Kết quả bước đầu phẫu thuật nội soi cắt thùy phổi điều trị ung thư phổi nguyên phát không tế bào nhỏ tại Bệnh viện Phổi Trung Ương

Mục tiêu: Đánh giá kết quả sớm của phẫu thuật nội soi lồng ngực (PTNSLN) cắt thùy phổi do ung thư phổi

nguyên phát giai đoạn sớm.

Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 254 bệnh nhân (BN) ung thư phổi không tế bào nhỏ (UTPKTBN)

giai đoạn I-IIIA được điều trị PTNSLN cắt thùy phổi tại Bệnh viện Phổi Trung ương, từ tháng 6 năm 2015 đến

tháng 12 năm 2018. Thực hiện PTNSLN dựa theo kỹ của TS. BS. Hyoeng Ryul Kim (Hàn Quốc) từ chuẩn bị BN,

trang thiết bị, thực hiện kỹ thuật tới đánh giá kết quả sau mổ. Nghiên cứu hồi cứu, không đối chứng.

Kết quả: Có 254 trường hợp PTNSLN cắt thùy phổi do ung thư phổi được thực hiện tại Bệnh viện Phổi

Trung ương. Trong đó 231 trường hợp thực hiện PTNSLN hoàn toàn, 23 trường hợp thực hiện PTNSLN không

hoàn toàn do diễn biến không thuận lợi. Tuổi trung bình 58,64 (từ 34 - 85 tuổi), nam/nữ = 153/101. Trước mổ,

tất cả các BN đều được đánh giá chức năng hô hấp, chụp cắt lớp vi tính độ phân giải cao có tiêm thuốc

cản quang; sinh thiết ờng hợp chảy máu trong mổ chuyển sang mổ mở ngực nhỏ (a - VATS). 06 trường hợp

chảy máu sau mổ được mổ lại cầm máu kịp thời, sau mổ bệnh nhân ổn định. Sau giai đoạn hậu phẫu bệnh

nhân được chuyển điều trị hóa chất theo phác đồ chuẩn của hiệp hội Ung thư Hoa kỳ.

Kết luận: Phẫu thuật nội soi lồng ngực hoàn toàn cắt thùy phổi trong ung thư phổi đang được ứng dụng

rộng rãi được nhiều tác giả trên thế giới chứng minh qua các nghiên cứu với nhiều ưu điểm: xâm lấn tối thiểu;

giảm đau sau mổ, chức năng hô hấp sau mổ được phục hồi nhanh; rút ngắn thời gian nằm viện, biến chứng và

di chứng giảm so với mổ mở, thẩm mỹ cao.

pdf 7 trang phuongnguyen 120
Bạn đang xem tài liệu "Kết quả bước đầu phẫu thuật nội soi cắt thùy phổi điều trị ung thư phổi nguyên phát không tế bào nhỏ tại Bệnh viện Phổi Trung Ương", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Kết quả bước đầu phẫu thuật nội soi cắt thùy phổi điều trị ung thư phổi nguyên phát không tế bào nhỏ tại Bệnh viện Phổi Trung Ương

Kết quả bước đầu phẫu thuật nội soi cắt thùy phổi điều trị ung thư phổi nguyên phát không tế bào nhỏ tại Bệnh viện Phổi Trung Ương
PHỔI - LỒNG NGỰC 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
230 
KẾT QUẢ BƯỚC ĐẦU PHẪU THUẬT NỘI SOI CẮT THÙY PHỔI 
ĐIỀU TRỊ UNG THƯ PHỔI NGUYÊN PHÁT KHÔNG TẾ BÀO NHỎ 
TẠI BỆNH VIỆN PHỔI TRUNG ƯƠNG 
ĐINH VĔN LƯỢNG1, NGUYỄN LÊ VINH1, ĐINH VĔN TUẤN1, DƯƠNG XUÂN PHƯƠNG2, 
NGUYỄN SĨ KHÁNH1, ĐẶNG DUY ĐỨC1, NGUYỄN THÀNH LONG3, LÊ NGỌC THÀNH3 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Đánh giá kết quả sớm của phẫu thuật nội soi lồng ngực (PTNSLN) cắt thùy phổi do ung thư phổi 
nguyên phát giai đoạn sớm. 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 254 bệnh nhân (BN) ung thư phổi không tế bào nhỏ (UTPKTBN) 
giai đoạn I-IIIA được điều trị PTNSLN cắt thùy phổi tại Bệnh viện Phổi Trung ương, từ tháng 6 nĕm 2015 đến 
tháng 12 nĕm 2018. Thực hiện PTNSLN dựa theo kỹ của TS. BS. Hyoeng Ryul Kim (Hàn Quốc) từ chuẩn bị BN, 
trang thiết bị, thực hiện kỹ thuật tới đánh giá kết quả sau mổ. Nghiên cứu hồi cứu, không đối chứng. 
Kết quả: Có 254 trường hợp PTNSLN cắt thùy phổi do ung thư phổi được thực hiện tại Bệnh viện Phổi 
Trung ương. Trong đó 231 trường hợp thực hiện PTNSLN hoàn toàn, 23 trường hợp thực hiện PTNSLN không 
hoàn toàn do diễn biến không thuận lợi. Tuổi trung bình 58,64 (từ 34 - 85 tuổi), nam/nữ = 153/101. Trước mổ, 
tất cả các BN đều được đánh giá chức nĕng hô hấp, chụp cắt lớp vi tính độ phân giải cao có tiêm thuốc 
cản quang; sinh thiết ờng hợp chảy máu trong mổ chuyển sang mổ mở ngực nhỏ (a - VATS). 06 trường hợp 
chảy máu sau mổ được mổ lại cầm máu kịp thời, sau mổ bệnh nhân ổn định. Sau giai đoạn hậu phẫu bệnh 
nhân được chuyển điều trị hóa chất theo phác đồ chuẩn của hiệp hội Ung thư Hoa kỳ. 
Kết luận: Phẫu thuật nội soi lồng ngực hoàn toàn cắt thùy phổi trong ung thư phổi đang được ứng dụng 
rộng rãi được nhiều tác giả trên thế giới chứng minh qua các nghiên cứu với nhiều ưu điểm: xâm lấn tối thiểu; 
giảm đau sau mổ, chức nĕng hô hấp sau mổ được phục hồi nhanh; rút ngắn thời gian nằm viện, biến chứng và 
di chứng giảm so với mổ mở, thẩm mỹ cao. 
Từ khóa: Ung thư phổi không tế bào nhỏ, phẫu thuật nội soi cắt thùy phổi. 
ABSTRACT 
Early result of video assited thoracic surgery lobectomy in non small cell lung cancer 
at National Lung Hospital 
Objective: To evaluate the early results of Video Assited Thoracic surgery (VATS) lobectomy for earlyl 
stage lung cancer. 
Method: 254 patients with non-small cell lung cancer stage I - IIIa treated by VATS at National Lung 
Hospital, from June 2015 to December 2018. VATS apply technique’s Dr. Kim (Korean), included preparing 
patients and equipments; performing technique; evaluating patients after surgery. A prospective non - 
comparative clinical study. 
Results: 254 patients underwent VATS lobectomy at National Lung Hospital, from June 2015 to March 
2018. 231 patients was performed c - VATS, 23 patients was performed a - VATS, because of bleeding, large 
mediastinal lympho nodes, large tumour. The mean of age is 58,64 years (range 34 - 85 years), male/ female 
= 153/101. Before sugery, all of patients had results of lung function, high resolution computed tomography, 
pathology by biopsy, magnetic resonance imaging of brain. 244 patients had PET - CT and 20 patients had 
1
 Khoa Phẫu thuật - Bệnh viện Phổi Trung Ương 
2
 Khoa Giải phẫu bệnh - Bệnh viện Phổi Trung Ương 
3
 Khoa Gây mê hồi sức - Bệnh viện Phổi Trung Ương 
PHỔI - LỒNG NGỰC 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
231 
scintigraphy. Before sugery, 91 cases of lung cancer stage IA, 81 cases of stage IB, 25 cases of stage IIA, 
30 cases of stage IIB, 37 cases of stage IIIA. After sugery, 81 cases of lung cancer stage IA, 91 cases of stage 
IB. 24 cases of stage IIA, 33 cases of stage IIB, 25 cases of stage IIIA. The mean durations of operative time 
161.36 (90 - 270 min), intraoperative blood loss 94,05 (50 - 700ml), the mean durations of chest drainage: 
4.27 (1 - 11 days); the mean postoperative hospitalization 5.5 (3 - 21 days). 18 cases had bleeding in surgery 
and changed to a - VATS. Postsurgery, patients were treatmented chemotherapy following NCCN guideline. 
Conclusion: Thoracoscopic surgery lobectomy with many advantage such as minimal invasion, less pain, 
fast recovery, shorter hospital stay, less complication and greatly beauty compared open surgery so applied 
widely. 
Keywords: Non-small cell Lung cancer, Thoracoscopic lobectomy. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Ung thư phổi là bệnh lý ác tính thường gặp 
nhất, số BN mới mắc chiếm nhiều nhất trong tổng số 
các trường hợp mới mắc do ung thư, và tĕng trung 
bình 0.5% mỗi nĕm[1]. Cho đến nay, phẫu thuật ung 
thư phổi giai đoạn sớm, vẫn là phương pháp hiệu 
quả nhất kéo dài thời gian sống thêm cho BN. Tất cả 
các BN ung thư phổi có thể cắt bỏ trong phẫu thuật 
mở ngực kinh điển đều có thể cắt bỏ qua PTNSLN. 
Tuy nhiên, vấn đề còn bàn cãi ở đây là liệu phẫu 
PTNSLN cắt thùy phổi có ưu điểm hơn kỹ thuật kinh 
điển hay không, về tính an toàn và hiệu quả điều trị 
ung thư. 
Trên thế giới, PTNSLN cắt thùy phổi lần đầu 
tiên được thực hiện nĕm 1992 bởi Mc Kenna[2]. 
Tại Việt Nam, kỹ thuật này được thực hiện từ nĕm 
2002, tại Bệnh viện Việt Đức, Bệnh viện 108, Bệnh 
viện Phổi Trung ương, Bệnh viện Bình Dân,... 
Kết quả bước đầu cho thấy các BN được PTNSLN 
cắt thùy phổi, so với mổ mở có nhiều ưu điểm rõ 
ràng: Vết mổ nhỏ hơn, ít đau sau mổ, thời gian hồi 
phục nhanh, thời gian nằm viện ngắn hơn[2,6]. 
Tuy nhiên, số BN được phẫu thuật bằng phương 
pháp này còn ít, các nghiên cứu với cỡ mẫu chưa 
đủ lớn. 
Tại Bệnh viện Phổi Trung ương, PTNSLN cắt 
thùy phổi do ung thư phổi được thực hiện từ tháng 6 
nĕm 2015, với số BN được phẫu thuật trung bình là 
70 - 80 trường hợp mỗi nĕm. Vì vậy, chúng tôi tiến 
hành nghiên cứu này, nhằm đánh giá kết quả bước 
đầu của phẫu thuật nội soi lồng ngực cắt thùy phổi 
do ung thư phổi nguyên phát giai đoạn sớm, tại khoa 
Phẫu thuật lồng ngực, Bệnh viện Phổi Trung ương, 
từ tháng 6 nĕm 2015 đến tháng 3 nĕm 2018. 
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Gồm 254 BN được chẩn đoán UTPKTBN giai 
đoạn I - IIIa được điều trị PTNSLN cắt thùy phổi tại 
Bệnh viện Phổi Trung ương từ tháng 6 nĕm 2015 
đến tháng 12 nĕm 2018. 
Tiêu chuẩn lựa chọn BN 
BN được chẩn đoán ung thư phổi không tế bào 
nhỏ giai đoạn I - IIIa, được điều trị PTNSLN cắt thùy 
phổi tại khoa Phẫu thuật lồng ngực Bệnh viện Phổi 
Trung ương, có hồ sơ bệnh án đầy đủ, rõ ràng. 
Tiêu chuẩn loại trừ 
BN được phẫu thuật nhằm mục đích chẩn đoán, 
không phải để điều trị, hồ sơ bệnh án không đầy đủ 
rõ ràng. 
Thiết kế nghiên cứu 
Nghiên cứu mô tả, hồi cứu, không đối chứng. 
Quy trình điều trị, kỹ thuật mổ 
Tất cả BN của chúng tôi đều được đánh giá, 
chẩn đoán trước mổ, thực hiện mổ và chĕm sóc sau 
mổ dựa theo quy trình kỹ thuật mà TS.BS. Hyoeng 
Ryul Kim và các tác giả thế giới đề cập[1,4,6], được 
Bộ Y tế và Bệnh viện cho phép thực hiện. 
BN được khám lâm sàng, làm các xét nghiệm 
cơ bản đánh giá chức nĕng các cơ quan, đặc biệt 
chức nĕng hô hấp cho phép cắt thùy phổi hay 
không. 
Sinh thiết u phổi xuyên thành ngực dưới cắt lớp 
vi tính chẩn đoán giải phẫu bệnh. 
Chụp CT - scanner lồng ngực độ phân giải cao, 
MRI sọ não, PET/CT, Xạ hình xương để xác định 
giai đoạn bệnh trước mổ. 
Thực hiện PTNSLN cắt thùy phổi bệnh lý, bóc 
hạch trung thất: TS.BS. Hyoeng Ryul Kim thực hiện 
vét hạch theo từng chặng, ngay cả không có hạch. 
Với BN của chúng tôi phát hiện ở gia đoạn sớm, bóc 
hạch theo hướng dẫn của PET/CT hoặc tổn thương 
hạch nhìn thấy trong mổ. 
Sau mổ BN được chĕm sóc hậu phẫu theo 
quy trình chĕm sóc BN mổ ngực, chuyển khoa 
Ung Bướu để điều trị bổ trợ hóa chất. 
PHỔI - LỒNG NGỰC 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
232 
Kỹ thuật mổ 
 + Gây mê nội khí quản 2 nòng. 
 + Trocar 1 (camera): 10mm, LS 7/8 đường 
nách giữa; trocar 2 (10mm): LS 5 - 7; đường nách 
sau; đường rạch (4 - 6cm): LS 4/5, trước bên. Không 
dùng dụng cụ banh sườn. 
 + Động mạch được thắt bằng chỉ lanh. Một số 
trường hợp động mạch cắt bằng stapler và tĩnh 
mạch phổi được cắt bằng stapler 2,0 hoặc 2,5mm; 
phế quản hoặc nhu mô phổi được cắt bằng stapler 
3,5 hoặc 4,5mm. 
 + PTNSLN hoàn toàn (c - VATS): đường mổ 
dưới 5cm, nhìn hoàn toàn trên màn hình video, 
không dùng dụng cụ banh sườn. 
 + PTNSLN không hoàn toàn (a - VATS): 
đường mổ 5 - 10cm, có dùng dụng cụ banh sườn, 
nhìn trực tiếp qua vết mổ kết hợp với nhìn trên màn 
hình video. 
 + Khi tiến hành VATS cắt thùy phổi thì có một 
số điểm khác với phẫu thuật mở kinh điển như: bộc 
lộ rốn phổi đòi hỏi cả hai mặt trước và sau khác với 
mổ mở thường là bóc tách từ rãnh gian thùy; các 
thành phần được cắt theo trình tự “cái nào nhìn thấy 
trước, bộc lộ được trước thì cắt trước” không như 
mổ mở kinh điển là: tĩnh mạch hay động mạch trước 
rồi mới cắt phế quản sau cùng. 
Phương pháp thu thập thông tin 
Hồi cứu hồ sơ bệnh án; số liệu thu thập theo 
mẫu bệnh án nghiên cứu thống nhất. 
Các thông tin cần thu thập 
Tuổi, giới, kết quả mô bệnh học, giai đoạn 
bệnh. 
Phương pháp mổ, vị trí thùy phổi được phẫu 
thuật, thời gian phẫu thuật, lượng máu mất, thời gian 
dẫn lưu màng phổi, thời gian nằm viện sau mổ. 
Biến chứng sau mổ: Viêm phổi, xẹp phổi, tràn 
mủ màng phổi, sốc nhiễm khuẩn, chảy máu sau mổ, 
rò khí kéo dài, biến chứng tim mạch, tử vong, phẫu 
thuật nội soi hoàn toàn không thực hiện được 
chuyển mổ nội soi không hoàn toàn. 
Đánh giá kết quả: 
 + Kết quả tốt: Thực hiện thành công phẫu 
thuật a-VATS, không tai biến hay biến chứng. 
 + Kết quả trung bình: Thực hiện thành công 
phẫu thuật a - VATS với các tai biến nhỏ được xử trí 
tốt bằng nội soi. Các biến chứng sau mổ nhưng, 
không phải mổ lại. 
 + Kết quả xấu: Không thực hiện được phẫu, 
thuật noi soi, phải chuyển mở ngực. Các biến chứng 
sau mổ như: chảy máu, xẹp phổi, mủ màng phổi, 
phải mổ lại xử trí thương tổn. 
Phương pháp xử lý và phân tích số liệu 
Số liệu được xử lý bằng phần mềm SPSS 20.0. 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng UTPKTBN 
Tuổi trung bình là 58,64 tuổi (34 - 72 tuổi); 
đa số BN ở độ tuổi >49 (90,55%). Tỉ lệ nam/ nữ là 
92/68 (1.5:1). 
Bảng 1. Triệu chứng lâm sàng 
Triệu chứng Tần số (n) Tỉ lệ (%) 
Ho khan 61 24 
Ho ra máu 28 11,02 
Đau ngực 55 21,65 
Khó thở 51 20,07 
Sốt 48 18,9 
Không triệu chứng 172 67,71 
Nhận xét: Triệu chứng lâm sàng hay gặp là ho 
khan (22,5%). Có 65,6% BN không có triệu chứng. 
Bảng 2. Hình ảnh tổn thương trên CT - scanner 
Hình ảnh Tần số (n) Tỉ lệ (%) 
Vị trí tổn 
thương 
Thùy trên trái 53 20,86 
Thùy dưới trái 48 18,90 
Thùy trên phải 73 28,74 
Thùy giữa phải 24 9,45 
Thùy dưới phải 56 22,05 
Kích thước u X ± SD (Min, Max): 2,96 ± 0,94 (1,5-5,8cm) 
Hạch 
Hạch rốn phổi 66 26 
Hạch trung thất 81 31,9 
Không 127 50 
Nhận xét: Tổn thương có thể ở tất cả các vị trí, 
gặp nhiều nhất ở thùy trên phải. 
PHỔI - LỒNG NGỰC 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
233 
Bảng 3. Kết quả mô bệnh học 
Giải phẫu bệnh Tần số (n) Tỉ lệ (%) 
Ung thư biểu mô vảy 46 18,10 
Ung thư biểu mô tuyến 195 76,8 
Ung thư biểu mô tuyến vảy 9 3,54 
U carxinoid 4 2.5 
Nhận xét: 100% BN sinh thiết u phổi dưới 
hướng dẫn cắt lớp vi tính chẩn đoán mô bệnh học; 
với ung thư biểu mô tuyến chiếm tỉ lệ cao nhất 
(76,8%). Có giải phẫu bệnh thì 100% BN được chụp 
MRI/CT có tiêm thuốc tương phản, 244 BN được 
chụp PET/CT, 20 BN chụp xạ hình xương toàn thân. 
Kết quả sớm VATS cắt thùy phổi trong UTPKTBN 
100% BN được gây mê nội khí quản ống 2 
nòng để làm xẹp phổi bệnh lý, gây tê ngoài màng 
cứng trước mổ (60,63%). 
Bảng 4. Kỹ thuật mổ, thời gian mổ, lượng máu mất, 
dẫn lưu 
Đặc điểm Tần số (n) Tỉ lệ (%) 
Phương 
pháp mổ 
c - VATS 231 90,94 
a - VATS 23 9,06 
Kỹ thuật mổ 
Cắt thùy phổi 242 95,3 
Cắt phân thùy, 
cắt u 12 4,7 
Thời gian 
mổ (phút) 
X ± SD 
(Min - Max) 
161,36 ± 37,27 (90 -270) 
Lượng máu 
mất (ml) 
X ± SD 
(Min - Max) 
94,09 ± 100,65 (50 - 700ml) 
Số lượng 
dẫn lưu 
1 dẫn lưu 246 96,85 
2 dẫn lưu 8 3,15 
Nhận xét: Thời gian mổ trung bình là 161 phút, 
ngắn nhất 90 phút, dài nhất 270 phút. Lượng máu 
mất trung bình là 94ml. Đa số các trường hợp BN 
chỉ cần đặt 1 dẫn lưu (96,85%). 
Bảng 5. Thời gian rút dẫn lưu và nằm viện sau mổ 
Đặc điểm Tần số (n) Tỉ lệ (%) 
Thời gian rút dẫn 
lưu 
Dưới 7 ngày 231 90,95 
Trên 7 ngày 23 9,05 
Trung bình 
4,27 ± 1,92 
(từ 1-11 ngày) 
Thời gian nằm viện 
sau mổ 
Dưới 7 ngày 124 77,17 
Trên 7 ngày 58 22,83 
Trung bình 
5,5 ± 2,19 
(Từ 3 - 21 ngày) 
Nhận xét: Thời gian rút dẫn lưu trung bình là 4,3 
ngày. Thời gian nằm viện sau mổ là 5.5 ngày. 
Bảng 6. Tai biến và biến chứng 
Biến chứng Tần số (n) Tỉ lệ (%) Xử trí 
Chuyển mổ 
a - VATS 
14 8,7 - 
Chảy máu 
18 7,08 
Mổ lại, bơm rửa 
màng phổi 
Rò khí kéo dài 4 1,57 Hút áp lực thấp 
Rò dưỡng chấp 
màng phổi 6 2,36 
Mổ lại 
Mổ lại 5 1,97 - 
Tử vong 0 0 
Nhận xét: 5 BN biến chứng sau mổ; có 3 BN có 
tai biến chảy máu sau mổ, chỉ có 2 trường hợp phải 
mổ lại cầm máu; 1 trường hợp rò dưỡng chấp phải 
mổ lại khâu lỗ rò. 
Bảng 7. Đánh giá giai đoạn trước và sau mổ 
Giai 
đoạn 
Trước mổ Sau mổ 
Tần số (n) Tỉ lệ (%) Tần số (n) Tỉ lệ (%) 
Ia 91 35,8 81 32 
Ib 81 32 91 35,8 
IIa 25 9,8 24 9,45 
IIb 30 11,8 33 13 
IIIa 27 10,6 25 9,84 
Nhận xét: Có 15 trường hợp có sự khác biệt về 
đánh giá giai đoạn trước và sau mổ. Sự khác biệt 
không có ý nghĩa thống kê. 
Kết quả sớm sau phẫu thuật 
Tốt chiếm 94,1%; không tốt 5,9%. 
BÀN LUẬN 
Trong vòng 21 tháng, từ tháng 6 nĕm 2015 
đến tháng 12 nĕm 2018, tại khoa Phẫu thuật 
lồng ngực Bệnh viện Phổi Trung ương có 254 BN 
ung thư phổi nguyên phát không tế bào nhỏ, 
giai đoạn sớm được PTNSLN cắt thùy phổi. Với tuổi 
đời trung bình 58,64; nam/ nữ 1,5/1. Tỷ lệ này 
cũng tương đương với các tác giả trong và ngoài 
nước như Jesús Loscertales (2010): 349 ca; nam/nữ 
= 1,6/1; tuổi trung bình 59,7[2]. Trần Minh Bảo Luân 
(2012): 15 ca; Nam/nữ = 2/1; tuổi trung bình 65 ± 
8,3[2]; Vĕn Tần (2002 - 2008): 25 ca; nam/nữ ± 1/1; 
tuổi trung bình 58,09[5]. Điều này cũng phù hợp với 
dịch tễ bệnh ung thư phổi; tuy nhiên, do công tác 
tuyên truyền, tư vấn sức khỏe cho BN trong những 
nĕm gầy đây được nâng cao, góp phần quan trọng 
làm giảm tỷ lệ BN đến viện vào giai đoạn muộn của 
PHỔI - LỒNG NGỰC 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
234 
bệnh. Theo Xihao Sui nghiên cứu trên 105 BN cao 
tuổi bị ung thư phổi được mổ VATS cắt thùy phổi 
thấy khoảng 71% các trường hợp mới được chẩn 
đoán xảy ra ở BN trên 70 tuổi, trong đó hơn 1/3 là 
80 tuổi hoặc cao hơn trong nĕm 2005 - 2009. 
Câu hỏi liệu một liệu trình điều trị là cần thiết cho 
dân số ngày càng tĕng của BN cao tuổi bị ung thư 
phổi giai đoạn sớm. Các BN cao tuổi bị ung thư phổi 
ở giai đoạn sớm có nhiều khả nĕng có thể trạng kém 
và nhiều bệnh kèm theo dẫn đến không sẵn sàng 
hoặc không thể can thiệp phẫu thuật, ngay cả khi 
thực hiện mổ VATS, tuy nhiên, nghiên cứu này cũng 
chỉ ra rằng, can thiệp VATS cắt thuỳ phổi trong ung 
thư phổi người cao tuổi là chỉ định, cơ hội tốt nhất 
giúp kéo dài thời gian sống không bệnh của BN[6]. 
Y vĕn cũng chỉ rõ triệu chứng lâm sàng bệnh 
ung thư phế quản không rầm rộ như các bệnh lý 
viêm nhiễm khác tại phổi, màng phổi, trong nghiên 
cứu chúng tôi gặp tới 66% BN không có triệu chứng; 
số còn lại hay gặp là ho khan. Như vậy, việc khám 
sức khoẻ định kỳ là rất cần thiết, có thể sàng lọc 
ung thư phổi sớm qua chụp xquang phổi chuẩn, 
CT - scanner ngực liều thấp, soi phế quản huỳnh 
quang gây tê có sinh thiết. Từ đó có thể can thiệp 
mổ nội soi sớm, đem lại kết quả khả quan. 
Tất cả các BN của chúng tôi đều được đánh 
giá, chẩn đoán bệnh theo quy trình; được đánh giá 
tổng thể tất cả các cơ quan, đặc biệt đo chức nĕng 
hô hấp, soi phế quản huỳnh quang, chụp cắt lớp vi 
tính độ phân giải cao có tiêm thuốc cản quang đánh 
giá khối u và hạch trung thất (kích thước khối u nhỏ 
dưới 6cm, có 50% không có hạch rốn phổi hay trung 
thất); 100% BN được sinh thiết xuyên thành ngực 
dưới hướng dẫn của cắt lớp vi tính chẩn đoán mô 
bệnh học trước mổ là ung thư, tỷ lệ ung thư biểu mô 
tuyến chiếm tỷ lệ cao nhất (76,8%) điều này phù hợp 
với dịch tễ ung thư phổi nguyên phát (Xizhao Sui 
cũng thống kê thấy có 72% ung thư biểu mô tuyến[6]; 
các BN đều được chụp cộng hưởng từ sọ não; 
244 BN được chụp PET/CT; 20 BN không có bảo 
hiểm được đánh giá chụp xạ hình xương toàn thân. 
Việc đánh giá giai đoạn trước mổ rất quan trọng, 
giúp chúng ta chọn lựa phương pháp mổ, tiên lượng 
cuộc mổ cũng như định hướng điều trị bổ trợ sau 
mổ. điều này được nhiều tác giả trên thế giới đề cập 
đến[1,2,6]. 
Chúng tôi tiến hành mổ c - VATS dựa theo kỹ 
thuật của TS. BS. Hyoeng Ryul Kim, với đường mở 
ngực nhỏ trước bên, và 1 trocart cho camera, thời 
gian đầu mới thực hiện chúng tôi mở thêm 1 trocart 
LS V - VI đường nách sau để vén phổi, sau đó 
chúng tôi chỉ thao tác qua đường mở ngực nhỏ (như 
tác giả Xizhao Sui thực hiện[6]). Tiến tới chúng tôi 
thực hiện phẫu thuật nội soi cắt thuỳ phổi 1 lỗ, 
đây cũng là tiến bộ vượt bậc trong PTNSLN. Với 53 
trường hợp cắt thùy trên phổi trái, 48 trường hợp 
thùy dưới phổi trái, 73 trường hợp thùy trên phổi 
phải, 24 trường hợp thùy giữa phổi phải, 56 trường 
hợp thùy dưới phổi phải. Trong qua trình phẫu tích, 
những hạch rốn phổi được bóc hoặc gạt lên phần 
phổi bỏ đi. Bóc tất cả những hạch trung thất 
mà được định vị trước mổ bằng CT - scanner và 
PET/CT, cũng như hạch nhìn thấy, nghi ngờ trong 
mổ. Trường hợp PET/CT không thấy hạch tổn 
thương, chúng tôi vẫn lấy hạch làm giải phẫu bệnh 
để đánh giá giai đoạn sau mổ. Cũng đã nhiều tranh 
cãi về việc vét hạch hay bóc hạch, tuy nhiên chưa có 
báo cáo thống kê nào khẳng định kỹ thuật nào lợi 
hơn về mặt ung thư học. Theo kinh nghiệm, chúng 
tôi thấy việc vét tất cả các chặng hạch thường làm 
cuộc mổ kéo dài, hậu phẫu nặng nề, nguy cơ tai 
biến và biến chứng cao hơn. BN của chúng tôi ở giai 
đoạn sớm, giai đoạn đầu mới thực hiện PTNSLN 
cắt thùy phổi nên chúng tôi thực hiện bóc hạch. 
Thống kê của chúng tôi cũng tương tự như các tác 
giả khác, Vĕn Tần (2002 - 2008): 25 ca; trên phải 
(48%); trên trái (24%); Trần Minh Bảo Luân (2012): 
15 ca; Dưới trái (47%); KT khối u 4 ± 0,5; hạch rốn 
phổi (46%); hạch trung thất (20%). Jesús 
Loscertales (2010): 349 ca; Trên phải (33,2%); trên 
trái (20%). Xizhao Sui (2015; n=105) trên phải chiếm 
chủ yếu (31,5%). 
Đa số BN phẫu thuật chúng tôi đều gây tê ngoài 
màng cứng trước mổ (60,63%). Có 12 trường hợp 
tuổi cao (70 - 85 tuổi), có rối loạn thông khí tắc 
nghẽn (FEV1 < 60%), khối u nhỏ < 2cm, không có 
hạch trung thất (đánh gia qua PET/CT), chúng tôi 
quyết định mổ nội soi cắt tối thiểu phần phổi chứa 
khối u, đảm bảo hậu phẫu thuận lợi. Nghiên cứu của 
chúng tôi có 23 trường hợp chuyển mổ a - VATS do 
nhận thấy diễn biến mổ không thuận lợi, đây cũng là 
những trường hợp mổ đầu tiên của nghiên cứu, với 
phương tiện, trang thiết bị còn thiếu, kinh nghiệm mổ 
VATS cắt thùy phổi chưa nhiều. Về thời gian phẫu 
thuật cũng là một trong những tiêu chí quan trọng để 
đánh giá kết quả cuộc mổ. Thời gian phẫu thuật 
trung bình của chúng tôi 161,36 phút, dài hơn so với 
một số tác giả khác, tuy nhiên đây là bước đầu 
chúng tôi áp dụng VATS cắt thùy phổi do ung thư, 
nên những trường hợp đầu tiên được phẫu thuật rất 
lâu, càng về sau thì thời gian phẫu thuật được rút 
ngắn dần, hơn nữa trong điều kiện còn thiếu thốn về 
dụng cụ, trang thiết bị, đặc biệt chúng tôi sử dụng 
tiết kiệm stapler, để giảm chi phí mổ cho BN nên các 
động mạch chúng tôi phải thắt và cắt bằng chỉ lanh, 
đa số chỉ dùng stapler để cắt tĩnh mạch và phế quản, 
nên thời gian mổ kéo dài hơn. Như vậy, thời gian 
phẫu thuật phụ thuộc rất nhiều vào đường cong 
huấn luyện. Chúng tôi tin rằng với số lượng BN lớn 
hơn trong các báo cáo tiếp theo của chúng tôi, cùng 
sự tiến bộ về trang thiết bị, thời gian phẫu thuật sẽ 
PHỔI - LỒNG NGỰC 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
235 
rút ngắn hơn đáng kể. Lượng máu mất trong mổ 
cũng nằm trong giới hạn cho phép, trung bình 
94ml.Trần Minh Bảo Luân (2012): thời gian phẫu 
thuật (150 ± 38,5ph); Máu mất (150ml)[2]. Vĕn Tần 
thấy thời gian PT (110ph); máu mất (240ml)[5]; 
Xizhao Sui (n = 105): thời gian mổ 195,7 phút (thực 
hiện vét hạch), lượng máu mất 194,3ml[6]. 
Tỷ lệ BN bị biến chứng của chúng tôi là 6,2%, 
trong đó chủ yếu là chảy máu sau mổ (2,36%). 
Với những BN có chảy máu sau mổ, có 3 BN chúng 
tôi phải mổ lại cầm máu, 2 BN được dẫn lưu, bơm 
rửa màng phổi ổn định. Có 01 BN bị rò dưỡng chấp 
sau mổ cắt thùy trên phổi phải, do chúng tôi 
thực hiện vét hạch dọc từ nhóm 4 xuống nhóm 8, 
đặc biệt hạch nhóm 4 cứng chắc nên khi lấy bị tổn 
thương ống ngực, BN được mổ lại khâu lại lỗ rò 
ngay sau mổ 24 tiếng. Đặc biệt chúng tôi tiến hành 
khâu phục hồi tất cả những tổn thương rách phổi có 
dò khí ngay trong mổ, nên sau mổ phổi nở tốt, có 01 
trường hợp biến chứng dò khí kéo dài 8 ngày. 
Các BN vẫn phục hồi sức khỏe ổn định, không có 
BN nào tử vong. Nghiên cứu của chúng tôi với số 
liệu còn nhỏ, chọn lựa BN còn ở giai đoạn sớm nên 
các biến chứng được ghi nhận không đáng kể khi so 
sánh với các tác giả khác, điều này có thể do lần 
đầu áp dụng phẫu thuật nội soi cắt thùy phổi nên 
chúng tôi chọn lựa BN với tổn thương không quá 
phức tạp; không có bệnh lý nội khoa nặng kèm theo, 
nên phẫu thuật được thực hiện dể hơn và ít biến 
chứng hơn. Jesús Loscertales (2010): Chuyển mở 
ngực (9,2%); biến chứng (12,8%), dò khí chiếm 
3,5%[4]; Vĕn Tần: Biến chứng 16% (thủng PQ gốc, 
xẹp phổi, gẫy sườn), 1 ca tử vong[5]. Xizhao Sui (n = 
105) có tỷ lệ tai biến, biến chứng là 12,8%, chủ yếu 
rò khí kéo dài đây cũng là nguy cơ cao đối với BN 
cao tuổi, chức nĕng phổi kém; với 5 ca tử vong chủ 
yếu do bệnh phối hợp (hai ARDS, hai thuyên tắc 
phổi và một nhồi máu tim)[6]. 
Một tiêu chí đáng quan tâm nữa là thời gian đặt 
dẫn lưu và thời gian nằm viện sau mổ. Đa số BN 
chúng tôi chỉ đặt 01 dẫn lưu màng phổi, giảm sang 
chấn cho Bn, dẫn lưu được rút khi lâm sàng BN ổn 
định, dịch dẫn lưu có màu hồng, vàng nhạt, số lượng 
dưới 100ml/24 giờ, không còn rò khí, xquang phổi 
nở tốt. Sau khi rút dẫn lưu, nếu không có biến chứng 
gì khác, BN được chuyển lên khoa Ung Bướu để 
đánh giá điều trị tiếp hóa chất bổ trợ. Thời gian rút 
dẫn lưu trung bình là 4,27 ngày. Thời gian nằm viện 
sau mổ trung bình là 5,5 ngày, điều này cho thấy ưu 
điểm vượt trội của nội soi, xâm lấn ít, rút ngắn thời 
gian nằm viện. Các số liệu trên tương đồng với các 
nghiên cứu tại Việt Nam, thời gian rút dẫn lưu trung 
bình là 4,5 ngày theo Trần Minh Bảo Luân (2012)[2]; 
và 8 ngày theo Vĕn Tần (2010)[5]. Thời gian kéo dài 
hơn khi thực hiện mổ lớn nạo vét hạch nhiều, 
như Xizhao Sui (2015), thời gian dẫn lưu trung bình 
7,52 ngày; thời gian nằm viện sau mổ trung bình 
10,66 ngày[6]. 
Đại đa số BN của chúng tôi được phát hiện và 
mổ ở giai đoạn 1 (trên 70%); các BN đều được đánh 
giá kỹ lưỡng trước mổ (như MRI/CT, Xạ hình 
xương, PET/CT) nên việc chẩn đoán giai đoạn trước 
và sau mổ sai số không đáng kể. Do vậy, việc can 
thiệp phẫu thuật cũng như lựa chọn phương pháp 
điều trị ung thư phổi phụ thuộc chặt chẽ vào việc 
đánh giá giai đoạn trước mổ. Các tác giả khác cũng 
đánh giá giai đoạn trước mổ và chủ yếu thực hiện 
VATS trên BN giai đoạn 1 và 2. Trần Minh Bảo Luân 
(2012): 100% BN giai đoạn II[2]. Jesús Loscertales 
(2010): Giai đoạn I (91,9%); Giai đoạn II (8,1%)[4]. 
Vĕn Tần: Giai đoạn II (56%); Giai đoạn IIIA (44%)[5]. 
Nghiên cứu của Sizhao Sui thực hiện VATS cắt thùy 
phổi do ung thư trên 105 BN cao tuổi, thấy 66,7% 
giai đoạn I, có 16,7% giai đoạn IIIA[6], như vậy việc 
áp dụng PTNSLN cắt thùy phổi trong ung thư phổi 
đối với người cao tuổi cũng cần thiết ngay cả giai 
đoạn IIIA. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, thực hiện giảm 
đau ngoài màng cứng, kết hợp với thuốc giảm đau 
tiêm chỉ thực hiện trong vài ngày đầu, từ ngày thứ 3 
chúng tôi chủ yếu dung một loại thuốc giảm đau (chủ 
yếu đường uống)), số BN ra viện chỉ còn đau mức 
1 - 2. Nhiều tác giả như Sugiura, Demmy và Curtis 
đều cho rằng thời gian cần sử dụng giảm đau ngoài 
màng cứng cho BN rất ngắn so với mổ mở. 
Nhiều tác giả cho thấy kết quả rất tốt của VATS 
cắt thùy phổi do ung thư đạt 70 - 95% sống trên 
5 nĕm (đặc biệt giai đoạn I). Chúng tôi đang theo dõi 
những BN đã phẫu thuật, nhưng chưa có đánh giá, 
tổng kết xa. Về kết quả sớm thì đạt kết quả tốt 92%. 
Nhiều báo cáo cho thấy phẫu thuật nội soi cắt thùy 
phổi trong ung thư phổi thuận lợi, nhiều ưu điểm hơn 
so với mổ mở, đặc biệt đối BN cao tuổi[3,4,6]. 
KẾT LUẬN 
PTNSLN cắt thùy phổi trong ung thư phổi đang 
được ứng dụng rộng rãi được nhiều tác giả trên thế 
giới chứng minh qua các nghiên cứu với nhiều ưu 
điểm: xâm lấn tối thiểu; giảm đau sau mổ, chức nĕng 
hô hấp sau mổ được phục hồi nhanh; rút ngắn thời 
gian nằm viện, biến chứng và di chứng giảm so với 
mổ mở, thẩm mỹ cao. 
PTNSLN đúng tiêu chuẩn (c - VATS) đòi hỏi 
phẫu thuật viên có kinh nghiệm và trang thiết bị hiện 
đại. Tuy nhiên tại Việt Nam có rất ít các cơ sở có đủ 
điều kiện để thực hiện kỹ thuật này 
Bệnh viện Phổi Trung ương đã thực hiện 
thường qui VATS cắt thùy phổi do UTPKTBN. 
PHỔI - LỒNG NGỰC 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
236 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Jemal A, et al, “Global cancer statistics”, CA 
cancer J Clin, 2011, 61(2), 69 - 90. 
2. Trần Minh Bảo Luân, “Đánh giá kết quả sớm 
phẫu thuật cắt thùy phổi qua nội soi lồng ngực 
trong điều trị ung thư phổi”, Tạp chí Y học thành 
phố Hồ Chí Minh, tập 16 chuyên đề Ngoại khoa, 
nĕm 2012, tr. 196 - 201. 
3. Paul C. Lee, MD, et al, “Lobectomy for Non-
small cell lung cancer by Video-Assisted thoracic 
surgery: Effects of cumulative institutional 
experience on adequacy of lymphadenetomy”, 
Ann Thorac Surg 2016, 101: 1116 - 22. 
4. Jesus Loscertales et al. Video-Assisted Surgery 
for Lung Cancer. State of the Art and Personal 
Experience. Asian Cardiovasc Thorac Ann 2010; 
17: 313 - 26. 
5. Vĕn Tần và cộng sự, “Phẫu thuật cắt phổi ung 
thư nội soi hỗ trợ”, Tạp chí ngoại khoa, số 4, 5, 6 
nĕm 2010, tr. 36 - 373. 
6. Xizhao Sui, MD et al, “Outcome of VATS 
lobectomy for elderly Non-small cell lung cancer: 
A Propensity score-matched study”, Ann Thorac 
Cardiovasc Surg 2015; 21: 529 - 535. 

File đính kèm:

  • pdfket_qua_buoc_dau_phau_thuat_noi_soi_cat_thuy_phoi_dieu_tri_u.pdf