Kết quả bước đầu phầu thuật nội soi điều trị rách gân dưới vai
Mở đầu:
Rách gân cơ dưới vai là tổn thương ít gặp, dễ bị bỏ qua, thường đi kèm các tổn
thương khác. Nội soi khớp vai khâu gân rách có kết quả tốt, làm giảm triệu chứng
đau mặt trước khớp vai và cải thiện chức năng khớp vai.
Mục tiêu:
Đánh giá kết quả bước đầu phẫu thuật nội soi khớp vai điều trị rách gân dưới vai.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu:
Mô tả tiến cứu 07 BN rách bán phần gân dưới vai trong số 69 BN nội soi khớp vai
tại khoa CTCH Bệnh Viện 175 từ tháng 08/2009 đến 3/2015
Bạn đang xem tài liệu "Kết quả bước đầu phầu thuật nội soi điều trị rách gân dưới vai", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Kết quả bước đầu phầu thuật nội soi điều trị rách gân dưới vai
Phần 2: Phẫu thuật nội soi và thay khớp 121 Phan Đình Mừng và cs Bác sĩ điều trị khoa CTCH, Bệnh Viện 175. KẾT QUẢ BƯỚC ĐẦU PHẦU THUẬT NỘI SOI ĐIỀU TRỊ RÁCH GÂN DƯỚI VAI PRELIMINARY RESULTS OF ARTHROSCOPIC SUBSCAPULARIS TENDON REPAIR TÓM TẮT Mở đầu: Rách gân cơ dưới vai là tổn thương ít gặp, dễ bị bỏ qua, thường đi kèm các tổn thương khác. Nội soi khớp vai khâu gân rách có kết quả tốt, làm giảm triệu chứng đau mặt trước khớp vai và cải thiện chức năng khớp vai. Mục tiêu: Đánh giá kết quả bước đầu phẫu thuật nội soi khớp vai điều trị rách gân dưới vai. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Mô tả tiến cứu 07 BN rách bán phần gân dưới vai trong số 69 BN nội soi khớp vai tại khoa CTCH Bệnh Viện 175 từ tháng 08/2009 đến 3/2015. Kết quả: 100% BN không có biến chứng trong và sau mổ. 07 BN rách gân dưới vai theo dõi trung bình 10 tháng mổ đạt kết quả tốt. Kết quả theo thang điểm Constant tăng từ 57 trước mổ đến 73,5 sau mổ. VAS trước mổ 4,5 sau mổ giảm còn 1,1. Kết luận: Rách gân cơ dưới vai khâu bằng kỹ thuật nội soi cho kết quả tốt. chỉ số VAS và Constant cải thiện rõ so với trước mổ. Tuy nhiên cần nghiên cứu số lượng BN lớn hơn và thời gian theo dõi lâu hơn. Phan Dinh Mung et al SUMMARY Background: Subscapularis torn isolated rarely, easily overlooked, often accompanied by other lesions. Arthroscopic subscapularis repair have good results, reducing the symptoms of the front shoulder and shoulder joint function improvement. Objective: Evaluate the preliminary results of arthroscopic subscapularis tendon repair. Materials and methods: Description prospective series cases. 07 arthroscopic subscapularis among 69 patients arthroscopic shoulder at the Orthopaedic Department, 175 Hospital from 08/2009 to 03/2015. Results: 100% of patients with no complications during and post-operative. 07 tore subscapularis patients with average 10 months follow-up had good results. TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2016 122 Results according to Constant score increased from 57 (average pre-operative) to 73,5 (average post-operative). Preoperative VAS 4.5 points decreased to 1.1 points postoperatively. Conclusions: Torn subscapularis tendon arthroscopic repair have good results. VAS and Constant score improved compared with post-operative. Research is needed larger number of patients and longer follow-up period. 1. MỞ ĐẦU Tồn thương gân dưới vai chiếm tỷ lệ ít và dễ bị bỏ qua trên lâm sàng. Chức năng khớp vai sẽ không hồi phục hoàn toàn nếu sau mổ nếu tổn thương gân dưới vai bị bỏ qua Năm 1934, J. Smith lần đầu tiên mô tả 5 BN rách gân dưới vai cùng với bệnh lý chóp xoay khác[7,9]. Năm 1996, Gerber và cộng sự mô tả 16 BN rách gân dưới vai đơn thuần. Rách gân dưới vai chiếm tỷ lệ thấp hơn rách gân trên gai, nhưng tương đương với rách gân dưới gai[4]. Gần đây do sự phát triển của nội soi khớp cho phép đánh giá gân dưới vai tốt hơn, nhiều tổn thương được phát hiện. Có nhiều nghiệm pháp đánh giá gân dưới vai, Liff-off test khá tin cậy nhưng ít do BN đau nên giới hạn vận động, Napoleon test hay dùng hơn, giúp xác định mức độ rách gân dưới vai. Xử trí tổn thương gân này trả lại độ vững phía trước và khả năng xoay trong của khớp vai. Phẫu thuật mở khâu gân làm giảm triệu chứng và phục hồi chức năng cho BN[14], nhưng hay có nguy cơ tổn thương thần kinh nách, xâm lấn phần mềm nhiều. Phẫu thuật nội soi không những khâu gân mà còn giúp đánh giá và xử trí thêm các tổn thương phối hợp: rách sụn viển, SLAP, gân nhị đầu và có thời gian phục hồi nhanh hơn [9]. Tuy nhiên, khâu gân qua nội soi thao tác khó khăn trong khoang dưới mỏm quạ chật hẹp và mô mềm sưng nề càng làm hẹp hơn, do vậy kỹ thuật này nên làm trước các thủ thuật khác[4]. Báo cáo này với mục đích đánh giá kết quả bước đầu PTNS khâu gân dưới vai tại khoa CTCH Bệnh Viện 175 thời gian từ 2012-2016. 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1 Đối tượng nghiên cứu 07 BN rách gân dưới vai phối hợp các tổn thương khác được PTNS khâu gân trong tổng số 69 BN NS khớp vai tại khoa CTCH Bệnh Viện 175 từ tháng 08/2009 đến 3/2015. Các BN có khả năng kinh tế chấp nhận được chi phí điều trị bằng phẫu thuật nội soi(PTNS) khớp. 2.2 Phương pháp nghiên cứu - Nghiên cứu mô tả nhiều ca bệnh. Thu thập số liệu về đặc điểm BN, khám và làm các test lâm sàng: Liff- off test, Napoleon test, Bear-hug test, MRI khớp vai. - Vô cảm: mê NKQ. - Tư thế mổ: phần lớn áp dụng tư thế nằm nghiêng (Lateral Decubitus) - Kỹ thuật mổ: Hình 1: Lối vào nội soi khâu gân dưới vai + Đường vào: lối vào sau, trước, trước trên. + Chẩn đoán tổn thương: rách gân dưới vai và mức độ rách, tình trạng sụn viền, bao khớp, chỏm xương cánh tay, chóp xoay, gân nhị đầu + Xử trí tổn thương: Rách gân dưới vai: Phần 2: Phẫu thuật nội soi và thay khớp 123 Hình 2: Hẹp mỏm quạ nhìn qua nội soi vai Hình 2: Xoay trong, đẩy chỏm xương cánh tay ra sau Mài mỏm quạ khi có hẹp khoang dưới quạ. Cắt gân nhị đầu (tenotomy) hoặc đính gân nhị đầu vào chỏm xương cánh tay(tenodesis) khi có rách tưa gân nhị đầu. Khâu gân dưới vai theo kỹ thuật của Burkhart [12], qua lối vào sau tạo lối vào trước và trước trên. Sau khi đã xác định gân dưới vai rách. Chà rướm máu diện bám gân dưới vai tại mấu động nhỏ. Qua lối vào trước, đóng một neo đôi 5.0mm. Xuyên chỉ qua gân rách rồi buộc kiểu nằm ngang hoặc vòng đơn tại diện gân rách. Các thương tổn phối hợp: Mài MCV, khâu gân trên gai và dưới gai một hoặc hai hàng chỉ neo tùy theo kích thước lỗ rách. Khâu sụn viền khi có tổn thương sụn viền trên hoặc phía sau, giải phóng bao khớp vai khi có co rút bao khớp vai. Chăm sóc sau mổ: Chườm lạnh vùng vai, mang đai chóp xoay, Những ngày đầu sau mổ: tập gồng cơ, gấp duỗi khuỷu và nắm thả bàn tay, vệ sinh nách hàng ngày. Chế độ luyện tập sau mổ: bệnh nhân được bất động vai trong tư thế dạng nhẹ, tránh động tác xoay ngoài trong 4 tuần, sau 4 tuần bắt đầu cho bệnh nhân tập các động tác con lắc đồng hồ, đưa tay ra trước và sau, động tác bò tường. Hai tháng sau bệnh nhân bắt đầu tập gồng cơ, tập chủ động sức cơ của vùng vai. Đánh giá: Tình trạng liền vết mổ, triệu chứng đau, chức năng khớp vai, biên độ vận động, sức cơ tái khám ở các thời điểm 1, 3, 6, 9 tháng Phân loại kết quả : dựa theo thang điểm của Constant và UCLA. Kết quả chung chia 4 mức: Rất tốt, Tốt, Trung bình và Kém. 3. KẾT QUẢ 3.1 Đặc điểm BN: Cả 07 BN đều là nam giới, tuổi từ 49 đến 57. Thời gian bị đau trước mổ từ 6 tháng đến 3 năm. Có năm BN đau bên tay thuận, ba BN có yếu tố chấn thương (sau khi đánh tennis và ngã xe máy chống tay). Các BN đều được điều trị bảo tồn tích cực nhưng không đỡ. Ấn đau vùng MĐL 5/5 BN. Yếu vai: 2/5 BN. Yếu xoay trong 2/5 BN. Hạn chế vận động vai: 01/05 BN. Đau phía trước khớp vai: 0/5 BN. Hội chứng chèn ép MCV (+): 05/05 BN. Chèn ép dưới quạ (+): 02/05 BN. Liff off test: 3 BN đau nhiều không thực hiện được. Napoleon test (+): 01/05 BN. Bear hug test (+): 03/05 BN. MRI: Rách bán phần gân dưới vai: 07/07BN Gai xương mỏm quạ: 02/07 BN Tổn thương, bán trật gân nhị đầu: 02/07BN; Hẹp MCV: 05/07 BN Rách gân trên gai, dưới gai: 06/07 BN TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2016 124 3.2 Chẩn đoán trong mổ: + Rách gân dưới vai rách bán phần: 07/07 BN Rách, viêm gân nhị đầu: 04/07BN Hẹp mỏm quạ: 02/02 BN + Tổn thương kết hợp: Rách sụn viền trước: 01/07 BN Tổn thương SLAP: 02/07 BN Rách sụn viền sau: 02/07 BN Rách gân trên gai hoặc dưới gai: 06 BN Thoái hóa khớp cùng đòn: 01/07 BN 3.3 Điều trị: Mài mỏm quạ: 03/07 BN Cắt gân nhị đầu làm Tenodesis: 02/07BN Gân dưới vai rách bán phần được khâu vào mấu động bé bằng một neo đôi: 07/07BN + Thương tổn phối hợp: Khâu sụn viền trước: 02/07 BN Khâu SLAP bằng 2 chỉ neo: 02/07BN. Mài mỏm cùng vai: 07/07 Khâu gân trên gai và dưới gai: một hàng: 4BN hai hàng: 2BN 3.4 Kết quả điều trị: - Sau mổ: một BN vỡ mảnh canul nhựa vào trong khớp vai. Một BN vỡ phần neo sinh học vào trong khớp. Hai BN được lấy mảnh vỡ ra ngoài thuận lợi. Không tổn thương TK, mạch máu trong, sau mổ; 100% BN liền sẹo vết mổ kỳ đầu, hài lòng với cuộc mổ. Thời gian nằm viện trung bình: 06 ngày. - Kết quả gần: + Nghiên cứu thực hiện trên 07BN, thời gian theo dõi trung bình 10 tháng. Chỉ số Constant trung bình trước mổ: 57 thấp hơn hẳn so với chỉ số Constant sau mổ: 73.5. VAS trước mổ 4,5 sau mổ giảm còn 1,1. Có hai BN còn hạn chế động tác xoay ngoài và nâng tay cao qua đầu. 4. BÀN LUẬN: 4.1. Đặc điểm BN: Tác cả các BN là nam giới, tuổi trung niên, tuổi từ 49 đến 57, chủ yếu đau bên tay thuận và không rõ yếu tố chấn thương. Tổn thương rách gân do sử dụng quá mức, lặp lại. điều này phù hợp với Tăng Hà Nam Anh [1]. Những BN rách thoái hóa thường lớn tuổi hơn và tổn thương phối hợp và có triệu chứng rách chóp xoay trước trên mạn tính [9]. Những BN rách gân dưới vai đơn thuần thường trẻ tuổi, lâm sàng có đau phía trước khớp vai cấp tính [9]. 4.2. Chẩn đoán 4.2.1 Lâm sàng: Liff-off test chỉ dương tính khi ¾ trên gân bị tổn thương, nên không phải là nghiệm pháp tốt cho đánh giá rách phần trên gân, nghiệm pháp Napoleon xuất hiện trạng thái trung gian nếu rách 50%-60% (có giá trị trong ước tính tỷ lệ gân rách). Nghiệm pháp nhạy nhất đánh giá gân dưới vai, đặc biệt trong rách bán phần phía trên gân là bear-hug test [12,13]. 4.2.2. MRI: Có tương phản từ giúp chẩn đoán rách gân dưới vai dễ dàng hơn, đặc biệt những BN có rách bán phần gân dưới vai. Khi trên MRI có hình ảnh bán trật gân nhị đầu, nhiều khả năng BN có rách gân dưới vai. 4.2.3 Nội soi: Tổn thương hay gặp là rách toàn bề dày phần gân trên hơn là đứt toàn bộ nơi bám gân[9]; ít gặp bán trật, trật, nhị đầu. Trường hợp có trật nhị đầu thì làm thủ thuật cố định gân (biceps tenodesis) khi nhị đầu không ổn định. Thoái hóa gân dưới vai sẽ bắt đầu từ bề mặt khớp phần trên của gân dưới vai nên rách bán phần gân dưới vai dễ dàng quan sát tại nơi bám gân dưới vai và mấu chuyển bé[7]. 4.3 Kỹ thuật: Để tiếp cận vị trí rách gân, dễ quan sát: dọn sạch mô mềm xung quanh, dạng và xoay trong cánh tay làm chùng gân dưới vai sẽ làm tăng khả năng quan sát nơi bám gân dưới vai. Chúng tôi đồng ý với tác giả Ian K. Y. Lo và cs [7], dạng và xoay trong cánh tay sẽ làm nâng các sợi gân dưới vai cho phép quan sát rõ hơn nơi bám gân dưới vai. Trong mổ rách gân dưới vai, thao tác gần mỏm quạ có nhiều cấu trúc dễ bị tổn thương cần chú ý. Quanh mỏm quạ: thần kinh nách, động mạch cánh tay, thần kinh cơ bì, thân nhì trước ngoài của đám rối thần kinh cánh tay. Những cấu trúc này cách mỏm quạ 25mm theo nghiên cứu trên xác[12]. Phần 2: Phẫu thuật nội soi và thay khớp 125 4.3.1 Gân nhị đầu Bán trật gân nhị đầu được đánh giá bằng cách xoay trong, ngoài. Kéo phần gân trong rãnh nhị đầu vào trong khớp(có thể gặp thoái hóa hay rách bán phần gân này) kiểm tra. Đặc biệt chú ý tới chỗ nối với dây hãm phía trong (medial sling, là chỗ hợp lại của gân dưới vai, gân trên gai, dây chằng ổ chảo cánh tay trên, dây chằng quạ cánh tay) hay xảy ra bất thường gân nhị đầu. Nếu gân nhị đầu nằm phía sau các sợi gân dưới vai gợi ý một bán trật gân nhị đầu. Chỉ định cố định gân nhị đầu: thoái hóa trên 50% bề dày hoặc mất vững gân nhị đầu. luôn luôn cố định gân nhị đầu cùng với khâu gân dưới vai rách. 4.3.2 Khoang dưới mỏm quạ Khoang dưới mỏm quạ là khỏang cách giữa đỉnh mỏm quạ và chỏm xương cánh tay. Bình thường 8,4 đến 11mm. hẹp khoang này khi <6mm [3,4,7,12,13,15]. Để đánh giá khoang dưới mỏm quạ, cánh tay gấp khép xoay trong sẽ đưa mỏm quạ gần chỏm xuống cánh tay nhất. nếu có hẹp mỏm quạ tương ứng triệu chứng lâm sàng, tạo hình mỏm quạ. Khi xoay ngoài, trong xương cánh tay thấy đỉnh mỏm quạ lồi lên phía sau xương cánh tay, hiệu ứng roller-wringer tạo ra tổn thương TUFF (tensile undersurface fiber failure ) Bình thường với đầu shaver 4mm di chuyển dễ dàng giữa mặt trước gân dưới vai và đỉnh mỏm quạ là bộc lộ vừa đủ (7mm). khoảng cách này <6mm cần tạo hình mỏm cùng[4,9]. Trường hợp rách lớn co rút gân dưới vai, không còn mốc gân dưới vai, khoảng cách tại điểm 1h47 trên ổ chảo(coi mặt ổ chảo như hình đồng hồ) là 21,5mm tính từ bờ sụn viền đến đỉnh mỏm quạ[3]. Khi bộc lộ đỉnh mỏm quạ luôn bảo tồn chỗ bám gân nhị đầu, quạ cánh taykhi tạo hình mỏm quạ mục đích bảo vệ đường khâu gân dưới vai. Đầu mài đi qua lối vào trước trên ngoài và trực tiếp phía trước của medial sling vào khoang dưới mỏm quạ. 4.4 Kết quả điều trị: Điều trị bảo tồn hội chứng chèn ép dưới quạ bắt đầu bằng sửa đổi phương thức hoạt động, tránh tư thế gấp và xoay trong. Các bài tập làm mạnh cơ chóp xoay và cố định xương bả vai. Tác giả Venuthurla R.Reddy (2010) mổ mở cắt xương và chỉnh trục mỏm quạ để bảo tồn nơi bám gân quạ cánh tay và nhị đầu. Khi có rách gân dưới vai, mục tiêu phẫu thuật là phục hồi lại khoang dưới mỏm quạ và loại bỏ bắt chẹn giữa mỏm cùng và gân dưới vai. Nội soi khâu gân dưới vai tiến hành ngay trước các thủ thuật khác: vì khu vực làm việc khá chật hẹp và sưng nề càng tăng lên sau đó sẽ cản trở thao tác. a. Tạo hình mỏm quạ (phía sau ngoài, thẳng hàng với nơi bám gân dưới vai vào mấu động nhỏ) được thực hiện trước sẽ làm rộng khu vực khâu gân dưới vai. Sau khi khâu gân xong sẽ đánh giá lại hướng và độ rộng khoang dưới mỏm quạ (Burkhart, 2003). b. Cắt gân nhị đầu trước, c. Tạo không gian cho đóng neo và khâu gân dưới vai, cố định gân nhị đầu. Với mục tiêu phục hồi lại khoang dưới mỏm quạ và loại bỏ bắt chẹn giữa mỏm cùng và gân dưới vai. Mổ mở rách gân dưới vai đơn thuần có kết quả chấp nhận được nhưng không xử trí được các tổn thương khác như nội soi. Hơn nữa, nội soi ít nguy cơ tổn thương thần kinh nách, thời gian phục hồi nhanh hơn. Nội soi giúp đánh giá rách gân dưới vai, hẹp dưới mỏm quạ, bắt chẹn dưới quạ. Trong đó hẹp dưới mỏm quạ và bắt chẹn dưới quạ thường đi kèm rách gân dưới vai và góp phần và cơ chế bệnh sinh rách gân theo tổn thương TUFF(tensile undersurface fiber failure) bởi hiệu ứng lăn và ép[7]. + Nghiên cứu thực hiện trên 07BN, thời gian theo dõi trung bình 10 tháng (tháng). Chỉ số VAS và Constant trước mổ trung bình: 57 thấp hơn hẳn so với chỉ số Constant sau mổ: 73.5. VAS trước mổ 4,5 sau mổ giảm còn 1,1. Có hai BN còn hạn chế động tác cxoay ngoài và nân tay cao qua đầu. Đa số rách gân dưới vai do thoái hóa liên quan đến 1/3 trên gân phía mặt khớp[7], phù hợp nhất với nội soi. Rách hoàn toàn gân cấp tính(ít hơn 6 tháng) dễ lành hơn mạn tính. Mặc dù nội soi có thời gian phục hồi nhanh hơn do ít xâm lấn, nhưng quá trình lành gân vẫn đủ thời gian như mổ mở [9]. 5. KẾT LUẬN: Qua đánh giá kết quả bước đầu 07BN khâu gân dưới vai qua nội soi vai từ 08/2009 đến 03/ 2015: 5.1 Sau mổ các BN liền sẹo tốt, thời gian nằm viện trung bình: 06 ngày. Có 02 BN vỡ mảnh nhựa cannul vào trong khớp vai được lấy ra thuận lợi, 5.2 Chỉ số VAS và Constant sau mổ cải thiện rõ so với trước mổ. 5.3 Khâu gân qua nội soi khớp vai tốt hơn so với mổ mở. PTNS giúp xử trí thêm các tổn thương phối hợp. TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2016 126 Tài liệu tham khảo 1. Tăng Hà Nam Anh (2008): “ Khâu gân dưới vai qua nội soi khớp vai nhân ba trường hợp”. Y học TP Hồ Chí Minh, tập 12, phụ bản của số 1, pp:310-312. 2. Tăng Hà Nam Anh, Dương Đình Triết (2010). “Diện bám chóp xoay của người Việt Nam: giải phẫu học và ứng dụng lâm sàng”. Tạp chí Y học Việt Nam,Tổng Hội Y Dược Học Việt Nam,tập 374 (2), tr 445-452 3. Allen Tham, Robert Purchase and John D. Kelly IV (2009): “The Relation of the Coracoid Process to the Glenoid: An Anatomic Study Arthroscopy: The Journal of Arthroscopic and Related Surgery, Vol 25, No 8 (August), 2009: pp 846-848 4. Christopher R. Adams, John D. Schoolfield and Stephen S. Burkhart (2008): “The Results of Arthroscopic Subscapularis Tendon Repairs”. Arthroscopy: The Journal of Arthroscopic and Related Surgery, Vol 24, No 12 (December),: pp 1381-1389 5. Daniel J. Wheeler, Tigran Garabekyan, Roberto Lugo, Jenni M. Buckley, Christopher Jones, Marielena Lotz, Jeffery C. Lotz, and C. Benjamin Ma (2008): “Biomechanical Comparison of Transosseous Versus Suture Anchor Repair of the Subscapularis Tendon” Arthroscopy: The Journal of Arthroscopic and Related Surgery, Vol 24, No 12 (December),: pp 1381-1389 6. Ide J, Tokiyoshi A, Hirose J, Mizuta H (2008): “An antomic study of the subscapularis insertion to the humerus: the subscapularis footprint”. Arthroscopy: the journal of arthroscopy and related surgery, vol 24, No 7 (july): pp 749-753. 7. Ian K. Y. Lo and Stephen S. Burkhart (2003): “The Etiology and Assessment of Subscapularis Tendon Tears: A Case for Subcoracoid Impingement, the Roller-Wringer Effect, and TUFF Lesions of the Subscapularis” Arthroscopy: The Journal of Arthroscopic and Related Surgery, Vol 19, No 10 (December), 2003: pp 1142-115 8. Jae Chul Yoo, Yong Girl Rhee, Sang Jin Shin, Yong Bok Park, Michelle H. McGarry, Bong Jae Jun and Thay Q. Lee: “Subscapularis Tendon Tear Classification Based on 3-Dimensional Anatomic Footprint: A Cadaveric and Prospective Clinical Observational Study”. Arthroscopy: The Journal of Arthroscopic and Related Surgery, Vol 31, No 1 (January), 2015: pp 19-28 9. Jeff A.Fox, Mayo A. Noerdlinger and Anthony A. Romeo (2002): “ Arthroscopic Subscapularis Repair”. Operative Techniques in Orthopaedics, Vol 12, No, 2002: pp 209-217. 10. Lin Lin • Hui Yan • Jian Xiao • Zhenming He • Hao Luo • Xu Cheng • Yingfang Ao • Guoqing Cui (2014): “The diagnostic value of magnetic resonance imaging for different types of subscapularis lesions”. European Society of Sports Traumatology, Knee Surgery, Arthroscopy (ESSKA) 16 September 11. Ryuzo Arai, Hiroyuki Sugaya, Tomoyuki Mochizuki, Akimoto Nimura , Joji Moriishi and Keiichi Akita: “ Subscapularis Tendon Tear: An Anatomic and Clinical Investigation Arthroscopy: The Journal of Arthroscopic and Related Surgery, Vol 24, No 9 (September), 2008: pp 997-1004 12. Stephen S. Burkhart and Paul C. Brady (2006): “Arthroscopic Subscapularis Repair: Surgical Tips and Pearls A to Z”. Arthroscopy: The Journal of Arthroscopic and Related Surgery, Vol 22, No 9 (September), 2006: pp 1014-1027 13. Stephen S. Burkhart, Armin M. Tehrany (2002): “Arthropscopic Subscapularis Tendon Repair: Technique and Preliminary Results”. Arthroscopy: The Journal of Arthroscopic and Related Surgery, Vol 18, No 5 (August), 2002: pp 454- 463 14. T. Bradley Edwards, Gilles Walch, François Sirveaux, Daniel Molé, Laurent Nové-Josserand, Aziz Boulahia (2006): “Repair of Tears of the Subscapularis”. J Bone Joint Surg Am. 2006;88:1-10. 15. Venuthurla R. Reddy, Tosan Okoro, Winston Rennie & Amit Modi (2006): “Coracoid impingement treated with corrective osteotomy A case report”. British Elbow and Shoulder Society. Shoulder & Elbow 2010, vol 2, pp 103–106.
File đính kèm:
ket_qua_buoc_dau_phau_thuat_noi_soi_dieu_tri_rach_gan_duoi_v.pdf

