tại khoa Ung bướu, 
Bệnh viện 175.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Thiết kế nghiên cứu : Hồi cứu loạt ca
2. Đối tượng chọn mẫu
Tất cả bệnh nhân được chẩn đoán ung 
thư phổi không tế bào nhỏ di căn não được 
nhập viện và điều trị tại khoa Ung bướu, 
Bệnh viện 175 từ tháng 6/2010 đến tháng 
10/2014.
Ung thư phổi được chẩn đoán khi 
có giải phẫu bệnh không phải tế bào nhỏ 
(carcinôm tuyến, carcinôm tế bào gai, 
carcinôm tế bào lớn). Nếu không có giải 
phẫu bệnh, ung thư phổi được xác định 
bằng chẩn đoán hình ảnh, có hay không 
kèm theo tăng các chỉ dấu sinh học ( CEA, 
Cyfra 21.1).
Di căn não được xác định bằng CT 
hoặc MRI, hoặc có kết quả giải phẫu bệnh 
của ổ di căn.
3. Quy trình nghiên cứu
Bệnh nhân được đánh giá thể trạng 
(chỉ số ECOG), ước tính sống còn và lựa 
chọn phương pháp điều trị thích hợp.
Chống phù não: bằng corticoid 
(thường dùng Dexamethasone), Mannitol. 
Xạ trị: Bệnh nhân sẽ được tiến hành xạ trị 
toàn bộ não nếu không có chống chỉ định 
như: hôn mê, tăng áp lực nội sọ cấp tính, 
có những dấu hiệu đe dọa tụt não; hoặc 
bệnh nhân, người nhà không đồng ý xạ 
trị. Xạ trị toàn bộ não, 2 trường chiếu song 
song đối xứng hai bên hộp sọ. Phác đồ: 
tổng liều xạ 30Gy/ 10 phân liều hoặc 20 
Gy/ 5 phân liều.
Nếu bệnh nhân có các triệu chứng 
trong phần chống chỉ định, xạ trị sẽ được 
tạm hoãn. Bệnh nhân có thể tiếp tục được 
xạ nếu cải thiện các triệu chứng thần kinh 
cấp tính sau khi điều trị nội khoa.Sau xạ 
trị, tùy thuộc tổng trạng, đặc điểm mô học, 
bệnh nhân có thể tiếp tục được hóa trị, 
hoặc các thuốc nhắm trúng đích.
Các biến số được thu thập qua hồ sơ 
bệnh án. Theo dõi sống còn thông qua 
thông tin trong bệnh án, điện thoại hoặc 
TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175 - SOÁ 3 - 9/2015
78
thư thăm hỏi. Sống còn toàn bộ được tính 
từ thời điểm có chẩn đoán di căn não cho 
đến khi bệnh nhân tử vong vì bất kì nguyên 
nhân gì hoặc đến khi kết thúc nghiên cứu. 
Xử lí số liệu bằng phần mềm SPSS 17.0. 
Ước tính sống còn bằng phương pháp 
Kaplain Meier. Dùng phép kiểm chi bình 
phương để so sánh, khác biệt có ý nghĩa 
khi p<0,05.
KẾT QUẢ
1. Đặc điểm nhóm bệnh nhân nghiên 
cứu
Từ tháng 6/2010 đến tháng 10/2014 
chúng tôi thu nhận được 72 trường hợp 
thỏa tiêu chuẩn chọn mẫu. Độ tuổi trung 
bình lúc chẩn đoán ung thư phổi là 52 ± 
10,5 tuổi, tuổi trung bình lúc chẩn đoán di 
căn não là 54 ± 12,9 tuổi.
Bảng 1: Đặc điểm nhóm bệnh nhân nghiên cứu
Đặc điểm N Tỉ lệ %
Giới tính
- Nam 
- Nữ
41
31
57%
43%
Giai đoạn bệnh ban đầu
- IA, IB
- IIA, IIB
- IIIA
- IIIB
- IV
3
5
10
9
44
3,5%
7,6%
14,5%
12,8%
61,6%
Giải phẫu bệnh
- Carcinôm tuyến
- Carcinôm tế bào gai
52
20
72,5%
27,5%
Số ổ di căn não
- 1 ổ
- 1 – 3 ổ
- > 3 ổ
33
29
10
45,8%
39,9%
14,3%
Điều trị di căn não
- Phẫu thuật + Xạ trị toàn bộ não
- Xạ trị toàn bộ não
- Chăm sóc nội khoa
2
61
9
4,2%
84,7%
12,5%
Điểm số ECOG
- 0
- 1
- 2
- 3
- Không rõ
1
16
8
9
38
1,2%
22,7%
10,6%
12,4%
53.1%
Phác đồ xạ trị (63)
- 30 Gy/ 10 lần
- 20 Gy/ 05 lần
45
18
76,1%
23,9%
Điều trị sau di căn não
- Hóa trị, nhắm trúng đích
- Chăm sóc nội khoa
38
34
52,4%
47,6%
TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175 - SOÁ 3 - 9/2015
79
Trong mẫu nghiên cứu, tỉ lệ nam nhiều hơn nữ. Carcinôm tuyến chiếm ưu thế với 
72,5%. Phần lớn bệnh nhân di căn não được phát hiện ở giai đoạn IV. Kích thước trung 
bình của ổ di căn não là 27,8 ± 11,7 mm. Di căn não đơn ở chiếm gần 50%.
Kết quả điều trị 
Các yếu tố tiên lượng
Bảng 2: Phân tích đơn biến các yếu tố ảnh hưởng sống còn
Đặc điểm Yếu tố so sánh p
Giới tính Nam / Nữ 0,078
Giải phẫu bệnh Carcinôm tuyến/ Carcinôm tế bào gai 0,045
Giai đoạn bệnh ban đầu I/II/ III/IV 0,103
Sô ổ di căn não Đơn ổ/ đa ổ 0,032
Di căn não đơn độc Có/ không 0,215
Điều trị Chăm sóc nội khoa/ Xạ trị toản bộ não 0,054
 Khi phân tích đơn biến, chúng tôi 
nhận thấy, số ổ di căn não (p=0,032) và 
phân loại giải phẫu bệnh (p=0,045) ảnh 
hưởng đến tiên lượng sống còn sau di 
căn não. Khi phân tích đa biến, chúng tôi 
không ghi nhận yếu tố tiên lượng độc lập.
BÀN LUẬN
Tần suất di căn não từ ung thư phổi 
chiếm tỉ lệ 18 – 21%, có tiên lượng xấu. 
Tỉ lệ 
tích 
lũy
Thời gian (tháng)
Trung vị thời gian sống còn toàn bộ : 7,5 tháng
Biểu đồ 1: Sống còn 
toàn bộ ở bệnh nhân ung 
thư phổi di căn não
TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175 - SOÁ 3 - 9/2015
80
Gần đây, đã có nhiều biện pháp xâm lấn 
hơn nhằm giải quyết ổ di căn não ở bệnh 
nhân có tiên lượng sống khả quan và không 
có các dấu hiệu suy giảm chức năng thần 
kinh. Ước tính khoảng 25% bệnh nhân di 
căn não đơn ổ có khả năng phẫu thuật . 
Một số lượng lớn các nghiên cứu hồi cứu 
đạt được kết quả sống còn sau phẫu thuật 
rất hứa hẹn - từ 11,6 đến 14,0 tháng - ở 
những trường hợp được chọn lọc kĩ, có thể 
trạng tốt, các bệnh lý ngoài não được kiểm 
soát. Tuy nhiên, điều khó khăn là vẫn còn 
những sai lệch chọn mẫu trong loạt nghiên 
cứu này. Trong nghiên cứu của chúng tôi, 
chỉ có 2 trường hợp không có di căn ngoài 
não, ung thư nguyên phát tại phổi được 
kiểm soát tốt, tổng trạng khá, được phẫu 
thuật cắt bỏ khối di căn não đơn ổ.
Không có một tiêu chuẩn chung nào 
cho việc lựa chọn các phương pháp điều 
trị. Đánh giá tiên lượng từ các mô thức 
điều trị khác nhau, dựa trên hiệu quả sống 
còn vẫn còn là vấn đề đang tranh cãi. 
Nhiều nhà lâm sàng xử trí dựa trên kinh 
nghiệm và chứng cứ. Trong khi bệnh nhân 
được xếp cùng giai đoạn TNM, có di căn 
các cơ quan khác như nhau, cùng số ổ di 
căn não nhưng lựa chọn chiến lược điều trị 
cho những bệnh nhân này rất khác nhau. 
Theo một số nghiên cứu, những bệnh nhân 
di căn não không quá 3 ổ có thể được phẫu 
thuật. Nếu số ổ nhiều hơn thì nên tiến hành 
xạ trị toàn bộ não, nhằm làm giảm các triệu 
chứng thần kinh và cải thiện tiên lượng.
Một vài tác giả cũng cho thấy, xạ phẫu tốt 
hơn phẫu thuật kinh điển về mặt hiệu quả 
- chi phí. Tuy nhiên không có sự khác biệt 
về thời gian sống còn toàn bộ giữa hai mô 
thức này. Hiện tại, nhiều nhà lâm sàng ưa 
thích sử dụng xạ phẫu bằng dao gamma 
cho di căn não không quá 3 ổ. 
Xạ trị ngoài toàn bộ não đã được công 
nhận cách đây hơn 50 năm như là một 
phương thức kéo dài thời gian sống còn 
của bệnh nhân từ 3 tháng lên 6 tháng, so 
với 1 – 2 tháng nếu không điều trị. Đã có 
nhiều nghiên cứu ngẫu nhiên so sánh các 
liều xạ trị khác nhau. Phần lớn kết luận, 
phác đồ xạ trị dài ngày có nhỉnh hơn về 
mức độ đáp ứng, kéo dài hiệu quả điều trị 
hơn phác đồ ngắn ngày. Hiện tại, khoa Ung 
bướu bệnh viện 175 lựa chọn liều xạ dựa 
vào ước tính sống còn của bệnh nhân. Nếu 
tiên lượng sống kéo dài, chúng tôi chọn 
liều xạ 30Gy/ 10 phân liều, các trường hợp 
tiên lượng xấu hơn, sẽ được điều trị với 
20Gy/5 phân liều.
Trong nghiên cứu này, trung vị thời 
gian sống còn là 7,5 tháng. Nghiên cứu 
của tác giả Ali cho thấy thời gian sống còn 
là 7,8 tháng. Đối với tác giả Kim ,thời gian 
này lần lượt là 334 ngày và 234 ngày ở 
nhóm có số ổ di căn não ≤ 4 và > 4. Một 
nghiên cứu 533 trường hợp di căn não 
được thực hiện ở Anh chỉ ra, nhóm ung thư 
phổi không tế bào nhỏ (chiếm 39%) chỉ có 
trung vị sống còn là 69 ngày, khi so với 79 
ngày trên sống còn của toàn bộ nhóm bệnh 
nhân và 107 ngày đối với ung thư vú. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, số ổ 
di căn não và phân loại giải phẫu bệnh là 
hai yếu tố ảnh hưởng đến thời gian sống 
còn.
Hiệp hội quốc tế nghiên cứu về ung 
thư phổi đã đưa ra các yếu tố ảnh hưởng 
đến tiên lượng của ung thư phổi, trong đó, 
giải phẫu bệnh là yếu tố nổi bật. Carcinôm 
tuyến có tiên lượng tốt hơn chút ít so với 
các loại tế bào khác. Trong nghiên cứu 
này, carcinôm tuyến có tiên lượng tốt hơn 
carcinôm tế bào gai. 
Tác giả Niemiec lại thấy rằng giới tính 
TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175 - SOÁ 3 - 9/2015
81
và phân nhóm mô học có ảnh hưởng đến 
sống còn. Lý giải nữ có tiên lượng tốt hơn 
do các đặc điểm xã hội, hormon, và các 
yếu tố liên quan đến bướu. Tác giả Gov-
ern cũng cùng quan điểm, sự khác biệt về 
sống còn giữa hai giới do bệnh tiến triển 
theo các đặc tính sinh học khác nhau. Đối 
với nữ, giải phẫu bệnh thường gặp là car-
cinôm tuyến hơn carcinôm tế bào gai. Một 
vài tác giả đề cập đến carcinôm tuyến có 
liên quan đến tiên lượng tốt trên bệnh nhân 
di căn não, trong khi đó một số nghiên cứu 
khác không tìm thấy mối liên hệ này.
Nghiên cứu tác giả Kim Junghyn trên 
313 trường hợp di căn não từ ung thư phổi 
không tế bào nhỏ, tác giả chia làm hai 
nhóm tùy thuộc số ổ di căn não dưới 4 hoặc 
trên 4. Sống còn giữa hai nhóm này không 
khác biệt nhau.Các yếu tố ảnh hưởng đến 
tiên lượng bao gồm tuổi, giới nữ, carcinôm 
tuyến , bướu nguyên phát được kiểm soát 
tốt và di căn não đơn ổ.
Bảng 4: Yếu tố tiên lượng sống còn theo RPA (Recursive partitioning analysis)
Nhóm Yếu tố tiên lượng Trung vị sống 
còn
Nhóm I
KPS≥ 70
7,1 tháng
Tuổi <65
Không tái phát tại chỗ tại vùng
Không di căn xa ngoài não
Nhóm II KPS<70 2,3 tháng
Nhóm III Còn lại 4,2 tháng
Đả có nhiều mô hình được xây dựng 
dành để tiên lượng cho bệnh nhân di căn 
não từ nhiều loại bướu nguyên phát khác 
nhau, trong đó có ung thư phổi không tế 
bào nhỏ. Những mô hình này dựa vào tuổi, 
điểm KPS, tình trạng bướu nguyên phát, 
số ổ di căn não, thể tích ổ di căn não lớn 
nhất và các di căn ngoài não. Tuy nhiên, 
trong nghiên cứu của chúng tôi, thông tin 
về các đặc điểm cốt lõi trên chưa được thu 
thập đầy đủ nên không thể đánh giá theo 
những mô hình này được.
Nghiên cứu này còn những điểm hạn 
chế. Bệnh nhân không được chụp CT hoặc 
MRI não ở những giai đoạn bệnh tiến xa 
nếu như không có các triệu chứng thần 
kinh. Chúng tôi không phân biệt được 
bệnh nhân tử vong là do di căn não tiến 
triển, di căn ngoài não nặng hơn hay do 
các nguyên nhân khác. 
Đây là nghiên cứu bước đầu đánh giá 
hiệu quả điều trị di căn não từ ung thư 
phổi, tạo tiền đề cho những nghiên cứu 
về sau. Đặc biệt khi trong tương lai, nếu 
chúng tôi có khả năng áp dụng các phương 
pháp điều trị mới như xạ phẫu.
KẾT LUẬN
Nghiên cứu trên 72 trường hợp di căn 
não từ ung thư phổi cho thấy tiên lượng 
của loại bệnh này rất xấu. Trung vị sống 
còn chỉ có 7,2 tháng. Số ổ di căn não và 
loại mô học là hai yếu tố ảnh hưởng đến 
sống còn. Lựa chọn các mô thức điều trị 
phụ thuộc vào ước tính tiên lượng sống 
của bệnh nhân.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ali A, Goffin JR, Arnold A, Ellis 
TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175 - SOÁ 3 - 9/2015
82
PM (2013), “Survival of patients with non 
small cell lung cancer after a diagnosis of 
brain metastases”, Curr Oncol, Vol 20, 
pp300 – 306.
2. Chi Alexander and Komaki Ritsuko 
(2010), “Treatment of Brain Metastasis 
from Lung Cancer”, Cancer,2, pp. 2100-
2137
3. Gaspar L, Scott C, Rotman M, et 
al (1997) Recursive partitioning analysis 
(RPA) of prognostic factors in three Ra-
diation Therapy Oncology Group (RTOG) 
brain metastases trials. Int J Radiat Oncol 
Biol Phys; 37:745.
4. Granone P, Margaritora S, 
D’Andrilli A, et al (2001). Non-small cell 
lung cancer with single brain metastasis: 
the role of surgical treatment. Eur J Car-
diothorac Surg ;20:361–6.
5. Kawabe T, Phi JH, YamamotoM, 
Kim DG, et al (2012). “Treatment of brain 
metastasis from lung cancer”. Prog Neurol 
Surg ; 25: 148–55.
6. KimJunghyn, Lee Sang Min, Yim 
Jae Jun, et al (2013) ,”Prognosis for non-
small cell lung cancer patients with brain 
metastases”, Thoracic Cancer,4, pp.167 – 
173.
7. Lagerwaard FJ, Levendag PC, 
Nowak PJCM, et al (1999). “Identification 
of prognostic factors in patients with brain 
metastases: a review of 1292 patients”. Int 
J Radiat Oncol Biol Phys ;43:795–803.
8. McGovern SL, Liao Z, Bucci MK, 
McAleer M, et al (2009). “Is sex associ-
ated with the outcome of patients treated 
with radiation for non-small cell lung can-
cer?” Cancer;115:3233–42.
9. Niemiec Milena, Glogowski Ma-
ciej, et al (2011), “Charecteristics of long-
term suvivors of brain metastases from 
lung cancer”, Practical Oncology and Ra-
diotherapy, 16, pp 49-53.
10. Priestman TJ, Dunn J, Brada M, 
et al (1996). “Final results of the RCR 
trial comparing two different radiotherapy 
schedules in the treatment of cerebral me-
tastases”. Clin Oncol;8:308–15
11. Rodrigus P, de Brouwer P, Raay-
makers E (2001). “Brain metastases and 
non-small cell lung cancer. Prognostic fac-
tors and correlation with survival after ir-
radiation”. Lung Cancer ;32:129–36.
12. Sánchez de Cos J, Sojo González 
MA, Montero MV, et al (2009). “Non-small 
cell lung cancer and silent brain metasta-
sis Survival and prognostic factors”. Lung 
Cancer; 63: 140–5. 
13. Sculier JP, Chansky K, Crowley 
JJ et al (2008). “The impact of additional 
prognostic factors on survival and their 
relationship with the anatomical extent of 
disease expressed by the 6th Edition of the 
TNM Classification of Malignant Tumors 
and the proposals for the 7th Edition.” J 
Thorac Oncol; 3: 457–66.
14. Vuong DA, Rades D, Le AN, Busse 
R (2012). “The cost-effectiveness of ste-
reotactic radiosurgery versus surgical re-
section in the treatment of brain metastasis 
inVietnam from the perspective of patients 
and families”. World Neurosurg ; 77: 321–
328.

File đính kèm:

  • pdfket_qua_dieu_tri_di_can_nao_tu_ung_thu_phoi_tai_trung_tam_un.pdf