Kết quả bước đầu phầu thuật nội soi điều trị rách gân dưới vai

Mở đầu:

Rách gân cơ dưới vai là tổn thương ít gặp, dễ bị bỏ qua, thường đi kèm các tổn

thương khác. Nội soi khớp vai khâu gân rách có kết quả tốt, làm giảm triệu chứng

đau mặt trước khớp vai và cải thiện chức năng khớp vai.

Mục tiêu:

Đánh giá kết quả bước đầu phẫu thuật nội soi khớp vai điều trị rách gân dưới vai.

Đối tượng và phương pháp nghiên cứu:

Mô tả tiến cứu 07 BN rách bán phần gân dưới vai trong số 69 BN nội soi khớp vai

tại khoa CTCH Bệnh Viện 175 từ tháng 08/2009 đến 3/2015

pdf 6 trang phuongnguyen 140
Bạn đang xem tài liệu "Kết quả bước đầu phầu thuật nội soi điều trị rách gân dưới vai", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Kết quả bước đầu phầu thuật nội soi điều trị rách gân dưới vai

Kết quả bước đầu phầu thuật nội soi điều trị rách gân dưới vai
Phần 2: Phẫu thuật nội soi và thay khớp
121
Phan Đình Mừng và cs
Bác sĩ điều trị khoa 
CTCH, Bệnh Viện 175. 
KẾT QUẢ BƯỚC ĐẦU PHẦU THUẬT 
NỘI SOI ĐIỀU TRỊ RÁCH GÂN DƯỚI VAI
PRELIMINARY RESULTS OF ARTHROSCOPIC 
SUBSCAPULARIS TENDON REPAIR
TÓM TẮT
Mở đầu:
Rách gân cơ dưới vai là tổn thương ít gặp, dễ bị bỏ qua, thường đi kèm các tổn 
thương khác. Nội soi khớp vai khâu gân rách có kết quả tốt, làm giảm triệu chứng 
đau mặt trước khớp vai và cải thiện chức năng khớp vai. 
Mục tiêu:
Đánh giá kết quả bước đầu phẫu thuật nội soi khớp vai điều trị rách gân dưới vai. 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu:
Mô tả tiến cứu 07 BN rách bán phần gân dưới vai trong số 69 BN nội soi khớp vai 
tại khoa CTCH Bệnh Viện 175 từ tháng 08/2009 đến 3/2015. 
Kết quả: 
100% BN không có biến chứng trong và sau mổ. 07 BN rách gân dưới vai theo 
dõi trung bình 10 tháng mổ đạt kết quả tốt. Kết quả theo thang điểm Constant 
tăng từ 57 trước mổ đến 73,5 sau mổ. VAS trước mổ 4,5 sau mổ giảm còn 1,1. 
Kết luận:
Rách gân cơ dưới vai khâu bằng kỹ thuật nội soi cho kết quả tốt. chỉ số VAS và 
Constant cải thiện rõ so với trước mổ. Tuy nhiên cần nghiên cứu số lượng BN lớn 
hơn và thời gian theo dõi lâu hơn.
Phan Dinh Mung et al SUMMARY
Background:
Subscapularis torn isolated rarely, easily overlooked, often accompanied by 
other lesions. Arthroscopic subscapularis repair have good results, reducing the 
symptoms of the front shoulder and shoulder joint function improvement.
Objective:
Evaluate the preliminary results of arthroscopic subscapularis tendon repair.
Materials and methods: 
Description prospective series cases. 07 arthroscopic subscapularis among 69 
patients arthroscopic shoulder at the Orthopaedic Department, 175 Hospital from 
08/2009 to 03/2015. 
Results:
100% of patients with no complications during and post-operative. 07 tore 
subscapularis patients with average 10 months follow-up had good results. 
TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2016
122
Results according to Constant score increased from 57 (average pre-operative) 
to 73,5 (average post-operative). Preoperative VAS 4.5 points decreased to 1.1 
points postoperatively.
Conclusions:
Torn subscapularis tendon arthroscopic repair have good results. VAS and 
Constant score improved compared with post-operative. Research is needed larger 
number of patients and longer follow-up period.
1. MỞ ĐẦU
Tồn thương gân dưới vai chiếm tỷ lệ ít và dễ bị bỏ 
qua trên lâm sàng. Chức năng khớp vai sẽ không hồi 
phục hoàn toàn nếu sau mổ nếu tổn thương gân dưới 
vai bị bỏ qua Năm 1934, J. Smith lần đầu tiên mô tả 
5 BN rách gân dưới vai cùng với bệnh lý chóp xoay 
khác[7,9]. Năm 1996, Gerber và cộng sự mô tả 16 BN 
rách gân dưới vai đơn thuần. Rách gân dưới vai chiếm 
tỷ lệ thấp hơn rách gân trên gai, nhưng tương đương với 
rách gân dưới gai[4]. Gần đây do sự phát triển của nội 
soi khớp cho phép đánh giá gân dưới vai tốt hơn, nhiều 
tổn thương được phát hiện. Có nhiều nghiệm pháp đánh 
giá gân dưới vai, Liff-off test khá tin cậy nhưng ít do BN 
đau nên giới hạn vận động, Napoleon test hay dùng hơn, 
giúp xác định mức độ rách gân dưới vai. 
Xử trí tổn thương gân này trả lại độ vững phía trước 
và khả năng xoay trong của khớp vai. Phẫu thuật mở 
khâu gân làm giảm triệu chứng và phục hồi chức năng 
cho BN[14], nhưng hay có nguy cơ tổn thương thần 
kinh nách, xâm lấn phần mềm nhiều. Phẫu thuật nội soi 
không những khâu gân mà còn giúp đánh giá và xử trí 
thêm các tổn thương phối hợp: rách sụn viển, SLAP, gân 
nhị đầu và có thời gian phục hồi nhanh hơn [9]. Tuy 
nhiên, khâu gân qua nội soi thao tác khó khăn trong 
khoang dưới mỏm quạ chật hẹp và mô mềm sưng nề 
càng làm hẹp hơn, do vậy kỹ thuật này nên làm trước 
các thủ thuật khác[4]. Báo cáo này với mục đích đánh 
giá kết quả bước đầu PTNS khâu gân dưới vai tại khoa 
CTCH Bệnh Viện 175 thời gian từ 2012-2016. 
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
NGHIÊN CỨU
2.1 Đối tượng nghiên cứu
07 BN rách gân dưới vai phối hợp các tổn thương 
khác được PTNS khâu gân trong tổng số 69 BN NS khớp 
vai tại khoa CTCH Bệnh Viện 175 từ tháng 08/2009 đến 
3/2015. Các BN có khả năng kinh tế chấp nhận được chi 
phí điều trị bằng phẫu thuật nội soi(PTNS) khớp.
2.2 Phương pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu mô tả nhiều ca bệnh. Thu thập số liệu về 
đặc điểm BN, khám và làm các test lâm sàng: Liff-
off test, Napoleon test, Bear-hug test, MRI khớp vai. 
- Vô cảm: mê NKQ. 
- Tư thế mổ: phần lớn áp dụng tư thế nằm nghiêng 
(Lateral Decubitus)
- Kỹ thuật mổ: 
Hình 1: Lối vào nội soi khâu gân dưới vai
+ Đường vào: lối vào sau, trước, trước trên. 
+ Chẩn đoán tổn thương: rách gân dưới vai và mức 
độ rách, tình trạng sụn viền, bao khớp, chỏm 
xương cánh tay, chóp xoay, gân nhị đầu
+ Xử trí tổn thương: 
Rách gân dưới vai: 
Phần 2: Phẫu thuật nội soi và thay khớp
123
Hình 2: Hẹp mỏm quạ nhìn qua nội soi vai Hình 2: Xoay trong, đẩy chỏm xương cánh tay ra sau 
 Mài mỏm quạ khi có hẹp khoang dưới quạ. 
 Cắt gân nhị đầu (tenotomy) hoặc đính gân nhị đầu 
vào chỏm xương cánh tay(tenodesis) khi có rách tưa 
gân nhị đầu. 
 Khâu gân dưới vai theo kỹ thuật của Burkhart [12], 
qua lối vào sau tạo lối vào trước và trước trên. Sau 
khi đã xác định gân dưới vai rách. Chà rướm máu 
diện bám gân dưới vai tại mấu động nhỏ. Qua lối vào 
trước, đóng một neo đôi 5.0mm. Xuyên chỉ qua gân 
rách rồi buộc kiểu nằm ngang hoặc vòng đơn tại diện 
gân rách. 
Các thương tổn phối hợp:
 Mài MCV, khâu gân trên gai và dưới gai một hoặc 
hai hàng chỉ neo tùy theo kích thước lỗ rách.
	Khâu sụn viền khi có tổn thương sụn viền trên hoặc 
phía sau, giải phóng bao khớp vai khi có co rút bao 
khớp vai. 
Chăm sóc sau mổ: 
	Chườm lạnh vùng vai, mang đai chóp xoay,
	Những ngày đầu sau mổ: tập gồng cơ, gấp duỗi 
khuỷu và nắm thả bàn tay, vệ sinh nách hàng ngày. 
Chế độ luyện tập sau mổ: bệnh nhân được bất động 
vai trong tư thế dạng nhẹ, tránh động tác xoay ngoài 
trong 4 tuần, sau 4 tuần bắt đầu cho bệnh nhân tập các 
động tác con lắc đồng hồ, đưa tay ra trước và sau, động 
tác bò tường. Hai tháng sau bệnh nhân bắt đầu tập gồng 
cơ, tập chủ động sức cơ của vùng vai.
Đánh giá: 
	Tình trạng liền vết mổ, triệu chứng đau, chức năng 
khớp vai, biên độ vận động, sức cơ tái khám ở các 
thời điểm 1, 3, 6, 9 tháng 
	Phân loại kết quả : dựa theo thang điểm của Constant 
và UCLA. 
	Kết quả chung chia 4 mức: Rất tốt, Tốt, Trung bình 
và Kém. 
3. KẾT QUẢ
3.1 Đặc điểm BN: 
Cả 07 BN đều là nam giới, tuổi từ 49 đến 57. Thời 
gian bị đau trước mổ từ 6 tháng đến 3 năm. Có năm BN 
đau bên tay thuận, ba BN có yếu tố chấn thương (sau 
khi đánh tennis và ngã xe máy chống tay). Các BN đều 
được điều trị bảo tồn tích cực nhưng không đỡ.
Ấn đau vùng MĐL 5/5 BN. Yếu vai: 2/5 BN. Yếu 
xoay trong 2/5 BN. Hạn chế vận động vai: 01/05 BN. 
Đau phía trước khớp vai: 0/5 BN. 
Hội chứng chèn ép MCV (+): 05/05 BN. Chèn ép 
dưới quạ (+): 02/05 BN. Liff off test: 3 BN đau nhiều 
không thực hiện được. Napoleon test (+): 01/05 BN. 
Bear hug test (+): 03/05 BN. 
MRI: 
Rách bán phần gân dưới vai: 07/07BN 
Gai xương mỏm quạ: 02/07 BN
Tổn thương, bán trật gân nhị đầu: 02/07BN; 
Hẹp MCV: 05/07 BN
Rách gân trên gai, dưới gai: 06/07 BN
TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2016
124
 3.2 Chẩn đoán trong mổ: 
+ Rách gân dưới vai rách bán phần: 07/07 BN 
 Rách, viêm gân nhị đầu: 04/07BN 
 Hẹp mỏm quạ: 02/02 BN 
+ Tổn thương kết hợp: 
Rách sụn viền trước: 01/07 BN 
Tổn thương SLAP: 02/07 BN
Rách sụn viền sau: 02/07 BN 
Rách gân trên gai hoặc dưới gai: 06 BN
Thoái hóa khớp cùng đòn: 01/07 BN 
3.3 Điều trị: 
Mài mỏm quạ: 03/07 BN
Cắt gân nhị đầu làm Tenodesis: 02/07BN
Gân dưới vai rách bán phần được khâu vào mấu 
động bé bằng một neo đôi: 07/07BN
+ Thương tổn phối hợp:
Khâu sụn viền trước: 02/07 BN
Khâu SLAP bằng 2 chỉ neo: 02/07BN.
Mài mỏm cùng vai: 07/07
Khâu gân trên gai và dưới gai: một hàng: 4BN 
hai hàng: 2BN
3.4 Kết quả điều trị: 
- Sau mổ: một BN vỡ mảnh canul nhựa vào trong 
khớp vai. Một BN vỡ phần neo sinh học vào trong 
khớp. Hai BN được lấy mảnh vỡ ra ngoài thuận lợi. 
Không tổn thương TK, mạch máu trong, sau mổ; 
100% BN liền sẹo vết mổ kỳ đầu, hài lòng với cuộc mổ. 
Thời gian nằm viện trung bình: 06 ngày.
- Kết quả gần: 
+ Nghiên cứu thực hiện trên 07BN, thời gian theo 
dõi trung bình 10 tháng. Chỉ số Constant trung 
bình trước mổ: 57 thấp hơn hẳn so với chỉ số 
Constant sau mổ: 73.5. VAS trước mổ 4,5 sau mổ 
giảm còn 1,1. Có hai BN còn hạn chế động tác 
xoay ngoài và nâng tay cao qua đầu. 
4. BÀN LUẬN:
4.1. Đặc điểm BN:
Tác cả các BN là nam giới, tuổi trung niên, tuổi từ 
49 đến 57, chủ yếu đau bên tay thuận và không rõ yếu tố 
chấn thương. Tổn thương rách gân do sử dụng quá mức, 
lặp lại. điều này phù hợp với Tăng Hà Nam Anh [1]. 
Những BN rách thoái hóa thường lớn tuổi hơn và tổn 
thương phối hợp và có triệu chứng rách chóp xoay trước 
trên mạn tính [9].
Những BN rách gân dưới vai đơn thuần thường trẻ 
tuổi, lâm sàng có đau phía trước khớp vai cấp tính [9].
4.2. Chẩn đoán
4.2.1 Lâm sàng: 
Liff-off test chỉ dương tính khi ¾ trên gân bị tổn 
thương, nên không phải là nghiệm pháp tốt cho đánh 
giá rách phần trên gân, nghiệm pháp Napoleon xuất hiện 
trạng thái trung gian nếu rách 50%-60% (có giá trị trong 
ước tính tỷ lệ gân rách). Nghiệm pháp nhạy nhất đánh 
giá gân dưới vai, đặc biệt trong rách bán phần phía trên 
gân là bear-hug test [12,13].
4.2.2. MRI: 
Có tương phản từ giúp chẩn đoán rách gân dưới vai 
dễ dàng hơn, đặc biệt những BN có rách bán phần gân 
dưới vai. Khi trên MRI có hình ảnh bán trật gân nhị đầu, 
nhiều khả năng BN có rách gân dưới vai. 
4.2.3 Nội soi: 
Tổn thương hay gặp là rách toàn bề dày phần gân 
trên hơn là đứt toàn bộ nơi bám gân[9]; ít gặp bán trật, 
trật, nhị đầu. Trường hợp có trật nhị đầu thì làm thủ 
thuật cố định gân (biceps tenodesis) khi nhị đầu không 
ổn định. 
Thoái hóa gân dưới vai sẽ bắt đầu từ bề mặt khớp 
phần trên của gân dưới vai nên rách bán phần gân dưới 
vai dễ dàng quan sát tại nơi bám gân dưới vai và mấu 
chuyển bé[7].
4.3 Kỹ thuật:
Để tiếp cận vị trí rách gân, dễ quan sát: dọn sạch 
mô mềm xung quanh, dạng và xoay trong cánh tay làm 
chùng gân dưới vai sẽ làm tăng khả năng quan sát nơi 
bám gân dưới vai. Chúng tôi đồng ý với tác giả Ian K. 
Y. Lo và cs [7], dạng và xoay trong cánh tay sẽ làm nâng 
các sợi gân dưới vai cho phép quan sát rõ hơn nơi bám 
gân dưới vai. 
Trong mổ rách gân dưới vai, thao tác gần mỏm quạ 
có nhiều cấu trúc dễ bị tổn thương cần chú ý. Quanh 
mỏm quạ: thần kinh nách, động mạch cánh tay, thần 
kinh cơ bì, thân nhì trước ngoài của đám rối thần kinh 
cánh tay. Những cấu trúc này cách mỏm quạ 25mm theo 
nghiên cứu trên xác[12].
Phần 2: Phẫu thuật nội soi và thay khớp
125
4.3.1 Gân nhị đầu
Bán trật gân nhị đầu được đánh giá bằng cách xoay 
trong, ngoài. Kéo phần gân trong rãnh nhị đầu vào trong 
khớp(có thể gặp thoái hóa hay rách bán phần gân này) 
kiểm tra. Đặc biệt chú ý tới chỗ nối với dây hãm phía 
trong (medial sling, là chỗ hợp lại của gân dưới vai, gân 
trên gai, dây chằng ổ chảo cánh tay trên, dây chằng quạ 
cánh tay) hay xảy ra bất thường gân nhị đầu. 
Nếu gân nhị đầu nằm phía sau các sợi gân dưới vai 
gợi ý một bán trật gân nhị đầu. Chỉ định cố định gân nhị 
đầu: thoái hóa trên 50% bề dày hoặc mất vững gân nhị 
đầu. luôn luôn cố định gân nhị đầu cùng với khâu gân 
dưới vai rách. 
4.3.2 Khoang dưới mỏm quạ
Khoang dưới mỏm quạ là khỏang cách giữa đỉnh 
mỏm quạ và chỏm xương cánh tay. Bình thường 8,4 đến 
11mm. hẹp khoang này khi <6mm [3,4,7,12,13,15]. Để 
đánh giá khoang dưới mỏm quạ, cánh tay gấp khép xoay 
trong sẽ đưa mỏm quạ gần chỏm xuống cánh tay nhất. 
nếu có hẹp mỏm quạ tương ứng triệu chứng lâm sàng, 
tạo hình mỏm quạ. Khi xoay ngoài, trong xương cánh 
tay thấy đỉnh mỏm quạ lồi lên phía sau xương cánh tay, 
hiệu ứng roller-wringer tạo ra tổn thương TUFF (tensile 
undersurface fiber failure )
Bình thường với đầu shaver 4mm di chuyển dễ dàng 
giữa mặt trước gân dưới vai và đỉnh mỏm quạ là bộc 
lộ vừa đủ (7mm). khoảng cách này <6mm cần tạo hình 
mỏm cùng[4,9]. Trường hợp rách lớn co rút gân dưới 
vai, không còn mốc gân dưới vai, khoảng cách tại điểm 
1h47 trên ổ chảo(coi mặt ổ chảo như hình đồng hồ) là 
21,5mm tính từ bờ sụn viền đến đỉnh mỏm quạ[3]. 
Khi bộc lộ đỉnh mỏm quạ luôn bảo tồn chỗ bám gân 
nhị đầu, quạ cánh taykhi tạo hình mỏm quạ mục đích 
bảo vệ đường khâu gân dưới vai. Đầu mài đi qua lối vào 
trước trên ngoài và trực tiếp phía trước của medial sling 
vào khoang dưới mỏm quạ. 
4.4 Kết quả điều trị: 
Điều trị bảo tồn hội chứng chèn ép dưới quạ bắt đầu 
bằng sửa đổi phương thức hoạt động, tránh tư thế gấp và 
xoay trong. Các bài tập làm mạnh cơ chóp xoay và cố 
định xương bả vai. Tác giả Venuthurla R.Reddy (2010) 
mổ mở cắt xương và chỉnh trục mỏm quạ để bảo tồn nơi 
bám gân quạ cánh tay và nhị đầu. 
Khi có rách gân dưới vai, mục tiêu phẫu thuật là 
phục hồi lại khoang dưới mỏm quạ và loại bỏ bắt chẹn 
giữa mỏm cùng và gân dưới vai. Nội soi khâu gân dưới 
vai tiến hành ngay trước các thủ thuật khác: vì khu vực 
làm việc khá chật hẹp và sưng nề càng tăng lên sau đó sẽ 
cản trở thao tác. 
a. Tạo hình mỏm quạ (phía sau ngoài, thẳng hàng với 
nơi bám gân dưới vai vào mấu động nhỏ) được thực 
hiện trước sẽ làm rộng khu vực khâu gân dưới vai. 
Sau khi khâu gân xong sẽ đánh giá lại hướng và độ 
rộng khoang dưới mỏm quạ (Burkhart, 2003). 
b. Cắt gân nhị đầu trước, 
c. Tạo không gian cho đóng neo và khâu gân dưới vai, 
cố định gân nhị đầu.
Với mục tiêu phục hồi lại khoang dưới mỏm quạ và 
loại bỏ bắt chẹn giữa mỏm cùng và gân dưới vai. Mổ 
mở rách gân dưới vai đơn thuần có kết quả chấp nhận 
được nhưng không xử trí được các tổn thương khác như 
nội soi. Hơn nữa, nội soi ít nguy cơ tổn thương thần 
kinh nách, thời gian phục hồi nhanh hơn. Nội soi giúp 
đánh giá rách gân dưới vai, hẹp dưới mỏm quạ, bắt chẹn 
dưới quạ. Trong đó hẹp dưới mỏm quạ và bắt chẹn dưới 
quạ thường đi kèm rách gân dưới vai và góp phần và cơ 
chế bệnh sinh rách gân theo tổn thương TUFF(tensile 
undersurface fiber failure) bởi hiệu ứng lăn và ép[7]. 
+ Nghiên cứu thực hiện trên 07BN, thời gian theo 
dõi trung bình 10 tháng (tháng). Chỉ số VAS và Constant 
trước mổ trung bình: 57 thấp hơn hẳn so với chỉ số 
Constant sau mổ: 73.5. VAS trước mổ 4,5 sau mổ giảm 
còn 1,1. Có hai BN còn hạn chế động tác cxoay ngoài và 
nân tay cao qua đầu. 
Đa số rách gân dưới vai do thoái hóa liên quan đến 
1/3 trên gân phía mặt khớp[7], phù hợp nhất với nội soi. 
Rách hoàn toàn gân cấp tính(ít hơn 6 tháng) dễ lành hơn 
mạn tính. Mặc dù nội soi có thời gian phục hồi nhanh 
hơn do ít xâm lấn, nhưng quá trình lành gân vẫn đủ thời 
gian như mổ mở [9].
5. KẾT LUẬN:
Qua đánh giá kết quả bước đầu 07BN khâu gân dưới 
vai qua nội soi vai từ 08/2009 đến 03/ 2015: 
5.1 Sau mổ các BN liền sẹo tốt, thời gian nằm viện 
trung bình: 06 ngày. Có 02 BN vỡ mảnh nhựa cannul 
vào trong khớp vai được lấy ra thuận lợi, 
5.2 Chỉ số VAS và Constant sau mổ cải thiện rõ so 
với trước mổ. 
5.3 Khâu gân qua nội soi khớp vai tốt hơn so với mổ 
mở. PTNS giúp xử trí thêm các tổn thương phối hợp. 
TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2016
126
Tài liệu tham khảo
1. Tăng Hà Nam Anh (2008): “ Khâu gân dưới vai qua nội soi 
khớp vai nhân ba trường hợp”. Y học TP Hồ Chí Minh, tập 
12, phụ bản của số 1, pp:310-312.
2. Tăng Hà Nam Anh, Dương Đình Triết (2010). “Diện bám 
chóp xoay của người Việt Nam: giải phẫu học và ứng dụng 
lâm sàng”. Tạp chí Y học Việt Nam,Tổng Hội Y Dược Học 
Việt Nam,tập 374 (2), tr 445-452
3. Allen Tham, Robert Purchase and John D. Kelly IV 
(2009): “The Relation of the Coracoid Process to the 
Glenoid: An Anatomic Study Arthroscopy: The Journal of 
Arthroscopic and Related Surgery, Vol 25, No 8 (August), 
2009: pp 846-848
4. Christopher R. Adams, John D. Schoolfield and 
Stephen S. Burkhart (2008): “The Results of Arthroscopic 
Subscapularis Tendon Repairs”. Arthroscopy: The Journal 
of Arthroscopic and Related Surgery, Vol 24, No 12 
(December),: pp 1381-1389
5. Daniel J. Wheeler, Tigran Garabekyan, Roberto Lugo, 
Jenni M. Buckley, Christopher Jones, Marielena 
Lotz, Jeffery C. Lotz, and C. Benjamin Ma (2008): 
“Biomechanical Comparison of Transosseous Versus Suture 
Anchor Repair of the Subscapularis Tendon” Arthroscopy: 
The Journal of Arthroscopic and Related Surgery, Vol 24, No 
12 (December),: pp 1381-1389 
6. Ide J, Tokiyoshi A, Hirose J, Mizuta H (2008): “An antomic 
study of the subscapularis insertion to the humerus: 
the subscapularis footprint”. Arthroscopy: the journal of 
arthroscopy and related surgery, vol 24, No 7 (july): pp 
749-753.
7. Ian K. Y. Lo and Stephen S. Burkhart (2003): “The Etiology 
and Assessment of Subscapularis Tendon Tears: A Case 
for Subcoracoid Impingement, the Roller-Wringer Effect, 
and TUFF Lesions of the Subscapularis” Arthroscopy: The 
Journal of Arthroscopic and Related Surgery, Vol 19, No 10 
(December), 2003: pp 1142-115
8. Jae Chul Yoo, Yong Girl Rhee, Sang Jin Shin, Yong Bok 
Park, Michelle H. McGarry, Bong Jae Jun and Thay 
Q. Lee: “Subscapularis Tendon Tear Classification Based 
on 3-Dimensional Anatomic Footprint: A Cadaveric and 
Prospective Clinical Observational Study”. Arthroscopy: The 
Journal of Arthroscopic and Related Surgery, Vol 31, No 1 
(January), 2015: pp 19-28
9. Jeff A.Fox, Mayo A. Noerdlinger and Anthony A. Romeo 
(2002): “ Arthroscopic Subscapularis Repair”. Operative 
Techniques in Orthopaedics, Vol 12, No, 2002: pp 209-217. 
10. Lin Lin • Hui Yan • Jian Xiao • Zhenming He • Hao Luo 
• Xu Cheng • Yingfang Ao • Guoqing Cui (2014): “The 
diagnostic value of magnetic resonance imaging for different 
types of subscapularis lesions”. European Society of Sports 
Traumatology, Knee Surgery, Arthroscopy (ESSKA) 16 
September 
11. Ryuzo Arai, Hiroyuki Sugaya, Tomoyuki Mochizuki, 
Akimoto Nimura , Joji Moriishi and Keiichi Akita: “ 
Subscapularis Tendon Tear: An Anatomic and Clinical 
Investigation Arthroscopy: The Journal of Arthroscopic 
and Related Surgery, Vol 24, No 9 (September), 2008: pp 
997-1004
12. Stephen S. Burkhart and Paul C. Brady (2006): 
“Arthroscopic Subscapularis Repair: Surgical Tips and 
Pearls A to Z”. Arthroscopy: The Journal of Arthroscopic 
and Related Surgery, Vol 22, No 9 (September), 2006: pp 
1014-1027
13. Stephen S. Burkhart, Armin M. Tehrany (2002): 
“Arthropscopic Subscapularis Tendon Repair: Technique 
and Preliminary Results”. Arthroscopy: The Journal of 
Arthroscopic and Related Surgery, Vol 18, No 5 (August), 
2002: pp 454- 463
14. T. Bradley Edwards, Gilles Walch, François Sirveaux, 
Daniel Molé, Laurent Nové-Josserand, Aziz Boulahia 
(2006): “Repair of Tears of the Subscapularis”. J Bone Joint 
Surg Am. 2006;88:1-10.
15. Venuthurla R. Reddy, Tosan Okoro, Winston Rennie 
& Amit Modi (2006): “Coracoid impingement treated 
with corrective osteotomy A case report”. British Elbow 
and Shoulder Society. Shoulder & Elbow 2010, vol 2, pp 
103–106.

File đính kèm:

  • pdfket_qua_buoc_dau_phau_thuat_noi_soi_dieu_tri_rach_gan_duoi_v.pdf