Kết quả điều trị di căn não từ ung thư phổi tại trung tâm ung bướu Bệnh viện Quân Y 175
Mục tiêu: Ung thư phổi không tế bào nhỏ di căn não có tiên lượng xấu. Nghiên cứu
nhằm đánh giá kết quả điều trị trên đối tượng này.
Phương pháp: Hồi cứu 72 trường hợp ung thư phổi di căn não được nhập viện và
điều trị tại khoa Ung bướu, Bệnh viện 175 từ tháng 6/2010 đến tháng 10/2014.
Kết quả: Trung vị thời gian sống còn của nhóm bệnh nhân là 7,5 tháng. Khi phân
tích đơn biến, số ổ di căn não (p=0,032) và loại mô học (p=0,045) ảnh hưởng đến tiên
lượng sống còn. Chúng tôi không tìm được yếu tố tiên lượng độc lập.
Kết luận: Ung thư phổi di căn não có tiên lượng xấu. Cần chọn lựa bệnh nhân phù
hợp với các mô thức điều trị
Bạn đang xem tài liệu "Kết quả điều trị di căn não từ ung thư phổi tại trung tâm ung bướu Bệnh viện Quân Y 175", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Kết quả điều trị di căn não từ ung thư phổi tại trung tâm ung bướu Bệnh viện Quân Y 175
TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175 - SOÁ 3 - 9/2015 76 KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ DI CĂN NÃO TỪ UNG THƯ PHỔI TẠI TRUNG TÂM UNG BƯỚU BỆNH VIỆN QUÂN Y 175 Hà Mạnh Đức1, Nguyễn Thị Kim Oanh1, Phan Thế Nhật1, Vũ Hồng Nam1, Phạm Văn Lợi1, Đỗ Thị Thúy1 TÓM TẮT Mục tiêu: Ung thư phổi không tế bào nhỏ di căn não có tiên lượng xấu. Nghiên cứu nhằm đánh giá kết quả điều trị trên đối tượng này. Phương pháp: Hồi cứu 72 trường hợp ung thư phổi di căn não được nhập viện và điều trị tại khoa Ung bướu, Bệnh viện 175 từ tháng 6/2010 đến tháng 10/2014. Kết quả: Trung vị thời gian sống còn của nhóm bệnh nhân là 7,5 tháng. Khi phân tích đơn biến, số ổ di căn não (p=0,032) và loại mô học (p=0,045) ảnh hưởng đến tiên lượng sống còn. Chúng tôi không tìm được yếu tố tiên lượng độc lập. Kết luận: Ung thư phổi di căn não có tiên lượng xấu. Cần chọn lựa bệnh nhân phù hợp với các mô thức điều trị. RESULTS OF LUNG-CANCER PATIENTS TREATED AT ONCOLOGY DEPARTMENT, 175 MILITARY HOSPITAL ABSTRACT: Purpose: Brain metastasis has a poor prognosis in patients with advanced non small cell lung cancer (NSCLC). In this study, we evaluate the prognosis of NSCLC patients with brain metastases. Methods: In a retrospective cohort of 72 lung-cancer patients seen at Oncology department, 175 Hospital between June 2010 and October 2014, we examined the survival after a diagnosis of brain metastases for patients with brain metastases at initial diagnosis and patients who develop brain metastases later in their illness. Results: The median survival time is 7,5 months. Univariate analysis shows that the number focal brain metastasis, histologic type have a significant influence. We cannot find any independent prognosis factors. Conclusion: Our data show limited survival in patients with brain metastases from NSCLC. (1) Bệnh viện Quân y 175 Người phản hồi (Corresponding): Hà Mạnh Đức ([email protected]) Ngày nhận bài: 18/3/2015; Ngày phản biện đánh giá bài báo: 20/4/2015 TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175 - SOÁ 3 - 9/2015 77 ĐẶT VẤN ĐỀ Ung thư phổi là nguyên nhân ung thư gây tử vong hàng đầu trên thế giới ở cả nam và nữ với hơn 1,18 triệu người chết mỗi năm. Theo Globocan 2012, tại Việt Nam, ung thư phổi là một trong những ung thư có xuất độ đứng đầu, ở nam giới 41.1/100 000 và ở nữ giới là 12.2 /100 000. Tử suất gần như tương đương với xuất độ mắc bệnh. Khoảng 85% là ung thư phổi không tế bào nhỏ. Hầu hết bệnh nhân được chẩn đoán ở giai đoạn trễ, sống còn toàn bộ 5 năm chung cho tất cả các giai đoạn chỉ có 15%. Tiên lượng của ung thư phổi tiến xa rất xấu, trung vị sống còn chỉ 8 – 10 tháng, sống còn 2 năm không quá 10 – 20%. Di căn não là vấn đề thường gặp của ung thư phổi không tế bào nhỏ. Khoảng 7 – 10% được phát hiện có di căn não từ thời điểm chẩn đoán đầu tiên, và có 20 – 40% xuất hiện di căn não trong quá trình bệnh. Thời gian sống còn của bệnh nhân di căn não rất ngắn, đối với những bệnh nhân không điều trị chỉ có 1 – 3 tháng. Phối hợp giữa xạ trị ngoài toàn bộ não với dùng corticoids có thể cải thiện kết quả sống còn. Có lẽ đây là loại bệnh có tiên lượng xấu nên chưa được sự quan tâm của các nhà lâm sàng? Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá hiệu quả điều trị ung thư phổi di căn não tại khoa Ung bướu, Bệnh viện 175. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. Thiết kế nghiên cứu : Hồi cứu loạt ca 2. Đối tượng chọn mẫu Tất cả bệnh nhân được chẩn đoán ung thư phổi không tế bào nhỏ di căn não được nhập viện và điều trị tại khoa Ung bướu, Bệnh viện 175 từ tháng 6/2010 đến tháng 10/2014. Ung thư phổi được chẩn đoán khi có giải phẫu bệnh không phải tế bào nhỏ (carcinôm tuyến, carcinôm tế bào gai, carcinôm tế bào lớn). Nếu không có giải phẫu bệnh, ung thư phổi được xác định bằng chẩn đoán hình ảnh, có hay không kèm theo tăng các chỉ dấu sinh học ( CEA, Cyfra 21.1). Di căn não được xác định bằng CT hoặc MRI, hoặc có kết quả giải phẫu bệnh của ổ di căn. 3. Quy trình nghiên cứu Bệnh nhân được đánh giá thể trạng (chỉ số ECOG), ước tính sống còn và lựa chọn phương pháp điều trị thích hợp. Chống phù não: bằng corticoid (thường dùng Dexamethasone), Mannitol. Xạ trị: Bệnh nhân sẽ được tiến hành xạ trị toàn bộ não nếu không có chống chỉ định như: hôn mê, tăng áp lực nội sọ cấp tính, có những dấu hiệu đe dọa tụt não; hoặc bệnh nhân, người nhà không đồng ý xạ trị. Xạ trị toàn bộ não, 2 trường chiếu song song đối xứng hai bên hộp sọ. Phác đồ: tổng liều xạ 30Gy/ 10 phân liều hoặc 20 Gy/ 5 phân liều. Nếu bệnh nhân có các triệu chứng trong phần chống chỉ định, xạ trị sẽ được tạm hoãn. Bệnh nhân có thể tiếp tục được xạ nếu cải thiện các triệu chứng thần kinh cấp tính sau khi điều trị nội khoa.Sau xạ trị, tùy thuộc tổng trạng, đặc điểm mô học, bệnh nhân có thể tiếp tục được hóa trị, hoặc các thuốc nhắm trúng đích. Các biến số được thu thập qua hồ sơ bệnh án. Theo dõi sống còn thông qua thông tin trong bệnh án, điện thoại hoặc TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175 - SOÁ 3 - 9/2015 78 thư thăm hỏi. Sống còn toàn bộ được tính từ thời điểm có chẩn đoán di căn não cho đến khi bệnh nhân tử vong vì bất kì nguyên nhân gì hoặc đến khi kết thúc nghiên cứu. Xử lí số liệu bằng phần mềm SPSS 17.0. Ước tính sống còn bằng phương pháp Kaplain Meier. Dùng phép kiểm chi bình phương để so sánh, khác biệt có ý nghĩa khi p<0,05. KẾT QUẢ 1. Đặc điểm nhóm bệnh nhân nghiên cứu Từ tháng 6/2010 đến tháng 10/2014 chúng tôi thu nhận được 72 trường hợp thỏa tiêu chuẩn chọn mẫu. Độ tuổi trung bình lúc chẩn đoán ung thư phổi là 52 ± 10,5 tuổi, tuổi trung bình lúc chẩn đoán di căn não là 54 ± 12,9 tuổi. Bảng 1: Đặc điểm nhóm bệnh nhân nghiên cứu Đặc điểm N Tỉ lệ % Giới tính - Nam - Nữ 41 31 57% 43% Giai đoạn bệnh ban đầu - IA, IB - IIA, IIB - IIIA - IIIB - IV 3 5 10 9 44 3,5% 7,6% 14,5% 12,8% 61,6% Giải phẫu bệnh - Carcinôm tuyến - Carcinôm tế bào gai 52 20 72,5% 27,5% Số ổ di căn não - 1 ổ - 1 – 3 ổ - > 3 ổ 33 29 10 45,8% 39,9% 14,3% Điều trị di căn não - Phẫu thuật + Xạ trị toàn bộ não - Xạ trị toàn bộ não - Chăm sóc nội khoa 2 61 9 4,2% 84,7% 12,5% Điểm số ECOG - 0 - 1 - 2 - 3 - Không rõ 1 16 8 9 38 1,2% 22,7% 10,6% 12,4% 53.1% Phác đồ xạ trị (63) - 30 Gy/ 10 lần - 20 Gy/ 05 lần 45 18 76,1% 23,9% Điều trị sau di căn não - Hóa trị, nhắm trúng đích - Chăm sóc nội khoa 38 34 52,4% 47,6% TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175 - SOÁ 3 - 9/2015 79 Trong mẫu nghiên cứu, tỉ lệ nam nhiều hơn nữ. Carcinôm tuyến chiếm ưu thế với 72,5%. Phần lớn bệnh nhân di căn não được phát hiện ở giai đoạn IV. Kích thước trung bình của ổ di căn não là 27,8 ± 11,7 mm. Di căn não đơn ở chiếm gần 50%. Kết quả điều trị Các yếu tố tiên lượng Bảng 2: Phân tích đơn biến các yếu tố ảnh hưởng sống còn Đặc điểm Yếu tố so sánh p Giới tính Nam / Nữ 0,078 Giải phẫu bệnh Carcinôm tuyến/ Carcinôm tế bào gai 0,045 Giai đoạn bệnh ban đầu I/II/ III/IV 0,103 Sô ổ di căn não Đơn ổ/ đa ổ 0,032 Di căn não đơn độc Có/ không 0,215 Điều trị Chăm sóc nội khoa/ Xạ trị toản bộ não 0,054 Khi phân tích đơn biến, chúng tôi nhận thấy, số ổ di căn não (p=0,032) và phân loại giải phẫu bệnh (p=0,045) ảnh hưởng đến tiên lượng sống còn sau di căn não. Khi phân tích đa biến, chúng tôi không ghi nhận yếu tố tiên lượng độc lập. BÀN LUẬN Tần suất di căn não từ ung thư phổi chiếm tỉ lệ 18 – 21%, có tiên lượng xấu. Tỉ lệ tích lũy Thời gian (tháng) Trung vị thời gian sống còn toàn bộ : 7,5 tháng Biểu đồ 1: Sống còn toàn bộ ở bệnh nhân ung thư phổi di căn não TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175 - SOÁ 3 - 9/2015 80 Gần đây, đã có nhiều biện pháp xâm lấn hơn nhằm giải quyết ổ di căn não ở bệnh nhân có tiên lượng sống khả quan và không có các dấu hiệu suy giảm chức năng thần kinh. Ước tính khoảng 25% bệnh nhân di căn não đơn ổ có khả năng phẫu thuật . Một số lượng lớn các nghiên cứu hồi cứu đạt được kết quả sống còn sau phẫu thuật rất hứa hẹn - từ 11,6 đến 14,0 tháng - ở những trường hợp được chọn lọc kĩ, có thể trạng tốt, các bệnh lý ngoài não được kiểm soát. Tuy nhiên, điều khó khăn là vẫn còn những sai lệch chọn mẫu trong loạt nghiên cứu này. Trong nghiên cứu của chúng tôi, chỉ có 2 trường hợp không có di căn ngoài não, ung thư nguyên phát tại phổi được kiểm soát tốt, tổng trạng khá, được phẫu thuật cắt bỏ khối di căn não đơn ổ. Không có một tiêu chuẩn chung nào cho việc lựa chọn các phương pháp điều trị. Đánh giá tiên lượng từ các mô thức điều trị khác nhau, dựa trên hiệu quả sống còn vẫn còn là vấn đề đang tranh cãi. Nhiều nhà lâm sàng xử trí dựa trên kinh nghiệm và chứng cứ. Trong khi bệnh nhân được xếp cùng giai đoạn TNM, có di căn các cơ quan khác như nhau, cùng số ổ di căn não nhưng lựa chọn chiến lược điều trị cho những bệnh nhân này rất khác nhau. Theo một số nghiên cứu, những bệnh nhân di căn não không quá 3 ổ có thể được phẫu thuật. Nếu số ổ nhiều hơn thì nên tiến hành xạ trị toàn bộ não, nhằm làm giảm các triệu chứng thần kinh và cải thiện tiên lượng. Một vài tác giả cũng cho thấy, xạ phẫu tốt hơn phẫu thuật kinh điển về mặt hiệu quả - chi phí. Tuy nhiên không có sự khác biệt về thời gian sống còn toàn bộ giữa hai mô thức này. Hiện tại, nhiều nhà lâm sàng ưa thích sử dụng xạ phẫu bằng dao gamma cho di căn não không quá 3 ổ. Xạ trị ngoài toàn bộ não đã được công nhận cách đây hơn 50 năm như là một phương thức kéo dài thời gian sống còn của bệnh nhân từ 3 tháng lên 6 tháng, so với 1 – 2 tháng nếu không điều trị. Đã có nhiều nghiên cứu ngẫu nhiên so sánh các liều xạ trị khác nhau. Phần lớn kết luận, phác đồ xạ trị dài ngày có nhỉnh hơn về mức độ đáp ứng, kéo dài hiệu quả điều trị hơn phác đồ ngắn ngày. Hiện tại, khoa Ung bướu bệnh viện 175 lựa chọn liều xạ dựa vào ước tính sống còn của bệnh nhân. Nếu tiên lượng sống kéo dài, chúng tôi chọn liều xạ 30Gy/ 10 phân liều, các trường hợp tiên lượng xấu hơn, sẽ được điều trị với 20Gy/5 phân liều. Trong nghiên cứu này, trung vị thời gian sống còn là 7,5 tháng. Nghiên cứu của tác giả Ali cho thấy thời gian sống còn là 7,8 tháng. Đối với tác giả Kim ,thời gian này lần lượt là 334 ngày và 234 ngày ở nhóm có số ổ di căn não ≤ 4 và > 4. Một nghiên cứu 533 trường hợp di căn não được thực hiện ở Anh chỉ ra, nhóm ung thư phổi không tế bào nhỏ (chiếm 39%) chỉ có trung vị sống còn là 69 ngày, khi so với 79 ngày trên sống còn của toàn bộ nhóm bệnh nhân và 107 ngày đối với ung thư vú. Trong nghiên cứu của chúng tôi, số ổ di căn não và phân loại giải phẫu bệnh là hai yếu tố ảnh hưởng đến thời gian sống còn. Hiệp hội quốc tế nghiên cứu về ung thư phổi đã đưa ra các yếu tố ảnh hưởng đến tiên lượng của ung thư phổi, trong đó, giải phẫu bệnh là yếu tố nổi bật. Carcinôm tuyến có tiên lượng tốt hơn chút ít so với các loại tế bào khác. Trong nghiên cứu này, carcinôm tuyến có tiên lượng tốt hơn carcinôm tế bào gai. Tác giả Niemiec lại thấy rằng giới tính TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175 - SOÁ 3 - 9/2015 81 và phân nhóm mô học có ảnh hưởng đến sống còn. Lý giải nữ có tiên lượng tốt hơn do các đặc điểm xã hội, hormon, và các yếu tố liên quan đến bướu. Tác giả Gov- ern cũng cùng quan điểm, sự khác biệt về sống còn giữa hai giới do bệnh tiến triển theo các đặc tính sinh học khác nhau. Đối với nữ, giải phẫu bệnh thường gặp là car- cinôm tuyến hơn carcinôm tế bào gai. Một vài tác giả đề cập đến carcinôm tuyến có liên quan đến tiên lượng tốt trên bệnh nhân di căn não, trong khi đó một số nghiên cứu khác không tìm thấy mối liên hệ này. Nghiên cứu tác giả Kim Junghyn trên 313 trường hợp di căn não từ ung thư phổi không tế bào nhỏ, tác giả chia làm hai nhóm tùy thuộc số ổ di căn não dưới 4 hoặc trên 4. Sống còn giữa hai nhóm này không khác biệt nhau.Các yếu tố ảnh hưởng đến tiên lượng bao gồm tuổi, giới nữ, carcinôm tuyến , bướu nguyên phát được kiểm soát tốt và di căn não đơn ổ. Bảng 4: Yếu tố tiên lượng sống còn theo RPA (Recursive partitioning analysis) Nhóm Yếu tố tiên lượng Trung vị sống còn Nhóm I KPS≥ 70 7,1 tháng Tuổi <65 Không tái phát tại chỗ tại vùng Không di căn xa ngoài não Nhóm II KPS<70 2,3 tháng Nhóm III Còn lại 4,2 tháng Đả có nhiều mô hình được xây dựng dành để tiên lượng cho bệnh nhân di căn não từ nhiều loại bướu nguyên phát khác nhau, trong đó có ung thư phổi không tế bào nhỏ. Những mô hình này dựa vào tuổi, điểm KPS, tình trạng bướu nguyên phát, số ổ di căn não, thể tích ổ di căn não lớn nhất và các di căn ngoài não. Tuy nhiên, trong nghiên cứu của chúng tôi, thông tin về các đặc điểm cốt lõi trên chưa được thu thập đầy đủ nên không thể đánh giá theo những mô hình này được. Nghiên cứu này còn những điểm hạn chế. Bệnh nhân không được chụp CT hoặc MRI não ở những giai đoạn bệnh tiến xa nếu như không có các triệu chứng thần kinh. Chúng tôi không phân biệt được bệnh nhân tử vong là do di căn não tiến triển, di căn ngoài não nặng hơn hay do các nguyên nhân khác. Đây là nghiên cứu bước đầu đánh giá hiệu quả điều trị di căn não từ ung thư phổi, tạo tiền đề cho những nghiên cứu về sau. Đặc biệt khi trong tương lai, nếu chúng tôi có khả năng áp dụng các phương pháp điều trị mới như xạ phẫu. KẾT LUẬN Nghiên cứu trên 72 trường hợp di căn não từ ung thư phổi cho thấy tiên lượng của loại bệnh này rất xấu. Trung vị sống còn chỉ có 7,2 tháng. Số ổ di căn não và loại mô học là hai yếu tố ảnh hưởng đến sống còn. Lựa chọn các mô thức điều trị phụ thuộc vào ước tính tiên lượng sống của bệnh nhân. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ali A, Goffin JR, Arnold A, Ellis TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175 - SOÁ 3 - 9/2015 82 PM (2013), “Survival of patients with non small cell lung cancer after a diagnosis of brain metastases”, Curr Oncol, Vol 20, pp300 – 306. 2. Chi Alexander and Komaki Ritsuko (2010), “Treatment of Brain Metastasis from Lung Cancer”, Cancer,2, pp. 2100- 2137 3. Gaspar L, Scott C, Rotman M, et al (1997) Recursive partitioning analysis (RPA) of prognostic factors in three Ra- diation Therapy Oncology Group (RTOG) brain metastases trials. Int J Radiat Oncol Biol Phys; 37:745. 4. Granone P, Margaritora S, D’Andrilli A, et al (2001). Non-small cell lung cancer with single brain metastasis: the role of surgical treatment. Eur J Car- diothorac Surg ;20:361–6. 5. Kawabe T, Phi JH, YamamotoM, Kim DG, et al (2012). “Treatment of brain metastasis from lung cancer”. Prog Neurol Surg ; 25: 148–55. 6. KimJunghyn, Lee Sang Min, Yim Jae Jun, et al (2013) ,”Prognosis for non- small cell lung cancer patients with brain metastases”, Thoracic Cancer,4, pp.167 – 173. 7. Lagerwaard FJ, Levendag PC, Nowak PJCM, et al (1999). “Identification of prognostic factors in patients with brain metastases: a review of 1292 patients”. Int J Radiat Oncol Biol Phys ;43:795–803. 8. McGovern SL, Liao Z, Bucci MK, McAleer M, et al (2009). “Is sex associ- ated with the outcome of patients treated with radiation for non-small cell lung can- cer?” Cancer;115:3233–42. 9. Niemiec Milena, Glogowski Ma- ciej, et al (2011), “Charecteristics of long- term suvivors of brain metastases from lung cancer”, Practical Oncology and Ra- diotherapy, 16, pp 49-53. 10. Priestman TJ, Dunn J, Brada M, et al (1996). “Final results of the RCR trial comparing two different radiotherapy schedules in the treatment of cerebral me- tastases”. Clin Oncol;8:308–15 11. Rodrigus P, de Brouwer P, Raay- makers E (2001). “Brain metastases and non-small cell lung cancer. Prognostic fac- tors and correlation with survival after ir- radiation”. Lung Cancer ;32:129–36. 12. Sánchez de Cos J, Sojo González MA, Montero MV, et al (2009). “Non-small cell lung cancer and silent brain metasta- sis Survival and prognostic factors”. Lung Cancer; 63: 140–5. 13. Sculier JP, Chansky K, Crowley JJ et al (2008). “The impact of additional prognostic factors on survival and their relationship with the anatomical extent of disease expressed by the 6th Edition of the TNM Classification of Malignant Tumors and the proposals for the 7th Edition.” J Thorac Oncol; 3: 457–66. 14. Vuong DA, Rades D, Le AN, Busse R (2012). “The cost-effectiveness of ste- reotactic radiosurgery versus surgical re- section in the treatment of brain metastasis inVietnam from the perspective of patients and families”. World Neurosurg ; 77: 321– 328.
File đính kèm:
ket_qua_dieu_tri_di_can_nao_tu_ung_thu_phoi_tai_trung_tam_un.pdf

