Kết quả bước đầu triển khai hệ thống Báo cáo sự cố y khoa tại bệnh viện Việt Nam - Thụy Điển Uông Bí giai đoạn 2013-2018
Nghiên cứu này mô tả phân bố sự cố y khoa được nhân viên y tế bệnh viện Việt Nam – Thụy Điển
Uông Bí báo cáo trong giai đoạn triển khai hệ thống báo cáo sự cố (2013 - 2018). Kết quả cho thấy trong
6 năm có 2311 sự cố y khoa được báo cáo. Số sự báo cáo tăng lên từ 1 năm 2013 lên 1380 năm 2018.
Trong đó 99,6% là báo cáo tự nguyện và 99% là báo cáo sự cố đâ xảy ra. Số sự cố được báo cáo bởi
điều dưỡng là cao nhất (67,9%). Tỷ lệ báo cáo bằng phần mềm chung là 80,3%. Tỷ lệ sự cố được báo cáo
trong vòng 24h tăng lên từ 33,3% năm 2015 lên 84,25% năm 2018. Sự cố y khoa nhóm các tình huống
gây tổn thương nhẹ được báo cáo cao nhất, chiếm 67,2% tổng số báo cáo. Sau khi bệnh viện triển khai
các biện pháp hỗ trợ, kiện toàn hệ thống và trang bị phần mềm báo cáo, xây dựng cơ chế khuyến khích,
và tạo môi trường an toàn sẵn sàng chia sẻ thông tin đã thúc đẩy nhân viên tự nguyện báo cáo sự cố.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Kết quả bước đầu triển khai hệ thống Báo cáo sự cố y khoa tại bệnh viện Việt Nam - Thụy Điển Uông Bí giai đoạn 2013-2018
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC TCNCYH 123 (7) - 2019172 KẾT QUẢ BƯỚC ĐẦU TRIỂN KHAI HỆ THỐNG BÁO CÁO SỰ CỐ Y KHOA TẠI BỆNH VIỆN VIỆT NAM – THỤY ĐIỂN UÔNG BÍ GIAI ĐOẠN 2013-2018 Nguyễn Thị Thu Hà¹, Trần Viết Tiệp¹, Nguyễn Thi Trang Nhung² ¹Bệnh viện Việt Nam – Thụy Điển Uông Bí, ²Đại học Y tế Công Cộng Nghiên cứu này mô tả phân bố sự cố y khoa được nhân viên y tế bệnh viện Việt Nam – Thụy Điển Uông Bí báo cáo trong giai đoạn triển khai hệ thống báo cáo sự cố (2013 - 2018). Kết quả cho thấy trong 6 năm có 2311 sự cố y khoa được báo cáo. Số sự báo cáo tăng lên từ 1 năm 2013 lên 1380 năm 2018. Trong đó 99,6% là báo cáo tự nguyện và 99% là báo cáo sự cố đâ xảy ra. Số sự cố được báo cáo bởi điều dưỡng là cao nhất (67,9%). Tỷ lệ báo cáo bằng phần mềm chung là 80,3%. Tỷ lệ sự cố được báo cáo trong vòng 24h tăng lên từ 33,3% năm 2015 lên 84,25% năm 2018. Sự cố y khoa nhóm các tình huống gây tổn thương nhẹ được báo cáo cao nhất, chiếm 67,2% tổng số báo cáo. Sau khi bệnh viện triển khai các biện pháp hỗ trợ, kiện toàn hệ thống và trang bị phần mềm báo cáo, xây dựng cơ chế khuyến khích, và tạo môi trường an toàn sẵn sàng chia sẻ thông tin đã thúc đẩy nhân viên tự nguyện báo cáo sự cố. I. ĐẶT VẤN ĐỀ Từ khóa: Báo cáo sự cố y khoa, Bệnh viện Việt Nam – Thụy Điển Uông Bí, Hệ thống báo cáo sự cố Sự cố y khoa (SCYK) là “sai sót chuyên môn, sai lầm y khoa” hoặc là tác hại liên quan đến quản lý y tế [1]. Hậu quả của SCYK là nỗi đau kép. Người bệnh phải gánh chịu hậu quả về tính mạng, sức khỏe, tài chính.... Nhân viên y tế (NVYT) phải chịu những áp lực của dư luận xã hội, nghề nghiệp và điều này dẫn đến nhiều người đã tự tử, bỏ nghề hoặc phải ngồi tù. Tự nguyện báo cáo SCYK là việc cung cấp các thông tin về sự cố đã xảy ra/có nguy cơ xảy ra. Từ đó sự cố được chia sẻ với đồng nghiệp để rút kinh nghiệm, phòng ngừa sự cố lặp lại ở người bệnh khác nhằm hướng tới an toàn cho người bệnh. Theo Nancy C. năm 2006 các rào cản chính khiến NVYT không báo cáo SCYK là gánh nặng, áp lực trong việc báo cáo và thiếu rõ ràng về những thông tin cần phải báo cáo [2]. Nghiên cứu của Hui-Ying Chian năm 2006 chỉ ra rằng xây dựng một hệ thống báo cáo tự nguyện là một trong những bước đầu tiên. Điều chỉnh hệ thống quản lý và nâng cao nhận thức, thái độ của NVYT về báo cáo sự cố y khoa cũng thúc đẩy việc báo cáo sự cố [3]. Bệnh viện đa khoa Việt Nam –Thụy Điển Uông Bí đã triển khai Hệ thống báo cáo SCYK từ năm 2013 ngay khi có thông tư 19/2013/TT- BYT [4]. Năm 2016 bệnh viện đã kiện toàn lại hệ thống báo cáo và triển khai các giải pháp để nâng cao nhận thức cho NVYT cũng như xây dựng các chính sách, môi trường thân thiện để cho NVYT tự tin báo cáo SCYK. Mục tiêu của bài báo này là mô tả phân bố các sự cố y khoa được NVYT của bệnh viện báo cáo trong 6 năm (2013 - 2018). Tác giả liên hệ: Nguyễn Thị Thu Hà, Bệnh viện Việt Nam – Thụy Điển Uông Bí, Quảng Ninh Email: [email protected] Ngày nhận: 26/09/2019 Ngày được chấp nhận: 10/10/2019 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC TCNCYH 123 (7) - 2019 173 II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 1. Đối tượng Nghiên cứu sử dụng tất cả các báo cáo SCYK bằng mọi hình thức của các khoa, phòng, trung tâm trong bệnh viện gửi về bộ phận tiếp nhận SCYK và được ghi chép/lưu giữ/ ghi nhận trong thời gian từ năm 2013-2018. Các thông tin được chiết xuất gồm các thông tin về sự cố, thời gian, vị trí, đối tượng, tình huống, mức độ ảnh hưởng của SCYK, người thông tin/báo cáo, hình thức, phương thức báo cáo, mức độ tổn thương (Theo mẫu phiếu báo cáo SCYK ban hành kèm theo thông tư 43/2018/TT-BYT) 2. Phương pháp Nghiên cứu mô tả sử dụng số liệu thứ cấp. Toàn bộ các sự cố được báo cáo bằng giấy, qua hệ thống phần mềm, thư điện tử.được dùng để phân tích số liệu, nhập vào excel sau đó được phân loại, mã hóa theo năm, theo đơn vị, chức danh báo cáo. 3. Xử lý số liệu Số liệu được phân tích trên phần mềm SPSS. Tỷ lệ % và tần số được dùng để mô tả biến 4. Đạo đức nghiên cứu Nghiên cứu đã được hội đồng đạo đức trong nghiên cứu y sinh Trường Đại học Y tế Công Cộng thông qua số 305/2019/YTCC- HĐ3 ngày 13/5/2019. III. KẾT QUẢ Trong 6 năm (2013-2018) tại bệnh viện Việt Nam –Thụy Điển Uông Bí có tổng số 2311 SCYK được NVYT bệnh viện báo cáo về bộ phận tiếp nhận SCYK của bệnh viện (biểu đồ 1). Số lượng báo cáo được tăng nhanh trong các năm 2016, 2017 và 2018. Biểu đồ 1. Số lượng báo cáo sự cố y khoa theo năm 1. Đối tượng báo cáo, đơn vị báo cáo SCYK Điều dưỡng/hộ sinh/kỹ thuật viên là đối tượng tích cực báo cáo SCYK, chiếm tỷ lệ cao nhất 67,9 % tổng số SCYK được báo cáo. Khối lâm sàng là khối báo cáo SCYK nhiều nhất trong các năm, chiếm 76,4% tổng số báo cáo trong các năm. Đặc biệt số lượng báo cáo của khối hành chính cao hơn khối cận lâm sàng, 17,6% so với 12,4% năm 2018 (xem bảng 1). TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC TCNCYH 123 (7) - 2019174 Bảng 1. Phân bố người báo cáo và nơi báo cáo sự cố tại Bệnh viện Việt Nam –Thụy Điển Uông Bí từ 2013 - 2018 Nội dung báo cáo sự cố 2013 2014 2015 2016 2017 2018 Tổng số Số báo cáo (%) Số báo cáo (%) Số báo cáo (%) Số báo cáo (%) Số báo cáo (%) Số báo cáo (%) Số báo cáo (%) Tổng 1(100%) 2 (100%) 9 (100%) 193 (100%) 726 (100%) 1380 (100%) 2311 (100%) Người báo cáo sự cố Điều dưỡng/Hộ sinh/Kỹ thuật viên 1 (100%) 2 (100%) 8 (88,9%) 68 (35,2%) 396 (54,5%) 1905 (79,3%) 1570 (67,9%) Bác sỹ 0(0%) 0 (0%) 1 (11,1%) 32 (16,6%) 216 (19,8%) 147 (10,7%) 396 (17,1%) Kỹ sư/công nhân 0(0%) 0 (0%) 0 (0%) 0 (0%) 6 (0,8%) 22 (1,6%) 28 (1,2%) Dược sỹ 0(0%) 0 (0%) 0 (0%) 0 (0%) 2 (3%) 55 (4%) 57 (2,5%) Nhân viên khác 0(0%) 0 (0%) 0 (0%) 2 (1,0%) 20 (2,8%) 53 (3,8%) 75 (3,2%) Không ghi rõ 0(0%) 0 (0%) 0 (0%) 93 (42,8%) 91 (12,5%) 1 (0,1%) 185 (8,0%) Nơi báo cáo Không ghi đơn vị báo cáo 0 (0%) 0 (0%) 0 (0%) 0 (0%) 3 (0,4%) 0 (0%) 3 (0,1%) Khối Lâm sàng 1(100%) 2 (100%) 9 (100%) 184 (95,3%) 604 (83,2%) 966 (70%) 1766 (76,4%) Khối Cận lâm sàng 0(0%) 0 (0%) 0 (0%) 9 (4,7%) 34 (4,7%) 171 (12,4%) 214 (9,3%) Khối Hành chính 0(0%) 0 (0%) 0 (0%) 0 (0%) 85 (11,7%) 243 (17,6%) 328 (14,2%) 2. Hình thức, thời gian và mức độ đầy đủ thông tin của báo cáo Trong các năm 2013- 2016, 100% báo cáo bằng văn bản. Năm 2017, tỷ lệ này giảm còn lại là 22%. Năm 2018 thì duy nhất chỉ có một sự cố báo cáo báo bằng văn bản. Trong khi đó, tỷ lệ báo cáo bằng phần mềm tăng theo các năm, năm 2017 là 78%, năm 2018 là 93,5%. Đặc biệt, năm 2018 có 6,3% sự cố được báo cáo bằng thư điện tử (Bảng 2). TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC TCNCYH 123 (7) - 2019 175 Bảng 2. Mô tả hình thức, thời gian, mức độ thiếu thông tin, cách thực hiện báo cáo sự cố y khoa của NVYT Bệnh viện Việt Nam –Thụy Điển Uông Bí từ 2013 -2018 Nội dung báo cáo sự cố 2013 2014 2015 2016 2017 2018 Tổng số Số báo cáo (%) Số báo cáo (%) Số báo cáo (%) Số báo cáo (%) Số báo cáo (%) Số báo cáo (%) Số báo cáo (%) Tổng 1 (100%) 2 (100%) 9 (100%) 193 (100%) 726 (100%) 1380 (100%) 2311 (100%) Hình thức báo cáo Phần mềm báo cáo sự cố y khoa 0 (0%) 0 (0%) 0 (0%) 0 (0%) 566 78% 1290 (93,5%) 1856 (80,3%) Văn bản (Phiếu báo cáo) 1 (100%) 2 (100%) 9 (100%) 193 (100%) 160 (22%) 1 (0,01%) 366 (15,8%) Thư điện tử (Zalo, email, mes- senger...) 0 (0%) 0 (0%) 0 (0%) 0 (0%) 0 (0%) 88 (6,3%) 88 (3,8%) Điện thoại 0(0%) 0 (0%) 0 (0%) 0 (0%) 0 (0%) 1 (0,1%) 1 (0,01%) Thời gian báo cáo Đúng thời gian quy định (Trong 24 h) 0 (0%) 0 (0%) 3 (33,3%) 90 (46,6%) 590 (81,2%) 1164 (84,25%) 184 (79,8%) Sau 24h 1(100%) 2 (100%) 6 (66,7%) 100 (51,8%) 134 (18,5%) 218 (15,8%) 461 (20,0%) Không ghi ngày 0(0%) 0 (0%) 0 (0%) 3 (1,6%) 2 (0,3%) 0 (0%) 5 (0,2%) Thông tin trong báo cáo Thiếu 1 thông tin 1 (100%) 1 (50%) 1 (11,1%) 63 (32,7%) 636 (87,6%) 1345 (97,5%) 2047 (88,6%) Thiếu 2- 3 thông tin 0 (0%) 1 (50 %) 3 (33,3%) 129 (66,8%) 89 (12,3%) 33 (2,4%) 255 (11%) Thiếu 3 thông tin trở lên 0 (0%) 0 (0%) 5 (55,6%) 0 (0%) 1 (0,1%) 2 (0,1%) 1 (0,35%) Không thiếu thông tin nào 0 (0%) 0 (0%) 0 (0%) 1 (0,5%) 0 (0%) 0 (0%) 1 (0,05%) Phương thức báo cáo Báo cáo tự nguyện 1 (100%) 2 (100%) 7 (77,8%) 190 (98,4%) 724 (99,7%) 1378 (99,9%) 2302 (99,6%) Báo cáo bắt buộc 0(0%) 0 (0%) 2 (22,2%) 3 (1,6%) 2 (0,3%) 2 (0,1%) 9 (0,4%) Kết quả nghiên cứu cho thấy 79,8% báo cáo SCYK được báo cáo đúng thời gian quy định của TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC TCNCYH 123 (7) - 2019176 bệnh viện. Tỷ lệ báo cáo không đúng thời gian quy định (sau 24h) giảm dần qua các năm, 66,7% năm 2015 xuống còn 15,8% năm 2018. Hầu hết (88,6%) các báo cáo thiếu 01 thông tin. Tuy nhiên tỷ lệ báo cáo thiếu 2-3 thông tin giảm dần trong các năm gần đây, từ 66,8% năm 2016 xuống còn 2,4% năm 2018. 3. Phân loại báo cáo theo loại sự cố, mức độ tổn thương, vị trí và đối tượng bị sự cố Bảng 3. Phân loại báo cáo sự cố y khoa tại Bệnh viện Việt Nam –Thụy Điển Uông Bí theo loại sự cố, vị trí xảy ra và đối tượng bị sự cố từ 2013 -2018 Nội dung báo cáo sự cố 2013 2014 2015 2016 2017 2018 Tổng số Số báo cáo (%) Số báo cáo (%) Số báo cáo (%) Số báo cáo (%) Số báo cáo (%) Số báo cáo (%) Số báo cáo (%) Tổng 1(100%) 2 (100%) 9 (100%) 193 (100%) 726 (100%) 1380 (100%) 2311 (100%) Phân loại theo loại sự cố Tình huống có nguy cơ gây ra sự cố 0 (0%) 0 (0%) 0 (0%) 2 (1,0%) 5 (0,7%) 17 (1,2%) 24 (1,0%) Sự cố đã xảy ra 1(100%) 2 (100%) 9 (100%) 191 (99,0%) 721 (99,3%) 1363 (98,8%) 2287 (99,0%) Phân loại theo vị trí sự cố xảy ra Buồng bệnh 1(100%) 2 (100%) 7 (77,8%) 132 (68,4%) 519 (73,4%) 781 (56,6%) 1442 (62,4%) Hành lang 0(0%) 0 (0%) 0 (0%) 2 (1,0%) 18 (2,5%) 43 (3,1%) 63 (2,7%) Sân bệnh viện 0(0%) 0 (0%) 0 (0%) 1 (0,5%) 4 (0,6%) 30 (2,2%) 35 (1,5%) Nhà vệ sinh 0(0%) 0 (0%) 0 (0%) 7 (3,6%) 3 (0,4%) 15 (1,1%) 25 (1,1%) Khác (Phòng mổ, phòng phẫu thuật, thủ thuật...) 0 (0%) 0 (0%) 2 (22,2%) 51 (26,4%) 182 (25,1%) 511 (37,0%) 746 (32,3%) Phân loại đối tượng bị sự cố Người bệnh 1(100%) 2 (100%) 9 (100%) 180 (93,3%) 534 (73,6%) 839 (60,8%) 1565 (67,7%) Người nhà người bệnh, khách đến thăm 0 (0%) 0 (0%) 0 (0%) 7 (3,6%) 12 (1,7%) 42 (3,0%) 61 (2,6%) Nhân viên y tế 0(0%) 0 (0%) 0 (0%) 6 (3,1%) 29 (4,0%) 48 (3,5%) 83 (3,6%) Máy, trang thiết bị, cơ sở hạ tầng 0 (0%) 0 (0%) 0 (0%) 0 (0%) 151 (20,8%) 451 (32,7%) 602 (26,0%) Buồng bệnh là nơi có nhiều sự cố xảy ra nhất trong các năm, chiếm 62,4% tổng chung. Tiếp theo TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC TCNCYH 123 (7) - 2019 177 là sự cố xảy ra ở phòng cấp cứu, hồi sức, phòng phẫu thuật – thủ thuật, chiếm 32,3% số báo cáo tổng chung. Sự cố xảy ra với người bệnh chiếm tỷ lệ cao nhất (67,7%), sau đó là, số sự cố xảy ra liên quan đến máy móc, trang thiết bị, cơ sở hạ tầng bệnh viện, là 26%, sự cố liên quan đến nhân viên y tế là 3,6 % số báo cáo tổng chung. Bảng 4. Phân loại báo cáo SCYK của NVYT Bệnh viện Việt Nam –Thụy Điển Uông Bí theo mức độ tổn thương của người bệnh từ 2013 -2018 Nội dung báo cáo sự cố 2013 2014 2015 2016 2017 2018 Tổng số Số báo cáo (%) Số báo cáo (%) Số báo cáo (%) Số báo cáo (%) Số báo cáo (%) Số báo cáo (%) Số báo cáo (%) Tổng 1(100%) 2 (100%) 9 (100%) 193 (100%) 726 (100%) 1380 (100%) 2311 (100%) A. 0(0%) 0 (0%) 0 (0%) 2 (1,0%) 5 (0,7%) 17 (1,2%) 24 (1,0%) B. 0(0%) 0 (0%) 0 (0%) 7 (3,6%) 8 (1,1%) 9 (0,7%) 24 (1,0%) C. 0(0%) 0 (0%) 0 (0%) 17 (8,8%) 166 (22,9%) 578 (41,1%) 761 (32,9%) D. 0(0%) 2 (100%) 5 (55,6%) 69 (35,8%) 327 (45,0%) 389 (28,2%) 792 (34,3%) E. 1(100) 0 (0%) 2 (22,2%) 22 (11,4%) 133 (18,3%) 140 (10,1%) 298 (12,9%) F. 0(0%) 0 (0%) 0 (0%) 73 (37,8%) 71 (9,8%) 158 (11,4%) 302 (13,1%) H. 0(0%) 0 (0%) 1 (11,1%) 1 (0,5%) 0 (0%) 0 (0%) 2 (0,1%) I. 0(0%) 0 (0%) 1 (11,1%) 2 (1,0%) 2 (0,3%) 2 (0,1%) 7 (0,3%) K. 0(0%) 0 (0%) 0 (0%) 0 (0%) 14 (1,9%) 87 (6,3%) 101 (4,4%) Giải thích: A. Tình huống có nguy cơ gây ra sự cố; B. Sự cố đã xảy ra, chưa tác động trực tiếp đến người bệnh; C. Sự cố đã xảy ra tác động trực tiếp đến NB, chưa gây nguy hại; D. Sự cố đã xảy ra tác động trực tiếp đến NB, cần phải theo dõi hoặc đã can thiệp điều trị kịp thời nên không gây nguy hại; E. Sự cố đã xảy ra gây nguy hại tạm thời và cần phải can thiệp điều trị; F. Sự cố đã xảy ra, gây nguy hại tạm thời, cần phải can thiệp điều trị và kéo dài thời gian nằm viện; H. Sự cố đã xảy ra gây nguy hại cần phải hồi sức tích cực; I. Sự cố đã xảy ra có ảnh hưởng hoặc trực tiếp gây tử vong; K. Khác Tình huống “D” và “C” chiếm tỷ lệ cao nhất là 34,3% và 32,9%. Các tình huống “F” và “E” là 13,1% và 12,9%. Các tình huống khác như: “A” và “B” có tỷ lệ là 1,0%. Các tình huống sự cố gây tổn thương nặng cho người bệnh như “H” và “I” có tỷ lệ thấp (0,1% và 0,3%) và giảm dần theo năm. IV. BÀN LUẬN Kết quả đánh giá cho thấy số SCYK được báo cáo tăng dần, đặc biệt là từ năm 2016. Bên cạnh đó chất lượng báo cáo cũng nâng cao, số báo cáo thiếu 2-3 thông tin giảm đi. Điều này được lý giải một phần bởi sự kiện toàn hệ TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC TCNCYH 123 (7) - 2019178 thống báo cáo sự cố tại bệnh viện. Trong thời gian ban đầu (2013 – 2014) bệnh viện chỉ xây dựng các công văn hướng dẫn báo cáo, chưa có đào tạo, tập huấn, giám sát, chưa có các cơ chế hỗ trợ, khuyến khích báo cáo, cũng chưa có phương tiện, chỉ số báo cáo, đánh giá và đo lường. Từ năm 2016 bệnh viện kiện toàn Hệ thống quản lý, điều hành, tổ chức đào tạo cho NVYT về quản lý chất lượng và an toàn người bệnh. Năm 2017 bệnh viện triển khai phần mềm báo cáo SCYK trên điện thoại để NVYT giảm thời gian viết và gửi báo cáo, ban hành cơ chế khuyến khích NVYT tự nguyện báo cáo SCYK và tiếp tục đào tạo [5]. Năm 2018 các chương trình đào tạo nâng cao nhận thức cho NVYT được tổ chức bằng các hội thảo Quản lý chất lượng và An toàn người bệnh, tự nguyện chia sẻ phân tích SCYK trên giao ban bệnh viện thứ 6 hàng tuần. Tại các buổi giao ban, hội thảo nhiều NVYT của các khoa, phòng đã mạnh dạn nêu ra các sai sót, sự cố do mình gây ra, tại sao họ lại sai, làm thế nào để phòng tránh không mắc phải các sai lầm mà họ đã mắc để các NVYT trong bệnh viện cùng nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm trong báo cáo SCYK. Bên cạnh đó bệnh viện cũng xây dựng một môi trường an toàn để NVYT tự tin báo cáo như: Người báo cáo được tôn trọng, được an toàn. Hoạt động báo cáo SCYK trở thành một “văn hóa” để tất cả mọi NVYT cùng được rút kinh nghiệm từ các SCYK đã xảy ra với đồng nghiệp. Việc báo cáo SCYK được bệnh viện xác định là quan trọng, trách nhiệm, đạo đức của mỗi NVYT. Bệnh viện đã khen thưởng cho nhiều tập thể, cá nhân trong báo cáo SCYK. Báo cáo SCYK bằng phần mềm được NVYT sử dụng nhiều hơn trong những năm gần đây. Đặc biệt là năm 2018 hầu hết các SCYK được báo cáo bằng phần mềm và thư điện tử. Điều này có thể giải thích rằng NVYT thấy dùng các phương pháp hiện đại tiện lợi. Kết quả này phù hợp với của Yang Gong, trong đó tác giả cho thấy phương tiện báo cáo ảnh hưởng lên việc nhân viên báo cáo, lợi ích của báo cáo điện tử được chứng minh và người dùng thích báo cáo bằng phương tiện điện tử hơn là dùng báo cáo hệ thống [7]. Nghiên cứu cũng cho thấy chất lượng báo cáo tăng thêm, số các báo cáo thiếu 2 thông tin trở lên giảm đi trong các năm gần đây, việc này cho thấy ý thức trách nhiệm trong việc báo cáo sự cố của nhân viên tăng lên mặc dù đã có thời gian đầu để khuyến khích nhân viên “lên tiếng” và “bảo mật” thông tin cho người báo cáo bệnh viện cũng không yêu cầu người báo cáo phải ghi thông tin cá nhân như mẫu phiếu quy định. Điều dưỡng/Hộ sinh/Kỹ thuật viên có tỷ lệ báo cáo SCYK cao nhất. Điều dưỡng/hộ sinh/ kỹ thuật viên trưởng và đội trưởng đội chăm sóc được bệnh viện quan tâm đào tạo về quản lý sự cố và họ cũng là những người thường xuyên gần gũi với người bệnh, nên có báo sự cố cao hơn. Kết quả này của chúng tôi khác với kết quả một số nghiên cứu trước. Ví dụ, nghiên cứu của Phan Thị Hằng số sự cố được báo cáo bởi Bác sỹ và Điều dưỡng là tương đương nhau [6]. Hầu hết các SCYK xảy ra tại buồng bệnh và phòng cấp cứu, hồi sức, phòng phẫu thuật – thủ thuật vì đó cũng là các vị trí mà người bệnh nghỉ ngơi, sinh hoạt, thực hiện các kỹ thuật chuyên môn để chẩn đoán, điều trị. Kết quả nghiên cứu cho thấy Khối các khoa lâm sàng có số sự cố được báo cáo nhiều nhất (1766 sự cố chiếm 76,4%). 67,2% các sự cố được báo cáo là sự cố xảy ra chưa gây nguy hại cho sức khỏe người bệnh, 26% sự cố đã gây tổn thương tạm thời cần theo dõi, điều trị cho người bệnh. Chỉ có 9 sự cố gây tổn thương nặng cho người bệnh chiếm tỷ lệ nhỏ (0,4%) và tỷ lệ này giảm dần qua các năm. Điều này thể hiện là có thể các sự cố được báo cáo được TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC TCNCYH 123 (7) - 2019 179 rút kinh nghiệm nên giảm được tổn thất nghiêm trọng xảy ra. Tuy nhiên hạn chế của nghiên cứu này là sử dụng phương pháp mô tả cắt ngang. Các sự cố là do nhân viên tự nguyện báo cáo. Do vậy, nghiên cứu không có các thông tin về “sự cố” không được báo cáo nên không đưa ra kết luận về nguyên nhân. V. KẾT LUẬN Đây là nghiên cứu công bố số lượng SCYK được báo cáo tại một bệnh viện Hạng I. Số lượng báo cáo SCYK của bệnh viện trong 6 năm nghiên cứu là 2311, số lượng báo cáo tăng nhanh từ 1-2 sự cố/năm (2013-2014) lên 1380 sự cố năm 2018. Sự cố được báo cáo bởi Điều dưỡng/hộ sinh/kỹ thuật viên chiếm tỷ lệ cao nhất (67,9%), phần lớn (76,4%) được báo cáo bởi các đơn vị của khối lâm sàng. Tỷ lệ báo cáo tự nguyện là 99,6%, báo cáo đã xảy ra chiếm 99%, báo cáo đúng thời gian quy định 79,8% và phần lớn (80,3%) SCYK được báo cáo bằng phần mềm báo cáo SCYK. Hầu hết (88,6%) các báo cáo thiếu 1 thông tin, phần lớn sự cố xảy ra với người bệnh (67,7%) và tại buồng bệnh (62,4%). Các tình huống gây tổn thương nhẹ cho người bệnh được báo cáo nhiều nhất (67,2%).Thông tin nghiên cứu phản ánh kết quả thực hiện hệ thống báo cáo sự cố của bệnh viện với những thay đổi chính sách trong 6 năm. Kết quả nghiên cứu cho thấy tầm quan trọng của công tác đào tạo nâng cao nhận thức về báo cáo sự cố cho nhân viên y tế. Bên cạnh đó việc trang bị phương tiện, thiết bị báo cáo, tạo dựng môi trường, xây dựng cơ chế khuyến khích cho NVYT tự nguyện báo cáo SCYK là cần thiết. LỜI CẢM ƠN Tôi xin chân thành cảm ơn các đồng nghiệp của Bệnh viện Việt Nam – Thụy Điển Uông Bí, Quảng Ninh, các giảng viên trường Đại học Y tế Công cộng Hà Nội đã hỗ trợ, giúp đỡ chúng tôi hoàn thành nghiên cứu này một cách tốt nhất. Chúng tôi cam kết không xung đột lợi ích từ kết quả nghiên cứu, cam đoan và chịu trách nhiệm về tính trung thực và chính xác của nghiên cứu. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. PGS.TS Lương Ngọc Khuê, Ths Phạm Đức Mục (2015). Tài liệu đào tạo liên tục An toàn người bệnh. Nhà xuất bản y học, Hà Nội. 2. Nancy C. Elder, MD, MSPH, Deborah Graham, MSPH, Elias Brandt, et al (2006). Barriers and Motivators for Making Error Reports from Family Medicine Offices: A Report from the American Academy of Family Physicians National. Research Network (AAFP NRN). 3. Hui-Ying Chiang, Ginette A. Pepper (2006). Barriers to Nurses’ Reporting of Medication Administration Errors in Taiwan. Journal of Nursing Scholarship, 38:4, 392-399. 4. Bộ Y tế (2013). Thông tư số 19/2013/TT/ BYT ngày 12 tháng 7 năm 2013 về việc Hướng dẫn thực hiện quản lý chất lượng dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh trong các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh. Cục Quản lý khám bệnh, chữa bệnh chủ biên 5. Bệnh viện Việt Nam- Thụy Điển Uông Bí, Quảng Ninh (2017). Quy định mức giảm thu nhập tăng thêm cho cá nhân có vi phạm quy định khi hành nghề. Quy chế chi tiêu nội bộ năm 2017. 6. Phan Thị Hằng (2018). Đánh giá thực trạng báo cáo SCYK tại bệnh viện Hùng Vương – Thành phố Hồ Chí Minh. Tài liệu diễn đàn Quản lý chất lượng – Cục Quản lý khám chữa bệnh lần thứ 4, 30 - 37. 7. Yang Gong, Hsing-Yi Song, Xinshuo Wu and Lei Hua (2015). Identifying barriers and benefits of patient safety event reporting toward user-centered design. Safety in health, 1:7. 8. Bộ Y tế (2016). Quyết định số 6858/QĐ- TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC TCNCYH 123 (7) - 2019180 Summary INITIAL RESULTS OF IMPLEMENTING INCIDENT MANAGEMENT SYSTEM AT VIETNAM SWEDEN UONGBI GENERAL HOSPITAL FROM 2013 TO 2018 This study describes the distribution of medical errors reported by medical staffs at Vietnam – Sweden Uong Bi General Hospital via the Medical Error Reporting System during the period of 2013-2018. In 6 years, 2311 medical errors were reported. The number of reports increased from 1 in 2013 to 1380 in 2018. The proportion of voluntary report and the proportion of occurred error was 99.6% and 99%, respectively. The proportion of errors reported by nurses were the highest (67.9%). The proportion of error reported by software was 80.3%. The proportion of error reported within 24 hours increased from 33.3% in 2015 to 84.25% in 2018. The report of medical incidents causing minor consequense were the highest, accounted for 67.2%. We hypothesized that support measure, system and reporting software improvement, incentive policies development, and creation of a safe environment for information sharing appear to motivate medical staff to report medical error voluntary. Key words: Medical incidents report, Vietnam - Sweden Uong Bi hospital, medical error report system. BYT ngày 18/11/2016 về việc ban hành Bộ tiêu chí chất lượng bệnh viện Việt Nam phiên bản 2.0. Cục Quản lý khám bệnh, chữa bệnh chủ biên. 9. Bộ Y tế (2018). Thông tư số 43/TT/BYT ngày 26 tháng 12 năm 2018 về Phòng ngừa SCYK trong các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh. Cục Quản lý khám bệnh, chữa bệnh chủ biên. 10. Bệnh viện Việt Nam - Thụy Điển Uông Bí, Quảng Ninh (2016 - 2018). Báo cáo tổng hợp SCYK 2016, 2017 và 2018.
File đính kèm:
ket_qua_buoc_dau_trien_khai_he_thong_bao_cao_su_co_y_khoa_ta.pdf

