Kết quả chụp cộng hưởng từ động học sàn chậu ở người Việt Nam trưởng thành không triệu chứng

Chụp cộng hưởng từ động học sàn chậu giúp đánh giá hình thái và chức năng của vùng chậu hông –

sàn chậu – đáy chậu. Các thông số động học bình thường của cộng hưởng từ chưa được nghiên cứu ở Việt

Nam. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu trên 21 người trưởng thành không triệu chứng (8 nam, 13 nữ, tuổi trung

bình: 39,2 ± 9,6) tại Bệnh viện Việt Đức 04 - 07/2020, nhằm hai mục tiêu: Xác định các thông số động học

của ống hậu môn - trực tràng (HMTT) và cơ mu trực tràng và xác định các thông số động học của sàn chậu

và các tạng chậu hông. Kết quả thu được: Chiều cao ống hậu môn (mm) thì nghỉ: 36 ± 4,1; thì rặn: 21,7 ±

7. Bề dày cơ mu – trực tràng thì nghỉ (mm): 10,1 ± 1,5, thì rặn: 7,8 ± 1,7. Góc HMTT (độ) thì nghỉ: 106,3º ±

9,6º, thì thót: 80,3º ± 12,8º, thì rặn: 126,7º ± 22,9º. Độ mở sàn chậu (mm) thì nghỉ: 41,3 ± 14,6; thì rặn: 59,4

± 9,9. Độ hạ xuống của sàn chậu (mm) thì nghỉ: 7,7 ± 5,6, thì rặn: 30,7 ± 15. Sa sàn chậu: 28,6% không sa;

độ I: 42,8%, độ II: 28,6%. Sa bàng quang: 61,9% không sa, 33,3% sa độ I, 1 (nữ) sa độ II. Ở nữ, 5/13 không

sa tử cung, 7/13 sa độ I, 1/13 sa độ II. 23,8% có sa niêm trong (trung bình 12,2mm). Túi sa thành trước trực

tràng ở nữ: 11/13 (84,6%) với độ sâu 21,8 ± 7,2 mm và độ rộng 25 ± 7,3 mm. Các giá trị bình thường của

động học sàn chậu trên cộng hưởng từ giúp đối chiếu, đánh giá các rối loạn bệnh lý vùng HMTT và sàn chậ

pdf 9 trang phuongnguyen 40
Bạn đang xem tài liệu "Kết quả chụp cộng hưởng từ động học sàn chậu ở người Việt Nam trưởng thành không triệu chứng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Kết quả chụp cộng hưởng từ động học sàn chậu ở người Việt Nam trưởng thành không triệu chứng

Kết quả chụp cộng hưởng từ động học sàn chậu ở người Việt Nam trưởng thành không triệu chứng
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 132 (8) - 2020148
KẾT QUẢ CHỤP CỘNG HƯỞNG TỪ ĐỘNG HỌC SÀN CHẬU
 Ở NGƯỜI VIỆT NAM TRƯỞNG THÀNH KHÔNG TRIỆU CHỨNG 
Nguyễn Ngọc Ánh1, , Nguyễn Thị Mến², Nguyễn Xuân Hùng²
 Lê Thị Hạnh¹, Lê Đình Tùng¹, Ngô Xuân Khoa1
1Trường Đại học Y Hà Nội
2Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức
Chụp cộng hưởng từ động học sàn chậu giúp đánh giá hình thái và chức năng của vùng chậu hông – 
sàn chậu – đáy chậu. Các thông số động học bình thường của cộng hưởng từ chưa được nghiên cứu ở Việt 
Nam. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu trên 21 người trưởng thành không triệu chứng (8 nam, 13 nữ, tuổi trung 
bình: 39,2 ± 9,6) tại Bệnh viện Việt Đức 04 - 07/2020, nhằm hai mục tiêu: Xác định các thông số động học 
của ống hậu môn - trực tràng (HMTT) và cơ mu trực tràng và xác định các thông số động học của sàn chậu 
và các tạng chậu hông. Kết quả thu được: Chiều cao ống hậu môn (mm) thì nghỉ: 36 ± 4,1; thì rặn: 21,7 ± 
7. Bề dày cơ mu – trực tràng thì nghỉ (mm): 10,1 ± 1,5, thì rặn: 7,8 ± 1,7. Góc HMTT (độ) thì nghỉ: 106,3º ± 
9,6º, thì thót: 80,3º ± 12,8º, thì rặn: 126,7º ± 22,9º. Độ mở sàn chậu (mm) thì nghỉ: 41,3 ± 14,6; thì rặn: 59,4 
± 9,9. Độ hạ xuống của sàn chậu (mm) thì nghỉ: 7,7 ± 5,6, thì rặn: 30,7 ± 15. Sa sàn chậu: 28,6% không sa; 
độ I: 42,8%, độ II: 28,6%. Sa bàng quang: 61,9% không sa, 33,3% sa độ I, 1 (nữ) sa độ II. Ở nữ, 5/13 không 
sa tử cung, 7/13 sa độ I, 1/13 sa độ II. 23,8% có sa niêm trong (trung bình 12,2mm). Túi sa thành trước trực 
tràng ở nữ: 11/13 (84,6%) với độ sâu 21,8 ± 7,2 mm và độ rộng 25 ± 7,3 mm. Các giá trị bình thường của 
động học sàn chậu trên cộng hưởng từ giúp đối chiếu, đánh giá các rối loạn bệnh lý vùng HMTT và sàn chậu. 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Từ khóa: Cộng hưởng từ động học, cộng hưởng từ động học tống phân, cộng hưởng từ động học 
sàn chậu, cộng hưởng từ chức năng sàn chậu, giá trị bình thường.
Giải phẫu và sinh lý của vùng chậu hông 
– sàn chậu – đáy chậu là một vấn đề phức 
tạp, liên quan đến chức năng tiểu tiện, sinh 
dục và đại tiện. Hai nhóm bệnh lý chính bao 
gồm rối loạn chức năng sàn chậu và sa tạng 
chậu, biểu hiện các triệu chứng như mất tự chủ 
với phân hoặc nước tiểu; táo bón, tắc nghẽn 
đầu ra ảnh hưởng đến chất lượng sống của 
người bệnh. Trước đây, X-quang trực tràng 
động (videoproctography), X-quang động học 
tống phân (Defecography), X-quang bàng 
quang - cổ tử cung – trực tràng động (Dynamic 
cystocolpoproctography) đóng vai trò quan 
trọng trong chẩn đoán những bất thường hậu 
môn- trực tràng (HMTT), tạng chậu nhưng chưa 
mô tả được hình thái cơ, các cơ quan liên quan 
trong chậu hông. Năm 1991, lần đầu tiên tác 
giả Kruyt RH¹ và Yang A², ứng dụng chuỗi xung 
nhanh khảo sát cộng hưởng từ (CHT) động 
học sàn chậu (dynamic magnetic resonance 
imaging (MRI) of pelvic floor) đã khắc phục 
nhược điểm của X-quang. CHT không xâm lấn, 
cho hình ảnh mô mềm tương phản rõ ràng, 
có độ phân giải cao, rõ nét, dễ nhận định các 
Tác giả liên hệ: Nguyễn Ngọc Ánh, 
Bộ môn Giải phẫu, Trường Đại học Y Hà Nội
Email: [email protected]
Ngày nhận: 13/09/2020
Ngày được chấp nhận: 20/10/2020
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 132 (8) - 2020 149
tạng chậu chậu hông và mốc giải phẫu để đánh 
giá hình thái và chức năng sinh lý của cơ thắt 
hậu môn, trực tràng và sàn chậu. Chụp CHT 
động sàn chậu hay CHT động học tống phân 
(dynamic magnetic resonance defecography) 
bắt đầu được thực hiện ở Bệnh viện Y dược 
Thành phố Hồ Chí Minh (TPHCM) từ năm 2007 
và nay đã trở nên phổ biến.3,4 Tại Bệnh viện 
Việt Đức, chúng tôi đã triển khai kỹ thuật này 
từ 2018.⁵
Cho đến nay, các nghiên cứu về thông số 
CHT động học bình thường đều thực hiện với 
một số ít đối tượng nghiên cứu1,2,6-10 nhưng vẫn 
có giá trị đối chiếu, hữu ích cho chẩn đoán bệnh 
lý rối loạn tống phân, rối loạn chức năng sàn 
chậu, sa tạng chậu. Trên cơ sở bước đầu xác 
lập các giá trị bình thường làm chuẩn đối chiếu 
cho nhóm bệnh lý trên người Việt Nam trưởng 
thành, chúng tôi tiến hành nghiên cứu “Kết quả 
chụp CHT động học sàn chậu ở người trưởng 
thành không triệu chứng” nhằm mục tiêu: 1. 
Xác định các thông số động học của ống hậu 
môn - trực tràng (HMTT) và cơ mu trực tràng. 2. 
Xác định các thông số động học của sàn chậu 
và các tạng chậu hông.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
21 người trưởng thành, khỏe mạnh được 
chụp CHT động học sàn chậu bằng máy CHT 
1.5 Tesla tại Bệnh viện Việt Đức từ tháng 04 
đến tháng 07/2020.
Tiêu chuẩn lựa chọn: Tuổi trên 18, khỏe 
mạnh; Không có bệnh lý HMTT hay các triệu 
chứng HMTT như táo bón, đại tiện khó, có 
máu, mất tự chủ, sa trĩ, chảy mủ, sưng đau hậu 
môn); Không rối loạn tiểu tiện, tức nặng vùng 
chậu, đau vùng chậu hông; Không điều trị can 
thiệp HMTT trước đó; Tình nguyện tham gia 
vào nghiên cứu.
Tiêu chuẩn loại trừ: Mang thai. Mang máy 
tạo nhịp hoặc có các vật liệu kim loại trên cơ thể 
(khớp giả, máy khử rung nhĩ...). Không hợp tác 
trong quá trình chụp phim.
2. Phương pháp
Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt 
ngang.
Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 04 đến 
tháng 7 năm 2020
Địa điểm nghiên cứu: Tại Bệnh viện Việt 
Đức
Phương pháp chọn mẫu và cỡ mẫu: Chọn 
mẫu thuận tiện có chủ đích theo các tiêu chuẩn 
lựa chọn và loại trừ.
Áp dụng công thức:
n
X
s
( )z
2
1
2
22= # f- a
n: Cỡ mẫu
Z1-α/2: Hệ số giới hạn tin cậy, với mức ý nghĩa 
thống kê α
 (α = 0,05 tương ứng với giá trị của Z1-α/2 = 
1,96 với độ tin cậy 95%).
ε = 0,2
s: Độ lệch chuẩn
X̅: Giá trị trung bình từ nghiên cứu trước 
Chọn giá trị trung bình và độ lệch chuẩn của 
độ hạ xuống của sàn chậu thì nghỉ trong nghiên 
cứu giá trị bình thường của CHT động học của 
Tirumanisetty (2018)10:
 X̅ = 23, s = 10. Chúng tôi tính được cỡ mẫu 
là 18. Tuy nhiên cỡ mẫu nghiên cứu thực tế là 
21 người.
Quy trình chụp CHT động học:
- Bơm gel siêu âm # 150 - 250ml vào trực 
tràng (tuỳ ngưỡng gây cảm giác muốn đại tiện) 
và #10ml vào âm đạo với nữ đã có gia đình.
- Bệnh nhân nằm ngửa trên bàn tư thế 
Fowler, sử dụng cuộn thu tín hiệu bụng theo 3 
mặt cắt (ngang, dọc và dọc giữa).
- Máy chụp CHT 1.5T của hãng Siemenn 
hoặc Phillip: sử dụng các chuỗi xung T2 TSE 
Axial, Coronal, Sagittal; T1 TSE Axial ; T2 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 132 (8) - 2020150
HASTE Sagittal, Axial, Normal. 
- Khảo sát động học các thì nghỉ (normal), 
thót (squeeze) và rặn (strain) trên xung Cine-
Trufisp.
Chỉ tiêu nghiên cứu:
Đặc điểm nhóm nghiên cứu: Tuổi, giới, chỉ 
số khối cơ thể BMI (body mass index), tiền sử 
thai sản.
Ống HMTT và cơ mu trực tràng (cơ MTT): 
+ Nhận định hình thái, cấu trúc cơ thắt của 
ống hậu môn (OHM), chiều cao OHM, độ mở 
OHM trong thì nghỉ.
+ Bề dày cơ mu – trực tràng (cơ MTT) 2 
bên ( phải – trái) trong thì nghỉ và thì rặn (Bình 
thường: bề dày cơ MTT mỏng đi ở thì rặn).
+ Chiều dài OHM, độ mở của OHM khi tống 
phân.
+ Khả năng tống gel (Bình thường: tống 
được trên 70% gel khi rặn khoảng 30 giây).
+ Góc HMTT: Góc tạo bởi trục OHM và 
đường tiếp tuyến thành sau trực tràng Bình 
thường: Góc HMTT mở rộng trong thì rặn 
(tăng), nhỏ lại khi thót.
Sàn chậu và các tạng chậu hông³:
Hình 1. Các mốc đo của sàn chậu : Đường 
PCL, đường H và đường M 
Mũi tên đen: Chỗ nối cổ bàng quang-niệu đạo 
(mốc đo của bàng quang). Mũi tên trắng: Chỗ 
nối cổ tử cung – âm đạo (mốc đo của tử cung)
- Đo các chiều dài thì nghỉ và thì rặn. Giá trị 
dương phản ánh vị trí của tạng trên đường mu 
cụt (pubococcygeal line - PCL). Giá trị âm phản 
ánh vị trí dưới PCL.
+ Đường mu cụt (PCL): Đường nối hai điểm 
AB: Bờ dưới khớp mu (điểm A) đến điểm giữa 
chỗ nối 2 xương cụt cuối (điểm B). 
+ Đường H (Levator Hiatus - Độ mở sàn 
chậu): Bình thường < 6 cm, là đường nối từ 
điểm A đến điểm C: chỗ tiếp nối HMTT (mép 
trên bó MTT ở thành sau).
+ Đường M (Muscular pelvic floor relaxation 
- Độ hạ xuống của sàn chậu): Bình thường < 
2 cm, là khoảng cách vuông góc từ điểm C tới 
đường PCL. 
+ Đo khoảng cách vuông góc từ chỗ thấp 
nhất của cơ quan (chỗ nối niệu đạo-bàng 
quang, tử cung – cổ tử cung) đến đường PCL.
- Tình trạng sa các tạng sàn chậu2,3:
+ Độ hạ xuống của sàn chậu M (trực tràng) 
trong thì rặn: Độ 0 (bình thường): M < 2cm. Độ 
I (nhẹ): M từ 2 - 4 cm. Độ II (trung bình): M từ 
4 - 6 cm. Độ III (nặng): M > 6 cm.
+ Túi sa thành trước trực tràng (rectocele): 
độ sâu túi sa (R), đường kính cổ túi sa: Độ I 
(nhẹ): R < 2cm; Độ II (trung bình): R từ 2 - 4 
cm; Độ III (nặng): R > 4 cm.
+ Lồng trực tràng (sa niêm trong trực tràng): 
Nếp gấp > 3mm lõm vào thành trực tràng khi 
rặn đại tiện. Phân độ: Độ I ≤ 1cm, Độ II > 1 cm. 
+ Sa tử cung/ bàng quang so với đường mu 
cụt PCL: bình thường nằm trên PCL trong thì 
nghỉ và thì rặn. Độ I (nhẹ): dưới đường PCL < 
3cm. Độ II (trung bình): dưới đường PCL 3 - 6 
cm. Độ III (nặng): dưới đường PCL > 6 cm.
3. Xử lý số liệu
Số liệu được xử lý trên máy tính bằng Excel 
và SPSS 20, sử dụng hàm tính giá trị trung 
bình, so sánh giá trị trung bình T-test, kiểm định 
có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.
4. Đạo đức nghiên cứu
Nghiên cứu đã được thông qua Hội đồng 
Đạo đức trong Nghiên cứu Y sinh của Trường 
Đại học Y Hà Nội (Quyết định số 21NCS17/
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 132 (8) - 2020 151
HDDDDHYHN ký ngày 08/02/2018). Nghiên cứu được thực hiện trung thực, chính xác, đảm bảo 
tính bí mật của thông tin.
III. KẾT QUẢ
1. Đặc điểm chung của nhóm nghiên cứu
Tuổi trung bình: 39,2 ± 9,6 năm; BMI trung bình: 21,93 ± 2,1 (18,7 - 26,8) kg/m². Nam: 8/21 
(38,1%), Nữ: 13/21 (61,9%). Tỉ lệ nữ:nam: 1,63.
Tiền sử thai sản nhóm nữ: 100% đã sinh đẻ: Đẻ 3 con: 1/13 (7,7%); Đẻ 2 con: 12/13 (92,3%). 
Trong đó, mổ đẻ: 6/13 (46,2%); đẻ đường dưới: 7/13 (53,8%).
2. Các thông số động học bình thường của ống HMTT và cơ mu trực tràng trên CHT động 
học sàn chậu.
Hình 2. Hình ảnh đo bề dày cơ mu trực tràng trong thì nghỉ (A) và thì rặn Valsava (B) 
(P.T.H.L. 50T)
Hình thái, cấu trúc các cơ thắt hậu môn, trực tràng, cơ vùng chậu: 21/21 bình thường. Trong thì 
nghỉ, 19/21 có OHM khép (90,5%), hai nữ ( 2/21: 9,5%) có OHM mở 2mm. Độ rộng OHM trong thì 
rặn: 10,3 ± 5,3 (3/21 (14,3%) không mở OHM trong thì rặn). Chiều cao OHM (mm) thì nghỉ: 36 ± 4,1; 
thì rặn: 21,7 ± 7 (p < 0,01).
Bề dày cơ mu – trực tràng thì nghỉ (mm): 10,1 ± 1,5, thì rặn: 7,8 ± 1,7 (n = 42 do số liệu 2 bên 
phải và trái, không khác biệt giữa phải và trái). Góc HMTT (độ) thì nghỉ: 106,3º ± 9,6º, thì thót: 80,3º 
± 12,8º, thì rặn: 126,7º ± 22,9º (p 70%: 17/21 (81%); < 
20%: 4/21 (19%).
3. Các thông số động học của sàn chậu và các tạng chậu hông trên CHT động học sàn chậu
Bảng 1. Các giá trị trung bình của các thông số động học của sàn chậu
Giá trị trung bình các thông số (n = 21) Thì nghỉ Thì rặn p
Đường mu cụt (PCL) (mm) 92,5 ± 8,7 97,9 ± 8,1 0,0002
Khoảng cách PCL thay đổi giữa thì nghỉ và 
rặn (mm) 5,3 ± 5,5
Đường H: độ mở sàn chậu (mm) 41,3 ± 14,6 59,4 ± 9,9 0,0001
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 132 (8) - 2020152
Giá trị trung bình các thông số (n = 21) Thì nghỉ Thì rặn p
Khoảng cách H thay đổi giữa thì nghỉ và 
rặn (mm) 18,1 ± 17,4
Đường M: độ hạ xuống của sàn chậu (mm) -7,7 ± 5,6 -30,7 ± 15 < 0,001
Khoảng cách M thay đổi giữa thì nghỉ và 
rặn (mm) 23 ± 12,5
Khoảng cách từ cổ bàng quang đến PCL 
(mm)
26,8 ± 5,6
(17 - 35)
0,14 ± 15
(-31 - 28) < 0,001
Khoảng cách hạ xuống của bàng quang thì 
rặn so với thì nghỉ (mm) 27 ± 13,4
Khoảng cách từ cổ tử cung đến PCL (mm) 
ở nữ (N = 13)
42,8 ± 7
(27 - 42)
-4,1 ± 17,9
(-33 - 36) < 0,001
Khoảng cách hạ xuống của tử cung thì rặn 
so với thì nghỉ (mm) ở nữ (N = 13) 46,8 ± 19,5
Chú thích: Giá trị dương phản ánh vị trí của 
tạng trên đường mu cụt (PCL), Giá trị âm phản 
ánh vị trí của tạng dưới đường mu cụt (PCL).
Độ mở sàn chậu H (mm) thì nghỉ: 41,3 
± 14,6; thì rặn: 59,4 ± 9,9 (p < 0,001). Độ hạ 
xuống của sàn chậu M (mm) thì nghỉ: 7,7 ± 5,6, 
thì rặn: 30,7 ± 15 (p < 0,001). Khoảng cách từ 
cổ bàng quang đến PCL (mm) thì nghỉ: 26,8 ± 
5,6; thì rặn: 0,14 ± 15 (p < 0,001). Ở nữ, khoảng 
cách từ cổ tử cung đến PCL (mm) thì nghỉ: 42,8 
± 7; thì rặn: -4,1 ± 17,9 (p < 0,001). 
Sa sàn chậu: 28,6% không sa; độ I: 42,8%, 
độ II: 28,6%. Ở nam, 50% không có sa sàn 
chậu, độ I: 37,5%, độ II: 12,5%. Ở nữ, có 15,4% 
không sa, độ I: 46,2%, độ II: 38,5%. Khác biệt 
nam và nữ không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05)
Sa bàng quang: 61,9% không sa, 33,3% sa 
độ I, chỉ 1 (nữ) sa độ II. Ở nam, 87,5% không sa 
bàng quang, 12,5% sa độ I. Ở nữ, 46,2% không 
sa bàng quang, 46,2% sa độ I, 7,6% sa độ II. 
Khác biệt nam và nữ không có ý nghĩa thống 
kê (p > 0,05).
23,8% (4 nữ, 1 nam) có sa niêm trong (trung 
bình 12,2mm): 3 ca độ I, 2 ca độ II. 76,2% 
không sa niêm.
Ở nữ, 5/13 (38,4%) không sa tử cung, 7/13 
(53,8%) sa độ I, 1/13 sa độ II. Túi sa thành trước 
trực tràng (Rectocele) ở nữ: 11/13 (84,6%) với 
độ sâu 21,8 ± 7,2 mm và độ rộng 25 ± 7,3 mm. 
Ứ gel trong túi sa: Có (ít): 3/11(27,3%); Không: 
8/11 (72,7%). Phân loại: Độ I: 4/11 (36,4%); Độ 
II: 7/11 (63,6%). Túi sa thành sau trực tràng: 
2/13 người.
IV. BÀN LUẬN
Đây là nghiên cứu đầu tiên ghi nhận các 
thông số giải phẫu và động học sàn chậu ở 21 
người Việt Nam trưởng thành khoẻ mạnh không 
triệu chứng trên phim cộng hưởng từ (CHT). 
Nhóm nghiên cứu có tuổi trung bình: 39,2 với tỉ 
lệ nữ: nam = 1,63 và BMI trung bình: 22 kg/m². 
Nghiên cứu đầu tiên về giải phẫu HMTT trên 
CHT động của Kruyt, năm 1991, trên 10 người 
khoẻ mạnh (5 nam, 5 nữ) có tuổi trung bình 33.¹ 
Các nghiên cứu trên CHT động chủ yếu thực 
hiện trên nhóm nữ không triệu chứng do bệnh 
lý sàn chậu liên quan nhiều đến nữ.7-10 Cho đến 
nay, Goh và cộng sự (cs) năm 2000,⁶ nghiên 
cứu trên số nam cao nhất là 25/50 người khoẻ 
mạnh, tuổi trung bình là 34. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, nhóm nữ 
có tuổi trung bình 43, đều đã sinh đẻ và 92,3% 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 132 (8) - 2020 153
đã đẻ 2 con, 53,8% đẻ đường dưới. Năm 2012, 
A. Schreyer⁹ nghiên cứu trên 10 nữ chưa sinh 
đẻ, không triệu chứng, với tuổi trung bình là 31. 
Năm 2018, P. Tirumanisetty và cộng sự10 là 
nghiên cứu có số lượng lớn nhất, trên 113 phụ 
nữ không triệu chứng, tuổi trung bình 50, BMI 
trung bình: 27 kg/m², đánh giá hình thái cơ thắt 
hậu môn, động học HMTT và sa tạng chậu trên 
CHT động có đầu dò nội OHM (endoanal coil). 
Trong thì nghỉ, chúng tôi ghi nhận hai nữ 
(9,5%) có OHM mở (patulous anal canal). Nhờ 
cơ chế cơ-thần kinh duy trì tự chủ tinh vi, OHM 
thường đóng kín ở thì nghỉ. Năm 1912, A.J. 
Zobel11 đã nhận định rằng hậu môn mở là tình 
trạng mất trương lực cơ thắt hậu môn khi nghỉ, 
xảy ra có thể do suy yếu nội tại cơ thắt, tổn 
thương thần kinh chi phối hoặc do toàn trạng 
yếu. Nghiên cứu trên Xquang defecography ở 
38 người bình thường, Shorvon (1989)12 ghi 
nhận 1/25 nam và 3/23 nữ có hậu môn mở. P. 
Tirumanisetty và cs (2018)10 nhận thấy có 6/113 
nữ (không triệu chứng) có hậu môn mở, đều ở 
nhóm BMI 51 tuổi.
Chiều cao OHM thì nghỉ: 36 ± 4,1mm, phù 
hợp với những nghiên cứu trước đây về chiều 
cao OHM.³ Chiều cao OHM rút ngắn ở thì rặn 
tống phân, phù hợp với các mô tả sinh lý hoạt 
động đại tiện.³ Trong nghiên cứu của Shorvon 
(1989),12 chiều cao OHM thì nghỉ trên Xquang 
defecography là 22 ± 7 (10 - 38) mm ở nam và 
16 ± 5 (6 - 26) mm ở nữ, giảm xuống ở thì rặn: 
17 mm ở nam và 14 mm ở nữ.
Cơ mu trực tràng (cơ MTT) được nhìn thấy 
rõ trên phim chụp CHT động học sàn chậu, cho 
phép xác định các tổn thương cơ MTT, chứng 
Anismus (co cứng cơ MTT hoặc co thắt cơ MTT 
nghịch lý). Sự thay đổi bề dày cơ MTT giữa thì 
nghỉ-rặn trên CHT động học là thông số quan 
trọng trong chẩn đoán rối loạn chức năng sàn 
chậu,3,4 nhưng chúng tôi không tìm được dữ 
liệu bình thường ở các nghiên cứu khác. Góc 
HMTT hẹp có thể do rối loạn cơ MTT, dẫn đến 
táo bón, lồng trực tràng, sa trực tràng kiểu túi 
(rectocele) kèm loét đơn độc của trực tràng. 
Góc HMTT mở rộng khi nghỉ có thể là dấu hiệu 
của sự suy yếu sàn chậu, mất tự chủ và sa trực 
tràng.⁹ Kết quả của nghiên cứu của chúng tôi 
phù hợp với các nghiên cứu khác về góc HMTT.
Chụp ghi hình đại tiện cung cấp hình ảnh 
khách quan về hoạt động tống phân và khối 
lượng gel tống ra, được coi là bình thường và 
hiệu quả khi tống được 70 - 100% lượng gel 
bơm vào. Nghiên cứu này gặp 2 nam, 2 nữ 
không tống được gel hoặc tống được rất ít, dù 
đã được đánh giá kỹ về cơ năng, khám, loại 
trừ bất thường và rối loạn đại tiện trong sinh 
hoạt. Việc thực hiện động tác rặn không hiệu 
quả khi chụp CHT là vấn đề cần lưu ý trong 
đánh giá bệnh lý đại tiện tắc nghẽn (obstructed 
defecation). Một kết quả bất thường không có 
nghĩa là bệnh lý. CHT động không thể thay 
thế việc hỏi bệnh và khám lâm sàng kỹ lưỡng. 
Động tác rặn có thể bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu 
tố như tư thế bất thường, không riêng tư, cảm 
giác xấu hổ. 
Hiện nay, đường mu cụt (pubococcygeal 
line - PCL) là đường căn bản (reference line) để 
đánh giá tình trạng sa các khoang chậu và các 
tạng chậu hông. Năm 1991, Yang và cộng sự² 
sử dụng PCL là đường nối từ bờ dưới xương 
mu đến khớp giữa hai xương cụt cuối, đưa ra 
phân độ các tạng sa dựa vào các khoảng cách 
từ điểm mốc của tạng đến PCL. Cũng trong năm 
1991, Kruyt¹ lấy đường căn bản là đường mu 
- cùng (symphysiosacral/ pubosacral baseline): 
Đường nối từ bờ trên xương mu đến chỗ nối 
giữa đỉnh xương cùng và xương cụt đầu tiên, 
nhưng ít phổ biến hơn. 
Độ mở sàn chậu (H – levator hiatus) và độ 
hạ xuống của sàn chậu (M – muscular pelvic 
floor relaxation) có liên quan với tình trạng tự 
chủ hậu môn. Mất tự chủ hậu môn được quan 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 132 (8) - 2020154
sát thấy ở nhóm có H > 8cm và M > 4cm.⁹ 
Nghiên cứu của chúng tôi (Bảng 1) tương đồng 
với Schreyer AG (2012)⁹: giá trị M thì nghỉ, -5,3 
± 9,9 mm; ở thì rặn -29,9 ± 10,3 mm (n = 10). 
Theo nghiên cứu này, khoảng cách hạ xuống 
của chỗ nối HMTT giữa hai thì là 24,6mm, 
tương tự như nghiên cứu của chúng tôi là 23 
± 12,5 mm. 
Theo Shorvon12, Goh⁶, tình trạng sa sàn 
chậu là khi độ hạ xuống của sàn chậu M lớn 
hơn 2,5 cm trong thì nghỉ và hơn 3 cm trong thì 
rặn. Nghiên cứu của chúng tô sử dụng phân 
độ theo Zoran L. Barbaric, có sa sàn chậu khi 
M lớn hơn 2cm.3,13 Trong nhóm nghiên cứu, 
sa sàn chậu nữ thường gặp và nặng hơn nam 
(không có ý nghĩa thống kê p > 0,05). Điều này 
phù hợp với tiền sử 100% đã sinh đẻ ở nhóm 
nữ. Rối loạn chức năng sàn chậu, sa tạng chậu 
thường gặp ở nữ và liên quan đến tiền sử thai 
sản.
Theo nghiên cứu của chúng tôi, bàng quang 
thường nằm cao trên đường mu cụt trong thì 
nghỉ, hạ xuống 27 ± 13,4 mm trong thì rặn, trung 
bình khoảng cách bàng quang đến PCL trong 
thì rặn là 0,14 ± 15 mm (Bảng 1). Nghiên cứu 
của Schreyer AG (2012) 9 có giá trị tương đồng 
về khoảng cách này: Thì nghỉ: 23 ± 4,6 mm; 
Thì rặn: -8,1 ± 11,1 mm (n = 10). Kết quả của 
chúng tôi có 8/21 sa bàng quang xuống dưới 
PCL khi rặn, còn Schreyer gặp 6/10.⁹ Trong 113 
nữ không triệu chứng, Tirumanisetty và cộng 
sự10 thấy có 54 (48%) bàng quang hạ thấp hơn 
2 cm dưới PCL khi rặn, 9% hạ thấp hơn 4 cm 
dưới PCL.
23,8% (4 nữ, 1 nam) có sa niêm trong trực 
tràng với 3 ca độ I, 2 ca độ II. Kích thước trung 
bình của niêm sa: 12,2 mm. Lồng trực tràng 
vốn được coi là bệnh sinh của đại tiện tắc 
nghẽn và loét trực tràng đơn độc. Nghiên cứu 
của Tirumanisetty có 12 nữ (11%) sa niêm trong 
trực tràng.10 Chúng tôi không gặp trường hợp 
nào có lồng trực tràng – ống hậu môn. Chụp 
động học tống phân là phương tiện duy nhất 
cung cấp hình ảnh khách quan về sa niêm và 
lồng trực tràng. 
Ở nhóm nữ, các số liệu nghiên cứu thu được 
về khoảng cách từ cổ tử cung đến PCL thì nghỉ 
và thì rặn phù hợp với các nghiên cứu trước 
đây. Trong thì nghỉ, tử cung nằm trên đường 
mu cụt 31 ± 13 mm (n = 25, Vicky Goh⁶ và 43 ± 
7,8 mm (n = 10, Schreyer⁹ và hạ xuống tương 
ứng là 14 mm (n = 25) và 35,2mm (n = 10) trong 
thì rặn. 3/10 phụ nữ (chưa sinh đẻ) trong nhóm 
của Schreyer AG⁹ có sa tử cung độ I. Nghiên 
cứu của chúng tôi có 5/13 không sa tử cung, 
7/13 sa độ I và 1/13 sa độ II. Theo Tirumanisetty 
và cộng sự10, có 28% (n = 113) tử cung hạ thấp 
> 2 cm so với PCL khi rặn, trong đó 5% có sa 
hơn 4 cm.
Hình 3. Hình ảnh túi sa thành trước 
(Rectocele) và túi sa thành sau trực tràng 
trên T2 sagittal (N.T.H.Y. 42T)
Trong nghiên cứu của chúng tôi, túi sa 
thành trước trực tràng (Rectocele) gặp ở 11/13 
(84,6%) với độ sâu là 21,8 ± 7,2 mm, độ rộng là 
25 ± 7,3 mm (Hình 3). Kết quả của nghiên cứu 
của chúng tôi phù hợp với các kết quả trước 
đây.9,10,12 Nghiên cứu của Schreyer gặp 8/10 
phụ nữ có rectocele với kích thước trung bình 
là 26mm9. Trong nghiên cứu của Tirumanisetty, 
tỉ lệ rectocele là 71%: 62% (70/113) rectocele 
lớn hơn 2cm, và dưới 10% có rectocele lớn 
hơn 4 cm.10 Theo tác giả này, 4 cm là ngưỡng 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 132 (8) - 2020 155
bệnh lý của rectocele. Theo Delemarre14, kích 
thước rectocele lớn hơn 2 cm là bệnh lý và phải 
mổ nếu có triệu chứng. Lienemann15 định nghĩa 
rectocele là khi túi sa thành trước trực tràng > 
30 mm. Tổng kết 1683 bệnh nhân có rối loạn 
chức năng sàn chậu (2008 - 2012), tác giả Võ 
Tấn Đức4 ghi nhận 77,9% có túi sa thành trước 
kích thước 2 - 4 cm và 74,4% có phối hợp sa 
nhiều hơn 1 khoang chậu. Nghiên cứu của 
Shorvon12 trên Xquang defecography trên 23 
nữ chưa sinh đẻ cho thấy tỉ lệ rectocele là 81% 
nhưng chỉ 5% rectocele lớn hơn 2 cm. Tác giả 
này cho rằng sự hình thành rectocele ở nữ cần 
được coi là thường gặp và bình thường.
V. KẾT LUẬN
Các giá trị bình thường của động học sàn 
chậu trên CHT cung cấp các thông tin để đối 
chiếu, đánh giá các rối loạn bệnh lý hình thái 
và chức năng vùng HMTT và sàn chậu. Động 
tác rặn tống phân bất thường, các hình ảnh sa 
tạng chậu, rectocele cũng được quan sát thấy 
ở người khỏe mạnh là những điểm cần lưu 
ý khi chụp CHT động học tống phân. Cần có 
thêm các nghiên cứu để tìm hiểu ý nghĩa lâm 
sàng của những phát hiện này và kết hợp so 
sánh giữa các nhóm bình thường và bệnh lý 
trong tương lai.
Lời cảm ơn
Các tác giả cảm ơn Bệnh viện Hữu nghị Việt 
Đức đã hỗ trợ cho nghiên cứu. Chúng tôi cam 
kết không xung đột lợi ích từ kết quả nghiên 
cứu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Kruyt RH, Delemarre JB, Doornbos J et 
al. Normal anorectum: dynamic MR imaging 
anatomy. Radiology. 1991; 179: 159 – 173.
2. Yang A, Mostwin JL, Rosenshein NB, 
Zerhouni EA. Pelvic floor descent in women: 
dynamic evaluation with fast MR imaging and 
cinematic display. Radiology. 1991; 179(1): 25 
- 33.
3. Nguyễn Trung Vinh. Sàn chậu học, NXB Y 
học, TPHCM, 2015.
4. Võ Tấn Đức. Đánh giá đặc điểm sa trực 
tràng kiểu túi ở bệnh nhân rối loạn chức nắng 
sàn chậu bằng CHT động. Tạp chí điện quang 
Việt Nam. 2014; số 15.
5. Nguyễn Thị Mến, Nguyễn Ngọc Ánh, 
Nguyễn Duy Huề. Bước đầu đánh giá sa tạng 
chậu trên phim cộng hưởng từ động ở bệnh 
nhân rối loạn chức năng sàn chậu tại Bệnh viện 
Việt Đức. Tạp chí Y học Việt Nam. 2020; 490: 
195 - 199.
6. Goh V, Halligan S, Kaplan G, Healy 
JC, Bartram CI. Dynamic MR imaging of the 
pelvic floor in asymptomatic subjects. Am J 
Roentgenol. 2000;174:661 - 666.
7. Sprenger D, Lienemann A, Anthuber C, 
Reiser M. Functional MRI of the pelvic floor: 
its normal anatomy and pathological findings. 
Radiologe 2000; 40: 451 - 457
8. Lienemann A, Fischer T, Anthuber C, 
Reiser M. Functional MRI of the Pelvic Floor: 
Postpartum Changes of Primiparous Women 
after Spontaneous Vaginal Delivery. Fortschr 
Röntgenstr 2003; 175: 1100–1105.
9. Schreyer AG, Paetzel C, Furst A, et al. 
Dynamic magnetic resonance defecography 
in 10 asymptomatic volunteers. World J 
Gastroenterol. 2012; 18: 6836 - 6842.
10. Tirumanisetty P, Prichard D, Fletcher 
JG, et al. Normal values for assessment of 
anal sphincter morphology, anorectal motion, 
and pelvic organ prolapse with MRI in healthy 
women. Neurogastroenterology & Motility. 
2018; e13314.
11. Alfred J Zobel. Patulous anus: its 
clinical significance. California state journal of 
medicine. Nov 1912: 471.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 132 (8) - 2020156
12. Shorvon PJ, McHugh S, Diamant NE, 
Somers S, Stevenson GW. Defecography in 
normal volunteers: results and implications. Gut 
1989; 30(12):1737 – 1749.
13. Zoran L. Barbaric, Alan K. Marumoto, 
Shlomo Raz. Magnetic Resonance Imaging 
of the Perineum and Pelvic Floor. Topic in 
Magnetic Resonance Imaging, 2001; 12: 83 - 
92.
14. Delemarre JB, Kruyt RH, Doornbos J, 
Buyze-Westerweel M, Trimbos JB, Hermans J, 
Gooszen HG. Anterior rectocele: assessment 
with radiographic defecography, dynamic 
magnetic resonance imaging, and physical 
examination. Dis Colon Rectum, 1994; 37: 249 
- 259.
15. Lienemann A, Anthuber C, Baron A, Kohz 
P, Reiser M. Dynamic MR colpocystorectography 
assessing pelvic floor descent. Eur Radiol, 
1997; 7: 1309 - 1317.
Summary
DYNAMIC MAGNETIC RESONANCE DEFECOGRAPHY
 IN VIETNAMESE ASYMPTOMATIC ADULTS
Pelvic floor dynamic magnetic resonance imaging (MRI) helps clinical practitioner to evaluate 
the morphology and function of the pelvis- pelvic floor - perineum. The normal dynamic parameters 
of MRI have not been studied in Vietnam. We conducted this study on 21 asymptomatic adults 
(8 males, 13 females, average age: 39.2 ± 9.6) at Viet Duc Hospital from April to July 2020. 
We aimed to evaluate standard value of dynamic parameters of the anal canal, rectum and 
puborectalis, pelvic floor and pelvic organs. The results obtained are: Average anal canal height 
(mm) at rest: 36 ± 4.1; during defecation: 21.7 ± 7. Average thickness of puborectalis at rest (mm): 
10.1 ± 1.5, during Valsava maneuver: 7.8 ± 1.7. Average anorectal angle at rest: 106.3º ± 9.6º, 
during squeezing: 80.3º ± 12.8º, during defecation: 126.7º ± 22.9º. Average pelvic floor hiatus 
opening H (mm) at rest: 41,3 ± 14,6; straining: 59.4 ± 9.9. Average descending of the pelvic floor 
M (mm) at rest: 7.7 ± 5.6, straining: 30.7 ± 15. 28.6% without descending perineum; degree I: 
42.8%, degree II: 28.6%. Bladder prolapse: 61.9% no prolapse, 33.3% degree I, only 1 (female) 
degree II. In women, 5/13 no uterine prolapse, 7/13 degree I, 1/13 degree II. 23.8% (4 females, 
1 male) had rectal intussusception (average 12.2mm). Rectocele in women: 11/13 (84.6%) with 
a depth of 21.8 ± 7.2 mm and a width of 25 ± 7.3 mm. The standard values of MR defecography 
findings in asymptomatic adults help evaluate anorectal pathology and pelvic floor disorders. 
Key words: Dynamic magnetic resonance imaging (MRI) of pelvic floor, Magnetic resonance 
(MR) defecography, Functional magnetic resonance imaging of pelvic floor, dynamic 
magnetic resonance defecography, normal value, standard value.

File đính kèm:

  • pdfket_qua_chup_cong_huong_tu_dong_hoc_san_chau_o_nguoi_viet_na.pdf