Kết quả bước đầu sử dụng vạt giãn tổ chức điều trị nơ vi hắc tố bẩm sinh khổng lồ

Nơ vi hắc tố bẩm sinh khổng lồ (NHBK) là một loạn sản có giới hạn, có nguồn gốc phôi thai. Về điều trị,

có nhiều phương pháp phẫu thuật được áp dụng. Nghiên cứu này nhằm đánh giá kết quả bước đầu phẫu

thuật tạo hình bằng vạt giãn tổ chức điều trị nơ vi hắc tố bẩm sinh khổng lồ. Có 3 bệnh nhân nơ vi hắc tố

bẩm sinh khổng lồ được phẫu thuật tạo hình bằng 4 vạt giãn tổ chức từ tháng 10/2014 đến tháng 8/2020 tại

Bệnh viện Da liễu Trung ương. Kết quả ngay sau phẫu thuật, có 2/4 vạt đủ diện tích che phủ, 2/4 vạt thiếu

hụt 10% diện tích, cần phẫu thuật bổ sung. Có 3/4 vạt có chất lượng tương đồng, 1/4 vạt gần tương đồng,

4/4 vạt sống tốt, liền sẹo kỳ đầu. Có 2/4 trường hợp có tai biến nhẹ. Kết quả khi khám lại, có 3/3 bệnh nhân

đạt được mục tiêu đề ra và hài lòng với kết quả phẫu thuật, chưa ghi nhận tái phát. Có 2/3 bệnh nhân có

sẹo thanh mảnh và mềm mại, 1/3 bệnh nhân có sẹo giãn, 3/3 bệnh nhân không có co kéo hay biến dạng

tổ chức. Phẫu thuật tạo hình bằng vạt giãn tổ chức phù hợp để điều trị nơ vi hắc tố bẩm sinh khổng lồ.

pdf 9 trang phuongnguyen 240
Bạn đang xem tài liệu "Kết quả bước đầu sử dụng vạt giãn tổ chức điều trị nơ vi hắc tố bẩm sinh khổng lồ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Kết quả bước đầu sử dụng vạt giãn tổ chức điều trị nơ vi hắc tố bẩm sinh khổng lồ

Kết quả bước đầu sử dụng vạt giãn tổ chức điều trị nơ vi hắc tố bẩm sinh khổng lồ
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 132 (8) - 2020 103
KẾT QUẢ BƯỚC ĐẦU SỬ DỤNG VẠT GIÃN TỔ CHỨC
ĐIỀU TRỊ NƠ VI HẮC TỐ BẨM SINH KHỔNG LỒ 
Nguyễn Hồng Sơn¹, , Nguyễn Bắc Hùng², Trần Thiết Sơn²
1Bệnh viện Da liễu Trung ương
2Trường Đại học Y Hà Nội
Nơ vi hắc tố bẩm sinh khổng lồ (NHBK) là một loạn sản có giới hạn, có nguồn gốc phôi thai. Về điều trị, 
có nhiều phương pháp phẫu thuật được áp dụng. Nghiên cứu này nhằm đánh giá kết quả bước đầu phẫu 
thuật tạo hình bằng vạt giãn tổ chức điều trị nơ vi hắc tố bẩm sinh khổng lồ. Có 3 bệnh nhân nơ vi hắc tố 
bẩm sinh khổng lồ được phẫu thuật tạo hình bằng 4 vạt giãn tổ chức từ tháng 10/2014 đến tháng 8/2020 tại 
Bệnh viện Da liễu Trung ương. Kết quả ngay sau phẫu thuật, có 2/4 vạt đủ diện tích che phủ, 2/4 vạt thiếu 
hụt 10% diện tích, cần phẫu thuật bổ sung. Có 3/4 vạt có chất lượng tương đồng, 1/4 vạt gần tương đồng, 
4/4 vạt sống tốt, liền sẹo kỳ đầu. Có 2/4 trường hợp có tai biến nhẹ. Kết quả khi khám lại, có 3/3 bệnh nhân 
đạt được mục tiêu đề ra và hài lòng với kết quả phẫu thuật, chưa ghi nhận tái phát. Có 2/3 bệnh nhân có 
sẹo thanh mảnh và mềm mại, 1/3 bệnh nhân có sẹo giãn, 3/3 bệnh nhân không có co kéo hay biến dạng 
tổ chức. Phẫu thuật tạo hình bằng vạt giãn tổ chức phù hợp để điều trị nơ vi hắc tố bẩm sinh khổng lồ. 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Từ khóa: Nơ vi hắc tố bẩm sinh khổng lồ, vạt giãn tổ chức
Nơ vi hắc tố bẩm sinh khổng lồ - NHBK 
(giant congenital melanocytic nevus -GCMN) là 
một loạn sản có giới hạn, có nguồn gốc phôi 
thai. Bệnh hiếm gặp nhưng có nguy cơ ung thư 
hắc tố rất cao, ít nhất là 6,3%. Bên cạnh đó, 
chúng có hình ảnh rất tương phản, đặc biệt là 
khi xuất hiện ở vùng hở như mặt, cổ, tay làm 
mất thẩm mỹ, khiến trẻ bị mặc cảm, tự ti, hạn 
chế giao tiếp xã hội, ảnh hưởng nặng nề tới tâm 
sinh lý.1–3
Chúng có kích thước, diện tích rất lớn, 
chiếm toàn bộ một hay nhiều đơn vị giải phẫu 
(ĐVGP), có trường hợp chiếm đến hơn 80% 
diện tích toàn cơ thể, nên việc điều trị gặp rất 
nhiều khó khăn. Điều trị nơ vi hắc tố bẩm sinh 
khổng lồ nhằm mục đích phòng ngừa ung thư 
và lý do thẩm mỹ là chính. Phương pháp chính 
vẫn là phẫu thuật và phụ thuộc chủ yếu vào vị 
trí, kích thước, xu hướng ác tính của nơ vi.4,5
Có nhiều phương pháp phẫu thuật, thủ thuật 
để điều trị NHBK nhưng phải đảm bảo loại bỏ 
thương tổn triệt để và tạo hình che phủ khuyết 
da sau cắt bỏ nơ vi như phẫu thuật cắt dần, vạt 
giãn tổ chức, ghép da tự do... Việc lựa chọn 
phương pháp điều trị phụ thuộc vào nhiều yếu 
tố như chi phí điều trị, thời gian nằm viện, sự 
hợp tác của người bệnh, vật liệu túi giãn sẵn 
có, tâm lý của người bệnh.6,7
Vạt giãn tổ chức, do chủ động đặt túi giãn, 
có thể tạo được một khối lượng tổ chức đủ lớn 
với chất lượng tốt, tương đồng, rất phù hợp cho 
da đầu mang tóc nhưng kỹ thuật phức tạp, chi 
phí cao, thời gian kéo dài, nhiều tai biến. Phẫu 
thuật cắt dần là phương pháp lợi dụng sự giãn 
Tác giả liên hệ: Nguyễn Hồng Sơn, 
Bệnh viện Da liễu Trung ương
Email: [email protected]
Ngày nhận: 13/09/2020
Ngày được chấp nhận: 20/10/2020
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 132 (8) - 2020104
da tự nhiên với ưu điểm là nhanh, chi phí thấp, 
có tính thẩm mỹ cao, không gây thêm thương 
tổn cho vùng da khác nhưng không thể tiến 
hành cho những nơ vi đã thoái triển.6,7
Kỹ thuật giãn da là một trong những phương 
pháp tạo hình hiện đại được chỉ định cho tất cả 
các trường hợp cần thay thế tổ chức che phủ 
trên cơ thể nói chung và NHBK nói riêng. Để có 
thể đạt được kết quả cao, cần phải thực hiện 
đầy đủ các bước của quy trình kỹ thuật, mỗi 
bước đều có ảnh hưởng lớn tới kết quả cuối 
cùng.
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu này với mục 
tiêu đánh giá kết quả bước đầu phẫu thuật tạo 
hình bằng vạt giãn tổ chức điều trị NHBK tại 
Bệnh viện Da liễu Trung ương.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
Nghiên cứu được tiến hành trên 03 bệnh 
nhân NHBK được phẫu thuật tạo hình bằng vạt 
giãn tổ chức tại khoa Phẫu thuật Tạo hình thẩm 
mỹ và Phục hồi chức năng, Bệnh viện Da liễu 
Trung ương từ tháng 10 năm 2014 đến tháng 
08 năm 2020.
Tiêu chuẩn chẩn đoán: Bệnh nhân được 
chẩn đoán là NHBK khi thương tổn xuất hiện 
trước 2 tuổi; có đường kính lớn nhất là trên 20 
cm đối với người lớn, hoặc trên 6 cm ở thân 
mình, trên 9 cm ở đầu đối với trẻ nhỏ; hoặc là 
nơ vi chiếm toàn bộ một ĐVGP; hoặc là nơ vi có 
diện tích trên 1% ở mặt hay bàn tay, trên 2% ở 
đầu hay cổ, trên 5% ở thân, chi thể.
Tiêu chuẩn lựa chọn: Bệnh nhân NHBK 
đồng ý tham gia nghiên cứu. Bệnh nhân phải 
hợp tác tốt. Bệnh nhân không mắc các bệnh 
toàn thân cấp tính, mạn tính nặng, nhiễm trùng, 
rối loạn đông máu. Thương tổn hoàn toàn lành 
tính, không nhiễm trùng. Thương tổn được dự 
kiến cắt bỏ cần trên 3 lần phẫu thuật cắt dần.
Tiêu chuẩn loại trừ: Bệnh nhân nhiễm HIV, 
không đồng ý tham gia nghiên cứu.
2. Phương pháp
Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu can thiệp 
tiến cứu.
Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 10 năm 
2014 đến tháng 08 năm 2020
Địa điểm nghiên cứu: Nghiên cứu được tiến 
hành tại Khoa Phẫu thuật Tạo hình thẩm mỹ và 
Phục hồi chức năng, Bệnh viện Da liễu Trung 
ương.
Các chỉ số nghiên cứu:
Đặc điểm chung của các bệnh nhân: tuổi, 
giới, thể bệnh, dị tật khác, yếu tố gia đình, lý do 
phẫu thuật...
Đặc điểm tổn thương của NHBK: mô bệnh 
học, tiến triển của bệnh, vị trí, đơn vị giải phẫu, 
kích thước, diện tích thương tổn...
Da lành xung quanh: diện tích, kích thước...
Kết quả ngay sau phẫu thuật được đánh giá 
dựa trên tổ chức được tạo ra về khối lượng, 
chất lượng, sức sống, tai biến, sự liền sẹo.
Kết quả khi khám lại được đánh giá theo 
mục tiêu đạt được, sự tái phát của bệnh, chất 
lượng sẹo, chất lượng tổ chức và sự hài lòng 
của bệnh nhân với phẫu thuật.
Sự hài lòng với phẫu thuật do bệnh nhân tự 
đánh giá theo 3 mức độ.
Quy trình thực hiện: 
- Khám lâm sàng, xét nghiệm, tư vấn trước 
điều trị, xác định mục tiêu điều trị.
- Lựa chọn bệnh nhân.
- Lập kế hoạch điều trị.
- Tiến hành điều trị gồm 3 giai đoạn. Giai 
đoạn đặt túi giãn bao gồm vô cảm, bóc khoang, 
đặt hệ thống giãn. Giai đoạn bơm giãn có thể 
bơm giãn theo lịch trình hoặc liên tục. Giai đoạn 
tạo hình vạt giãn bao gồm lấy bỏ túi giãn, tạo 
vạt tổ chức. Trong đó, kỹ thuật tạo vạt tổ chức: 
vạt giãn tổ chức thu được, được sử dụng dưới 
3 hình thức: Vạt tại chỗ như vạt trượt, vạt xoay, 
vạt chuyển...; mảnh ghép da dầy tự do; vạt da 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 132 (8) - 2020 105
hình trụ Filatov.
- Theo dõi, đánh giá sau khi điều trị.
Theo dõi đánh giá kết quả sau phẫu thuật:
Kết quả ngay sau phẫu thuật: Đánh giá vào 
ngày thứ 1, thứ 3, thứ 7-10.
- Tốt: Lượng da được tạo ra đủ để che phủ; 
chất lượng da tương đồng; vạt có sức sống 
tốt; không tụ máu hay nhiễm khuẩn; liền sẹo 
kỳ đầu.
- Trung bình: Tạo đủ da nhưng không phủ 
được hết; chất lượng da gần tương đồng; vạt 
bị thiểu dưỡng; tụ máu hay nhiễm khuẩn nhẹ, 
tại chỗ; toác vết phẫu thuật.
- Kém: Lượng da được tạo ra đủ để che 
phủ; chất lượng da không tương đồng; vạt hoại 
tử, tụ máu nhiều hay nhiễm khuẩn nặng; không 
liền sẹo kỳ đầu.
Kết quả khi khám lại: Đánh giá sau 3 tháng, 
6 tháng, 12 tháng.
- Tốt: Đạt được mục tiêu; bệnh nhân hài 
lòng; bệnh không tái phát; sẹo mảnh và mờ; 
sẹo không co kéo.
- Trung bình: Cần phẫu thuật bổ sung; bệnh 
nhân tạm chấp nhận; tái phát tại bờ viền; sẹo 
giãn hoặc quá phát; sẹo lồi hoặc co kéo.
- Kém: Không đạt được mục tiêu; bệnh nhân 
không hài lòng; bệnh tái phát; sẹo lồi; sẹo co 
kéo gây biến dạng tổ chức.
3. Xử lý số liệu
Sử dụng phần mềm SPSS 16.0. Các biến 
số được thể hiện dưới dạng giá trị lớn nhất, 
nhỏ nhất, tỉ lệ phần trăm. Do cỡ mẫu nhỏ (3 
bệnh nhân) nên không sử dụng các test so 
sánh thống kê.
4. Đạo đức nghiên cứu
Nghiên cứu viên đảm bảo tuyên ngôn 
Helsinki về đạo đức trong nghiên cứu. Nghiên 
cứu được thông qua bởi Hội đồng Đạo đức 
Bệnh viện Da liễu Trung ương theo quyết định 
số 243/HĐĐĐ-BVDLTW ngày 28/11/2014.
III. KẾT QUẢ
1. Đặc điểm tổn thương
Đặc điểm chung của các bệnh nhân
Trong nhóm nghiên cứu có 3 bệnh nhân, 
một bệnh nhân nữ 6 tuổi, một bệnh nhân nữ 
20 tuổi và 1 bệnh nhân nam 10 tuổi. Không có 
bệnh nhân nào mắc các dị tật khác, gia đình 
không có ai mắc bệnh tương tự. Cả 3 bệnh 
nhân đều là NHBK thể trung bì, nhuộm hóa mô 
miễn dịch có HMB45 dương tính. Các bệnh 
nhân đều đến khám bệnh và được phẫu thuật 
vì lý do thẩm mỹ.
Đặc điểm thương tổn
Ở cả 3 bệnh nhân, các tế bào còn lành tính, 
không có tế bào lạ, cấu trúc mô không bị phá 
vỡ hay đảo lộn. Các thương tổn xuất hiện ở 
vùng hở: 1 bệnh nhân có thương tổn ở mặt và 
đầu, 1 bệnh nhân có thương tổn ở đầu, 1 bệnh 
nhân có thương tổn ở cẳng tay. Không có bệnh 
nhân nào xuất hiện thương tổn ở vùng kín. Có 
2/3 bệnh nhân có thương tổn liên quan đến 
3 ĐVGP, có 1 bệnh nhân có thương tổn liên 
quan đến 1 ĐVGP. Không có bệnh nhân nào có 
thương tổn chiếm hết 1 ĐVGP mà ở cả 3 bệnh 
nhân thương tổn chỉ chiếm một phần ĐVGP.
Có 2/3 bệnh nhân có kích thước thương tổn 
> 20 cm, 1/3 bệnh nhân kích thước thương tổn 
< 20 cm. Đường kính dài lớn nhất là 30 cm, 
đường kính dài ngắn nhất là 16 cm. Cả 3 bệnh 
nhân đều có diện tích thương tổn > 180 cm². 
Diện tích lớn nhất là 500 cm², diện tích nhỏ nhất 
là 180 cm² (> 2% diện tích cơ thể).
Đặc điểm da xung quanh thương tổn
Phân bố thương tổn liên quan đến ĐVGP 
được thể hiện ở bảng 1. Không có bệnh nhân 
nào có thương tổn chiếm trọn 1 ĐVGP. Cả 3/3 
bệnh nhân thương tổn chiếm 1 phần của 1 đến 
4 ĐVGP. Có 2/3 bệnh nhân, trong cùng ĐVGP, 
diện tích da lành nhỏ hơn diện tích thương tổn 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 132 (8) - 2020106
và cả 3/3 bệnh nhân có da lành hoàn toàn tại ĐVGP kế cận. Có 1/3 bệnh nhân có thương tổn nằm 
ở xa các cơ quan dễ bị co kéo, nhưng 2/3 bệnh nhân có thương tổn liên quan đến cơ quan dễ bị co 
kéo là mắt và tai.
Bảng 1. Phân bố thương tổn liên quan đến ĐVGP
Đơn vị giải phẫu 1 đơn vị 2 - 3 đơn vị > 3 đơn vị
Số lượng 1 1 1
Tỷ lệ 33,3% 33,3% 33,3%
2. Kết quả ngay sau phẫu thuật 
Bảng 2. Kết quả ngay sau phẫu thuật tạo hình bằng vạt giãn tổ chức
Đặc điểm Kết quả Số lượng %
Diện tích da được tạo ra
Đủ da, che phủ toàn bộ 2 50
Đủ da, không che phủ được hết 0 0
Không đủ che phủ 2 50
Chất lượng da che phủ
Tương đồng 3 75
Gần tương đồng 1 25
Không tương đồng 0 0
Sức sống 
của vạt
Vạt sống tốt 4 100
Thiểu dưỡng 0 0
Hoại tử 0 0
Tai biến: Tụ máu, nhiễm khuẩn, rò rỉ túi
Không có 2 50
Nhẹ, tại chỗ 2 50
Nặng, toàn thân 0 0
Sự liền 
sẹo
Liền sẹo kỳ đầu 4 100
Toác vết phẫu thuật 0 0
Không liền sẹo 0 0
Có 50% đủ da che phủ toàn bộ, 75% có chất lượng da tương đồng, 100% vạt có sức sống tốt, tai 
biến nhẹ gặp ở 50%, 100% liền sẹo kỳ đầu.
3. Kết quả khi khám lại
Bảng 3. Kết quả khi khám lại phẫu thuật tạo hình bằng vạt giãn tổ chức
Đặc điểm Kết quả Số lượng %
Đạt được mục tiêu
Đạt được mục tiêu 1 33
Đạt nhưng cần phẫu thuật bổ sung 2 67
Không đạt mục tiêu 0 0
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 132 (8) - 2020 107
Đặc điểm Kết quả Số lượng %
Bệnh nhân hài lòng
Hài lòng 3 100
Chấp nhận được 0 0
Không hài lòng 0 0
Bệnh lý tái phát
Không tái phát 3 100
Tái phát vùng viền 0 0
Bệnh tái phát 0 0
Sẹo sau phẫu thuật
Sẹo mảnh, mờ 2 67
Sẹo giãn/quá phát 1 33
Sẹo lồi 0 0
Cơ quan xung quanh
Không co kéo 3 100
Co kéo nhẹ 0 0
Biến dạng 0 0
Có 33% đạt được mục tiêu, 67% đạt mục 
tiêu nhưng cần phẫu thuật bổ sung, 100% 
không co kéo, 100% bệnh nhân hài lòng với kết 
quả phẫu thuật.
IV. BÀN LUẬN
Hiện vẫn chưa có sự thống nhất về tiêu 
chuẩn NHBK. Rhodes (1981); Arons & Hurwitz 
(1983); Kaplan (1974) cho rằng NHBK là 
thương tổn không thể được loại bỏ hoàn toàn 
và đóng da thì đầu trong một lần phẫu thuật. 
Kopf (1979) và Zitelli (1984) phân loại: NHBK 
phải thỏa mãn 1 trong các điều kiện như đường 
kính lớn > 20 cm, diện tích > 120 cm², chiếm 
hết 1 ĐVGP, diện tích > 120 cm² hoặc > 1 % ở 
mặt hay bàn tay, > 2 % ở đầu hay thân mình. 
Kadonaga & Frieden (1991) phân loại nơ vi 
ở trẻ em là khổng lồ khi chúng đạt 20 cm khi 
trưởng thành. Tương ứng là trên 6 cm ở thân 
mình, trên 9 cm ở đầu.⁵
Theo Robert A Schwartz thì NHBK không có 
sự khác biệt về giới tính.⁸ Bệnh nhân NHBK của 
chúng tôi có 2 nữ và 1 nam. Về tuổi, các bệnh 
nhân trong độ tuổi từ 6 tới 20, đây là lứa tuổi 
học sinh, sinh viên, nếu thời gian phẫu thuật 
kéo dài, người bệnh sẽ có xu hướng lựa chọn 
phẫu thuật cắt dần hơn là vạt giãn tổ chức. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, các bệnh nhân 
đều được làm mô bệnh học để đảm bảo không 
có tế bào lạ hay ác tính. Hầu hết bệnh nhân của 
chúng tôi chỉ quan tâm tới thẩm mỹ mà chưa 
chú trọng tới nguy cơ ác tính, mặc dù đã được 
giải thích và tư vấn kỹ lưỡng. 
Vạt giãn tổ chức được tạo ra nếu nằm trên 
cùng 1 ĐVGP hoặc ĐVGP liền kề với thương 
tổn sẽ thu được chất lượng da tương đồng hơn 
so với việc vạt giãn tổ chức tại các vị trí khác. 
Phẫu thuật tạo hình bằng vạt giãn tổ chức với 
hình thức sử dụng là vạt tại chỗ cũng sẽ thuận 
lợi hơn so với hình thức sử dụng vạt từ xa có 
cuống hoặc vạt tự do nối vi phẫu hoặc đơn giản 
chỉ cung cấp da để ghép da tự do. Như vậy, 
kết quả của phẫu thuật tạo hình bằng vạt giãn 
tổ chức không chỉ phụ thuộc vào kích thước 
thương tổn mà còn phụ thuộc vào vị trí, hình 
dạng thương tổn. 
Trong số các bệnh nhân của chúng tôi, có 
1 bệnh nhân có thương tổn nằm ở vùng thái 
dương, đỉnh, chẩm là vùng mang tóc nên che 
phủ vùng này cần vạt da có tóc. Một bệnh nhân 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 132 (8) - 2020108
nữ khác có thương tổn ở cẳng tay. Đây là vùng 
da mỏng, mềm mại, độ đàn hồi cao, yêu cầu da 
che phủ cần có những đặc tính tương ứng. Một 
bệnh nhân khác có thương tổn một phần vùng 
đỉnh, thái dương, khoảng 60% vùng trán, toàn 
bộ vùng mắt và một phần vùng má. Mỗi vùng 
da có những đặc tính riêng, liên quan đến mắt 
dễ bị co kéo nên khó có thể có chung một giải 
pháp.
Vạt giãn tổ chức có thể tạo được một khối 
lượng tổ chức đủ để che phủ cho một khuyết 
tổ chức lớn với chất lượng tổ chức tốt, tương 
đồng. Kỹ thuật phức tạp, chi phí cao, thời gian 
kéo dài, nhiều tai biến, khả năng giãn của da 
có hạn là hạn chế chính của phương pháp này. 
Arneja đề nghị sử dụng vạt giãn tổ chức cho 
những NHBK mà không thể phẫu thuật cắt dần 
sau 4 lần.⁴ Theo Bhatnagar, vạt giãn tổ chức an 
toàn với trẻ trên 3 tháng tuổi, có thể áp dụng 
nhiều lần, và cho một kết quả thẩm mỹ tốt.⁶ Vạt 
giãn tổ chức được xem như một phương pháp 
chính, độc lập dùng để điều trị NHBK.4,6
Chỉ định vạt giãn tổ chức phụ thuộc vào 
nhiều yếu tố khác nhau, đặc biệt là thời gian 
nằm viện. Bệnh nhân của chúng tôi đều trong 
độ tuổi học sinh, sinh viên đa phần thời gian 
nghỉ hè rất ngắn, khoảng 4 đến 6 tuần, người 
thân người bệnh cũng không được nghỉ dài 
ngày nên cuối cùng thì chỉ có ít bệnh nhân lựa 
chọn phương pháp phẫu thuật tạo hình bằng 
vạt giãn tổ chức. Cả 3 bệnh nhân của chúng tôi 
lựa chọn phẫu thuật tạo hình bằng vạt giãn tổ 
chức đều là các trường hợp rất khó có thể thực 
hiện phẫu thuật cắt dần, buộc phải lựa chọn tạo 
hình bằng vạt giãn tổ chức.
Để có được một cuộc phẫu thuật thuận lợi, 
cần chuẩn bị kỹ lưỡng trước phẫu thuật. Ước 
lượng được diện tích da có thể thu được sau 
khi tháo bỏ túi giãn, sử dụng phần da vừa tạo ra 
để tạo hình, lựa chọn phương pháp tạo hình để 
có thể tận dụng và phát huy tối đa sự che phủ 
của vạt giãn tổ chức, cắt bỏ thương tổn theo sự 
che phủ của vạt giãn tổ chức vừa tạo ra hoặc 
cắt bỏ toàn bộ thương tổn, nếu thiếu da sẽ để 
lành sẹo tự nhiên hoặc sử dụng các phẫu thuật 
bổ sung.
Về thiết kế đặt túi giãn, chúng tôi không có 
nhiều lựa chọn về thể tích cũng như hình dạng 
của túi giãn. Điều này làm ảnh hưởng tới lượng 
tổ chức giãn thu được. Để khắc phục điều này, 
chúng tôi sẽ bơm giãn một lượng dịch nhiều 
hơn so với thể tích của túi giãn, thậm chí là gấp 
2 - 3 lần thể tích thực của túi. Việc bóc tách 
khoang túi đủ rộng cũng góp phần cho đặt túi 
thuận lợi, tránh gập góc túi. 
Trong quá trình bơm túi giãn, bơm bằng máy 
sẽ cho phép bơm được một lượng dịch nhiều 
hơn bằng tay, rút ngắn thời gian nằm viện của 
người bệnh. Bơm hàng ngày, mặc dù số lượng 
dịch bơm được cho mỗi lần ít nhưng tổng lượng 
dịch bơm giãn trong 1 tuần sẽ nhiều hơn so với 
bơm giãn theo lịch tuần 2 đến 3 lần. Tốc độ 
bơm giãn cũng ảnh hưởng đến số lượng dịch 
bơm giãn. Chúng tôi thường bơm giãn với tốc 
độ chậm, khoảng 5% thể tích trong 2 tiếng.
Trong thì tạo hình, việc bơm giãn bổ sung 
thêm khoảng 10 đến 20% thể tích túi trước tạo 
hình giúp cho vạt giãn tổ chức ổn định hơn, ít 
bị co lại sau khi lấy bỏ túi giãn. Việc cắt bỏ bao 
xơ không làm tăng đáng kể tính chun giãn của 
vạt da, hơn nữa nó làm tăng nguy cơ chảy máu, 
thiểu dưỡng vạt. Vạt giãn tổ chức có hệ thống 
mạch máu tăng sinh rất mạnh, nên chúng tôi có 
thể mạnh dạn áp dụng các kỹ thuật vạt trong 
vạt, tận dụng tối đa lượng da thu được khi tạo 
hình che phủ. 
Chúng tôi có 3 bệnh nhân, thực hiện 4 lần 
giãn da, trong đó có 1 bệnh nhân tái giãn da 
lần thứ 2. Lượng da, tổ chức thu được có diện 
tích đúng theo dự kiến ban đầu là 2 vạt, chiếm 
tỉ lệ 50%. Trong 2 vạt còn lại, lượng tổ chức 
thu được ít hơn dự kiến 10% do tai biến gặp 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 132 (8) - 2020 109
phải trong quá trình bơm giãn tổ chức buộc 
phải dừng bơm giãn: thiểu dưỡng vạt, rò rỉ túi 
giãn. Cả hai trường hợp trên, chúng tôi phải 
tiến hành phẫu thuật bổ sung. 
Về chất lượng da thu được, có 3/4 vạt giãn 
tổ chức (chiếm tỉ lệ 75%) có chất lượng da, tổ 
chức tương đồng về cả độ dầy lẫn bề mặt như 
mầu sắc, có nang tóc, mềm mại... với vị trí xung 
quanh tổn thương do túi giãn được đặt tại vị trí 
kế cận thương tổn, 1/4 vạt có chất lượng khá 
tương đồng với nơi nhận do không thể đặt túi 
giãn da tại vị trí liền kề mà phải đặt tại vị trí từ 
xa là vùng bụng được sử dụng theo hình thức 
vạt da hình trụ Filatov để di chuyển và che phủ 
cho cẳng tay. 
Cả 4/4 vạt đều có sức sống rất tốt, vạt không 
bị thiểu dưỡng hay hoại tử. Tụ máu có ghi nhận 
ở 2/4 trường hợp. Tuy nhiên không ảnh hưởng 
đến vạt da. Có 1 trường hợp nào bị nhiễm khuẩn 
sau phẫu thuật. Bệnh nhân sốt cao, xét nghiệm 
procalcitonin tăng, chúng tôi đã thay kháng sinh 
và bệnh nhân đã hết sốt ngay. Cả 4/4 trường 
hợp đều liền sẹo tốt, không có trường hợp nào 
toác vết phẫu thuật hay chậm liền sẹo.
Nghiên cứu của chúng tôi có số lượng bệnh 
nhân còn hạn chế. Chúng tôi cũng đã gặp các 
tai biến ngay từ thì đặt túi giãn, bơm túi cho 
đến thì tạo hình túi giãn. Mặc dù những tai biến 
này là những tai biến nhẹ, có thể khắc phục 
được ngay nhưng ít nhiều đã ảnh hưởng tới 
kết quả cuối cùng của phẫu thuật. Các tác giả 
khác cũng công bố tỉ tai biến với phẫu thuật tạo 
hình bằng túi giãn với tỷ lệ dao động từ 18% 
cho đến 40%.⁷
Cả 3/3 bệnh nhân đạt được mục tiêu đề ra. 
Bệnh nhân có thương tổn ở cẳng tay đã được 
cắt bỏ 90% diện tích. Bệnh nhân cần thêm một 
phẫu thuật bổ sung. Bệnh nhân có thương tổn 
2/3 diện tích vùng trán đã được cắt bỏ toàn bộ 
và được che phủ hoàn toàn bằng vạt giãn tổ 
chức được tạo từ phần da trán lành còn lại. 
Bệnh nhân có thương tổn vùng thái dương, 
đỉnh, chẩm đã được cắt bỏ toàn bộ thương tổn 
với sự che phủ 90% bằng vạt giãn tổ chức và 
10% da ghép. 
Hình ảnh thẩm mỹ của bệnh nhân được cải 
thiện rất nhiều. Thương tổn với hình ảnh kém 
thẩm mỹ được thay thế bằng vạt da giãn tương 
đồng với vùng da lân cận hoặc đối diện. Tổ chức 
xung quanh không bị co kéo. Hình ảnh, cấu trúc 
3D của nền tổ chức bị bệnh được giữ nguyên, 
lúc này hình ảnh thẩm mỹ phụ thuộc vào đường 
sẹo cuối cùng. Có 2/3 bệnh nhân hài lòng với 
kết quả đạt được, 1 bệnh nhân chấp nhận kết 
quả do vẫn cần 1 lần phẫu thuật bổ sung.
Do chưa đủ thời gian để theo dõi sự tái phát 
nên chúng tôi chưa thể nhận định tình trạng tái 
phát trong nghiên cứu của chúng tôi. Có 2/3 
trường hợp sẹo thanh mảnh, mềm mại, không 
co kéo, 1/3 trường hợp sẹo bị giãn nơi cho vạt. 
Trường hợp này, trẻ đang trong độ tuổi lớn 
nhanh nên cũng khó tránh được sẹo bị giãn. 
Không gặp trường hợp nào sẹo phì đại hoặc 
sẹo lồi. Các cơ quan lân cận không bị co kéo, 
biến dạng.
Nghiên cứu trước đây của chúng tôi với 6 
trường hợp phẫu thuật tạo hình bằng vạt giãn tổ 
chức để điều trị NHBK cũng cho kết quả tốt với 
5/6 trường hợp và kết quả khá với 1/6 trường 
hợp. Laura H Zaal cũng cho nhận xét vạt giãn tổ 
chức là một phương pháp tốt để loại bỏ NHBK, 
đặc biệt là khi chúng nằm ở da đầu hoặc trán với 
kết quả thẩm mỹ tốt. Phẫu thuật sớm khi bệnh 
nhân còn trẻ là điều nên làm.⁹
Ca lâm sàng
Bệnh nhân nam, sinh năm 2010, bị NHBK 
điển hình với HMB45 (+). Thương tổn ở vùng da 
đầu: thái dương, đỉnh, chẩm, kích thước lớn trên 
20cm. Mục tiêu điều trị cho bệnh nhân là loại bỏ 
hoàn toàn thương tổn. Bệnh nhân được chỉ định 
phẫu thuật đặt 1 túi giãn 320 ml ở vùng đỉnh, 
chẩm. Kết quả: thương tổn được cắt bỏ toàn bộ 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 132 (8) - 2020110
với 90% được che phủ bằng vạt giãn tổ chức.
Kết quả phẫu thuật khi bệnh nhân ra viện, 
thương tổn đã được loại bỏ hoàn toàn. Bệnh 
nhân hài lòng với kết quả phẫu thuật. Lượng da 
được tạo ra che phủ được 90% diện tích, ghép 
da bổ sung 10%. Chất lượng da tương đồng, 
tóc mọc tốt, không bị rụng. Vạt sống tốt, không 
tụ máu, nhiễm khuẩn nhẹ được khống chế ngay. 
Sẹo liền tốt kỳ đầu. Không co kéo, biến dạng tổ 
chức.
Hình 1. Hình ảnh bệnh nhân trước, trong và sau phẫu thuật
V. KẾT LUẬN
Kết quả nghiên cứu 3 bệnh nhân NHBK 
được phẫu thuật tạo hình bằng vạt giãn tổ chức 
từ tháng 10/2014 đến tháng 8/2020 tại Bệnh 
viện Da liễu Trung ương cho thấy vạt giãn tổ 
chức có thể huy động một lượng da, tổ chức 
tại chỗ hoặc từ xa thương tổn đủ lớn để có 
thể che phủ cho thương tổn sau cắt bỏ; hình 
ảnh thẩm mỹ sau phẫu thuật được cải thiện rất 
nhiều; chất lượng da được tạo ra tương đồng. 
Tuy nhiên, đây là kỹ thuật khó, thời gian nằm 
viện kéo dài, nhiều biến chứng ngay từ lúc đặt 
túi, bơm giãn cho đến thì tạo hình. Phẫu thuật 
tạo hình bằng vạt giãn tổ chức nếu thuận lợi sẽ 
đem lại hiệu quả cao, thích hợp cho việc điều 
trị NHBK.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Etchevers HC, Rose C, Kahle B, et 
al. Giant congenital melanocytic nevus with 
vascular malformation and epidermal cysts 
associated with a somatic activating mutation 
in BRAF. Pigment Cell Melanoma Res. 2018; 
31(3): 437 - 441.doi:10.1111/pcmr.12685
2. Mısır AF, Durmuşlar M, Zerener T, Gün 
B. Primary malignant melanoma. Saudi Med 
J. 2016; 37(4): 446 - 449. doi:10.15537/
smj.2016.4.15017
3. Kopf AW, Bart RS, Hennessey P. 
Congenital nevocytic nevi and malignant 
melanomas. J Am Acad Dermatol. 1979; 1(2): 
123 - 130. doi:10.1016/S0190-9622(79)70009-0
4. Arneja JS, Gosain AK. Giant Congenital 
Melanocytic Nevi of the Trunk and an Algorithm 
for Treatment: J Craniofac Surg. 2005; 16(5): 886 
- 893. doi:10.1097/01.scs.0000183356.41637.
f5
5. Viana ACL, Gontijo B, Bittencourt FV. 
Giant congenital melanocytic nevus. A Bras 
Dermatol. 2013; 88(6): 863 - 878. doi:10.1590/
abd1806-4841.20132233
6. Bhatnagar V, Mukherjee M, Bhargava P. A 
Case of Giant Hairy Pigmented Nevus of Face. 
Med J Armed Forces India. 2005; 61(2): 200 - 
202. doi:10.1016/S0377-1237(05)80029-2
7. Ma T, Fan K, Li L, et al. Tissue expansion 
in the treatment of giant congenital melanocytic 
nevi of the upper extremity: Medicine 
(Baltimore). 2017; 96(13): e6358. doi:10.1097/
MD.0000000000006358
8. Lyon VB. Congenital Melanocytic Nevi. 
Pediatr Clin North Am. 2010; 57(5):1155 - 1176. 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 132 (8) - 2020 111
doi:10.1016/j.pcl.2010.07.005
9. Zaal LH, van der Horst CM. Results of the 
early use of tissue expansion for giant congenital 
melanocytic naevi on the scalp and face. J Plast 
Reconstr Aesthet Surg. 2009; 62(2): 216 - 220. 
doi:10.1016/j.bjps.2007.10.045.
Summary
THE EFFECTIVENESS OF USING TISSUE EXPANDED FLAP 
IN THE TREATMENT OF GIANT CONGENITAL 
MELANOCYTIC NEVUS
Giant congenital nevus is an embryonic limited dysplasia treated by many different methods. 
This study was conducted to assess the initial results of tissue expanded flap for giant congenital 
melanocytic nevus (GCMN) treatment. There were 3 GCMN patients treated with 4 tissue 
expanded flap at the National Hospital of Dermatology and Venereology from October 2014 to 
August 2020. Results immediately after operation revealed that there were 50% of the flaps 
having enough area to cover the defect, 50% lacked 10% of covered area and needed additional 
surgery. 3 out of 4 flaps had same quality, and 1 had almost the same quality. 3/3 flaps were alive 
and healed at first period, 2/4 had mild complications. Follow up consultation revealed that all 
patients reached the initial objectives and were satisfied with the treatment. No recurrence was 
noted. 2/3 patients had thin and soft scar, 1/3 patient had dilated scar. There was no tugging or 
deformation of tissue. In conclusion, tissue expanded flap is a good option for GCMN treatment. 
Key words: Giant congenital melanocytic nevus, tissue expanded flap

File đính kèm:

  • pdfket_qua_buoc_dau_su_dung_vat_gian_to_chuc_dieu_tri_no_vi_hac.pdf