Kết quả bước đầu đốt sóng cao tần u tuyến giáp lành tính tại Bệnh viện Trung Ương Thái Nguyên

Mục tiêu: Đánh giá sự an toàn và hiệu quả làm giảm thể tích u lành tính tuyến giáp bằng đốt sóng cao tần (RFA) cho bệnh nhân điều trị tại Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên từ năm tháng 3/2019 - 3/2020. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả dọc tiến hành trên 34 bệnh nhân u lành tính tuyến giáp được điều trị tại Khoa Nội tiết - Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên từ tháng 3/2019 - 3/2020. Kết quả: Thể tích u tuyến giáp của bệnh nhân trước điều trị là 7,37 ± 4,57 mL. Thể tích u tuyến giáp sau điều trị 1 tháng và 3 tháng giảm rõ rệt: 2,95 ± 2,24 mL và 1,99 ± 1,51 mL. Đốt sóng cao tần làm giảm 59,97% và 73 % thể tích u tuyến giáp sau 1 tháng và 3 tháng. Tất cả bệnh nhân hết dấu hiệu chèn ép và hài lòng hoàn toàn về thẩm mỹ sau điều trị 3 tháng. Chức năng tuyến giáp không bị ảnh hưởng sau điều trị. Không có biến chứng gì ngoài 3 bệnh nhân (8,8 %) có đau nhẹ, 1 bệnh nhân có tụ máu nhẹ nơi chọc kim đốt sóng cao tần và hết nhanh sau 1 ngày. Kết luận: Đốt sóng cao tần u tuyến giáp là một phương pháp điều trị rất an toàn và hiệu quả

pdf 6 trang phuongnguyen 160
Bạn đang xem tài liệu "Kết quả bước đầu đốt sóng cao tần u tuyến giáp lành tính tại Bệnh viện Trung Ương Thái Nguyên", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Kết quả bước đầu đốt sóng cao tần u tuyến giáp lành tính tại Bệnh viện Trung Ương Thái Nguyên

Kết quả bước đầu đốt sóng cao tần u tuyến giáp lành tính tại Bệnh viện Trung Ương Thái Nguyên
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 39 - Năm 2020 
87 
KẾT QUẢ BƯỚC ĐẦU ĐỐT SÓNG CAO TẦN U TUYẾN GIÁP LÀNH TÍNH 
TẠI BỆNH VIỆN TRUNG ƯƠNG THÁI NGUYÊN 
 Nguyễn Thành Lam1, Nguyễn Thị Thu Minh1, Cam Thị Thùy Linh1 
 Nguyễn Trường Giang2, Nguyễn Thị Minh2 và cộng sự 
1. Khoa Nội tiết - Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên 
2. Khoa Chẩn đoán hình ảnh - Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên 
DOI: 10.47122/vjde.2020.39.12 
ABSTRACT 
The initial results of radiofrequency 
ablation for benign thyroid nodules 
at Thai Nguyen National Hospital 
Objectives: To evaluate the safety and 
effectiveness reducing benign thyroid nodule 
volume with radiofrequency ablation (RFA) 
for patients treated at Thai Nguyen National 
Hospital from March 2019 to March 2020. 
Materials and method: A descriptive 
longitudinal study was conducted on 34 
patients with benign thyroid nodules treated at 
Department of Endocrinology - Thai Nguyen 
National Hospital from March 2019 to March 
2020. Results: Thyroid nodule volume before 
RFA was 7.37 ± 4.57 mL. There was a 
statistically significant reduction in thyroid 
nodule volume at 1st and 3rd months after 
RFA: 2.95 ± 2.4 mL and 1.99 ± 1.51 mL 
respectively. RFA reduced thyroid nodule 
volume by 59.97 % after 1 month and 73 % 
after 3 months. Compressive symptoms and 
cosmetic complaints were not found at 3rd 
after RFA. There was no significant change in 
thyroid function post-procedure. There were 
no complication other than mild pain in 3 
patients (8,8 %) and mild hematoma at needle 
site in 1 patients which were recovered after 1 
day. Conclusion: Radiofrequency ablation 
was very effective and safe for treating 
benign thyroid nodules. Keywords: Benign 
thyroid nodule, radiofrequency ablation, 
ultrasound. 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Đánh giá sự an toàn và hiệu quả 
làm giảm thể tích u lành tính tuyến giáp bằng 
đốt sóng cao tần (RFA) cho bệnh nhân điều 
trị tại Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên từ 
năm tháng 3/2019 - 3/2020. Đối tượng và 
phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả 
dọc tiến hành trên 34 bệnh nhân u lành tính 
tuyến giáp được điều trị tại Khoa Nội tiết - 
Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên từ tháng 
3/2019 - 3/2020. Kết quả: Thể tích u tuyến 
giáp của bệnh nhân trước điều trị là 7,37 ± 
4,57 mL. Thể tích u tuyến giáp sau điều trị 1 
tháng và 3 tháng giảm rõ rệt: 2,95 ± 2,24 mL 
và 1,99 ± 1,51 mL. Đốt sóng cao tần làm 
giảm 59,97% và 73 % thể tích u tuyến giáp 
sau 1 tháng và 3 tháng. Tất cả bệnh nhân hết 
dấu hiệu chèn ép và hài lòng hoàn toàn về 
thẩm mỹ sau điều trị 3 tháng. Chức năng 
tuyến giáp không bị ảnh hưởng sau điều trị. 
Không có biến chứng gì ngoài 3 bệnh nhân 
(8,8 %) có đau nhẹ, 1 bệnh nhân có tụ máu 
nhẹ nơi chọc kim đốt sóng cao tần và hết 
nhanh sau 1 ngày. Kết luận: Đốt sóng cao tần 
u tuyến giáp là một phương pháp điều trị rất 
an toàn và hiệu quả. 
Từ khóa: U tuyến giáp lành tính, đốt sóng 
cao tần, siêu âm. 
Chịu trách nhiệm chính: Nguyễn Thành 
Lam 
Ngày nhận bài: 01/3/2020 
Ngày phản biện khoa học: 15/3/2020 
Ngày duyệt bài: 20/4/2020 
Email: [email protected] 
ĐT: 0915.642992 
1. ĐẶT VẤN ĐỀ 
U tuyến giáp (hạt giáp, bướu giáp nhân) là 
bệnh khá thường gặp, nữ nhiều hơn nam, đa 
số là u lành tính. Phần lớn u không gây ra các 
bất thường về chức năng tuyến giáp. Triệu 
chứng trên lâm sàng nghèo nàn, bệnh nhân 
hay đến khám, điều trị khi có các dấu hiệu 
chèn ép hoặc thấy ảnh hưởng đến thẩm mỹ. 
Nhiều khi u được phát hiện tình cờ qua thăm 
khám, siêu âm. Với những u lành tính nhỏ, 
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 39 - Năm 2020 
88 
không có triệu chứng chỉ cần theo dõi. Với 
những khối u lớn, có triệu chứng hoặc gây 
ảnh hưởng đến chức năng tuyến giáp cần phải 
điều trị. 
Ngày nay, có nhiều phương pháp điều trị: 
hormon giáp (với bệnh nhân trẻ, nhân keo 
nhỏ, vùng thiếu iod có tác dụng làm chậm 
phát triển u, ngăn ngừa hình thành u mới), 
tiêm cồn qua da, phẫu thuật cắt u, cắt phần 
tuyến giáp, phẫu thuật nội soi, I-131 (với 
nhân độc), đốt laser, đốt sóng cao tần. Tuy 
nhiên, trong nhiều trường hợp, phương pháp 
được cho là tối ưu hơn cả và đang được áp 
dụng rộng rãi trên thế giới hiện nay là đốt 
sóng cao tần. Ưu điểm của phương pháp này 
là: hiệu quả điều trị cao, an toàn, ít xâm lấn, 
không để lại sẹo, thời gian điều trị ngắn, chi 
phí hợp lý Từ năm 2019, kỹ thuật này được 
áp dụng tại Bệnh viện Trung ương Thái 
Nguyên và nhiều lượt bệnh nhân đã được điều 
trị. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu này với 
mục tiêu: Đánh giá tính an toàn và hiệu quả 
làm giảm thể tích u tuyến giáp lành tính của 
đốt sóng cao tần cho bệnh nhân điều trị tại 
Khoa Nội tiết - Bệnh viện Trung ương Thái 
Nguyên từ tháng 3 năm 2019 đến tháng 3 
năm 2020. 
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
NGHIÊN CỨU 
2.1. Đối tượng nghiên cứu 
* Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân: 
Bệnh nhân được chẩn đoán là u tuyến 
giáp, có đường kính từ 1 - 5 cm (đo trên siêu 
âm), kết quả tế bào học là u lành tính và đồng 
ý tham gia nghiên cứu. 
* Tiêu chuẩn loại trừ: 
- Bệnh nhân ung thư tuyến giáp hoặc nghi 
ngờ ung thư tuyến giáp. 
- Bệnh nhân có u lớn (đường kính > 5 cm) 
hoặc u nhỏ chưa cần điều trị. 
- U nang hoặc giả nang đơn thuần (có thể 
chọc hút dịch). 
2.2. Phương pháp nghiên cứu 
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu 
Nghiên cứu tiến cứu mô tả dọc. 
2.2.2. Chọn mẫu 
Bệnh nhân được chọn vào nghiên cứu dựa 
trên các tiêu chuẩn lựa chọn, loại trừ và trong 
thời gian trên, tiến hành lấy mẫu tích luỹ đến 
khi đủ cỡ mẫu nghiên cứu. 
2.2.3. Chỉ tiêu nghiên cứu 
+ Tuổi, giới. 
+ Một số biểu hiện về cơ năng của bệnh 
nhân trước điều trị. 
+ Kích thước (đo trên siêu âm), thể tích u 
tuyến giáp trước điều trị. 
+ Chức năng tuyến giáp trước điều trị 
(TSH, T3, FT4). 
+ Kích thước, thể tích u tuyến giáp sau 
điều trị 1 tháng, 3 tháng. 
+ Chức năng tuyến giáp sau điều trị 1 
tháng, 3 tháng. 
+ Tỷ lệ % giảm thể tích u tuyến giáp sau 
điều trị 1 tháng, 3 tháng. 
+ Tác dụng không mong muốn và biến 
chứng của phương pháp điều trị. 
2.2.4. Các bước tiến hành 
- Khám lâm sàng, siêu âm tuyến giáp và 
đo kích thước các chiều của u tuyến giáp, các 
xét nghiệm cơ bản, chức năng tuyến giáp, 
đông máu. 
- Thể tích u tuyến giáp được tính theo 
công thức: V = a x b x c x π/6 
Trong đó: V là thể tích tuyến giáp (mL) 
a, b, c là chiều dài, rộng, sâu của u tuyến 
giáp (cm) 
π/6 là hệ số hiệu chỉnh 
- Kỹ thuât đốt sóng cao tần u tuyến giáp: 
Bệnh nhân nằm ngửa cổ, bộc lộ vùng 
tuyến giáp. 
Sát khuẩn, gây tê tại chỗ. Siêu âm tuyến 
giáp với đầu dò đã được bọc vô khuẩn. 
Tiến hành đốt u tuyến giáp bằng sóng cao 
tần với kỹ thuật xuyên eo và đốt di chuyển, 
mức năng lượng 20 - 70 W dưới hướng dẫn 
của siêu âm. Dòng diện xoay chiều sẽ truyền 
từ nguồn đến kim đốt, các ion trong tổ chức u 
và xung quanh vị trí kim bị dao động, cọ sát 
gây ra nhiệt làm xơ hóa, thu nhỏ dần tổ chức 
u. Bệnh nhân sau điều trị được dùng kháng 
sinh, được nghỉ theo dõi tại giường và ra viện 
trong ngày hoặc hôm sau nếu không có biến 
chứng gì. 
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 39 - Năm 2020 
89 
- Ghi nhận các biến chứng hoặc tác dụng 
không mong muốn ngay sau đốt sóng cao tần 
và siêu âm tuyến giáp, xét nghiệm nồng độ 
TSH, T3, FT4 máu sau điều trị 1 tháng, 3 
tháng để đánh giá mức độ giảm thể tích u 
tuyến giáp và chức năng tuyến giáp. 
2.2.5. Xử lý số liệu: Sử dụng phần mềm 
SPSS 16.0 for Windows. 
2.2.6. Đạo đức nghiên cứu: 
Đề cương nghiên cứu được thông qua Hội 
đồng xét duyệt đạo đức nghiên cứu của Bệnh 
viện. 
Bệnh nhân, người nhà bệnh nhân được giải 
thích kỹ và viết cam đoan trước điều trị. 
Thông tin được giữ bí mật. 
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Bảng 3.1. Tuổi, giới của bệnh nhân nghiên cứu 
Giới Số bệnh nhân Tỷ lệ % 
Tuổi 
Trung bình Thấp nhất Cao nhất 
Nam 3 8,8 46,67 ± 6,66 41 54 
Nữ 31 91,2 43,45 ± 13,09 19 66 
Chung 34 100 43,74 ± 12,62 19 66 
Nhận xét: Đa phần bệnh nhân u tuyến giáp lành tính hay gặp ở nữ (91,2 %), độ tuổi trung 
bình là 43,74 ± 12,62 tuổi, lứa tuổi trên 40 gặp nhiều hơn. 
Bảng 3.2. Chức năng tuyến giáp của bệnh nhân trước điều trị 
Nồng độ hormon Số bệnh nhân Trung bình Thấp nhất Cao nhất 
TSH (µIU/mL) 34 2,52 ± 1,07 0,48 4,51 
T3 (ng/dL) 34 99,85 ± 25,53 63,16 158,23 
FT4 (ng/dL) 34 1,22 ± 0,26 0,8 1,8 
Nhận xét: Tất cả bệnh nhân trước điều trị của chúng tôi đều có chức năng tuyến giáp bình thường. 
Bảng 3.3. Một số biểu hiện cơ năng của bệnh nhân trước điều trị 
Biểu hiện Số bệnh nhân Tỷ lệ % 
Đau 0 0 
Khàn tiếng 0 0 
Dấu hiệu chèn ép 18 52,9 
Phàn nàn về thẩm mỹ 22 64,7 
Nhận xét: Bệnh nhân của chúng tôi ít các biểu hiện về cơ năng. Có 52,9 % bệnh nhân trước 
điều trị có dấu hiệu chèn ép và ở các mức độ khác nhau. Ngoài ra có 64,7 % bệnh nhân phàn nàn 
vì khối u ảnh hưởng đến thẩm mỹ. 
Bảng 3.4. Thể tích u tuyến giáp ở bệnh nhân trước điều trị 
Chỉ số (n = 34) Trung bình Thấp nhất Cao nhất 
Thể tích tuyến giáp (mL) 7,37 ± 4,57 0,63 18,32 
Nhận xét: U tuyến giáp ở bệnh nhân trước điều trị có thể tích trung bình là 7,37 ± 4,59 mL. U 
tuyến giáp to nhỏ rất khác nhau. 
Bảng 3.5. Thay đổi thể tích u tuyến giáp trước và sau điều trị 1 tháng, 3 tháng 
Thời điểm n Thể tích u tuyến giáp (mL) 
Trước điều trị (a) 34 7,37 ± 4,57 (0,48 – 18,32) 
Sau điều trị 1 tháng (b) 34 2,95 ± 2,24 (0,23 – 10,31) 
Sau điều trị 3 tháng (c) 29 1,99 ± 1,51 (0,2 – 5,78) 
p p(a,b) < 0,001, p(a,c) < 0,001, p(b,c) < 0,01 
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 39 - Năm 2020 
90 
Nhận xét: Thể tích u tuyến giáp giảm nhanh, rõ rệt ngay sau 1 tháng (còn 2,95 ± 2,24 mL) và 
tiếp tục giảm (sau 3 tháng còn 1,99 ± 1,51 mL). 
Bảng 3.6. Tỷ lệ % giảm thể tích u tuyến giáp trung bình của bệnh nhân sau điều trị 
1 tháng và 3 tháng 
Thời điểm Thể tích u tuyến giáp 
trung bình (mL) 
Tỷ lệ % giảm thể tích 
u tuyến giáp 
Trước điều trị (n = 34) 7,37 ± 4,59 
Sau điều trị 1 tháng (n = 34) 2,95 ± 2,24 59,97 
Sau điều trị 3 tháng (n = 29) 1,99 ± 1,51 73 
Nhận xét: Sau đốt sóng cao tần 1 tháng, thể tích u tuyến giáp của bệnh nhân giảm 59,97 %, 
sau 3 tháng giảm 73 % so với thể tích u tuyến giáp ban đầu. 
Bảng 3.7. Tác dụng giảm chèn ép và hài lòng về thẩm mỹ của bệnh nhân 
Biểu hiện Sau điều trị 1 tháng Sau điều trị 3 tháng 
Dấu hiệu chèn ép (n = 18) 2 (11,1 %) 0 (0 %) 
Phàn nàn về thẩm mỹ (n = 22) 2 (9,09 %) 0 (0 %) 
Nhận xét: Ngay sau điều trị 1 tháng dấu hiệu chèn ép đã giảm đáng kể, chỉ còn 9,09 % trường 
hợp phàn nàn về thẩm mỹ, sau 3 tháng hết phàn nàn thẩm mỹ và không còn trường hợp nào còn 
biểu hiện chèn ép. 
Bảng 3.8. Chức năng tuyến giáp ở bệnh nhân sau điều trị 
Nồng độ hormon Trước điều trị 
 (n = 34) 
Sau 1 tháng 
 (n = 34) 
Sau 3 tháng 
 (n = 29) 
p 
TSH (µIU/mL) 2,52 ± 1,07 2,43 ± 0,1 2,36 ± 0,96 
> 0,05 T3 (ng/dL) 99,85 ± 25,53 103,35 ± 19,41 106,37 ± 20,69 
FT4 (ng/dL) 1,22 ± 0,26 1,24 ± 0,2 1,28 ± 0,37 
Nhận xét: Chức năng tuyến giáp không thay đổi sau các thời điểm điều trị. 
Bảng 3.9. Tác dụng không mong muốn và biến chứng 
Tác dụng không mong muốn và biến chứng Số trường hợp Tỷ lệ % 
Đau 3 8,8 
Tụ máu tại chỗ 1 2,9 
Khàn tiếng tạm thời 0 0 
Bỏng da tại chỗ 0 0 
Abscess, viêm 0 0 
Nhận xét: Rất ít các tác dụng không mong muốn và biến chứng. Có 3 trường hợp đau trong 
ngày đầu (8,8 %), hết đau sau uống các thuốc giảm đau thông thường. Có 1 trường hợp tụ máu 
nhẹ nơi chọc kim, tự hết sau 1 ngày. 
4. BÀN LUẬN 
4.1. Đặc điểm bệnh nhân nghiên cứu 
Những bệnh nhân u tuyến giáp chúng tôi 
chọn đều là những trường hợp có u lành tính 
cần can thiệp, u đặc hoặc phần lớn là đặc và 
khối u không quá lớn, không gây chèn ép 
nhiều, gây biến dạng cổ (thường có đường 
kính 1 - 5 cm). Nhiều tài liệu cho thấy với 
những khối u tuyến giáp lớn, phẫu thuật có 
nhiều ưu điểm hơn, còn u nang có thể chọc 
hút hoặc tiêm cồn qua da. Bệnh nhân của 
chúng tôi đa phần là nữ, tuổi trung bình 
43,74 ± 12,62, 52,9% có biểu hiện chèn ép ở 
các mức độ khác nhau và 64,7 % họ không 
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 39 - Năm 2020 
91 
thỏa mãn với thẩm mỹ của vùng cổ trước khi 
điều trị. 
U tuyến giáp ở bệnh nhân trước điều trị có 
kích thước và thể tích cũng rất khác nhau (thể 
tích trung bình 7,37 ± 4,57 mL, nhỏ nhất 0,63 
mL, lớn nhất 18,32 mL) - ở mức tương đối 
nhỏ so với nghiên cứu của các tác giả nước 
ngoài [2], [4]. Tất cả bệnh nhân trước điều trị 
đều bình giáp, không có trường hợp nào là 
nhân độc tuyến giáp. 
4.2. Hiệu quả làm giảm thể tích u tuyến 
giáp của đốt sóng cao tần 
Sau đốt sóng cao tần 1 tháng, u tuyến giáp 
đã nhỏ lại rõ rệt và tiếp tục giảm thêm. 
Nghiên cứu của chúng tôi u tuyến giáp giảm 
59,97 % thể tích sau 1 tháng và 73 % sau 3 
tháng. Erhan Aysan và cộng sự (2016) nghiên 
cứu trên 100 bệnh nhân u tuyến giáp thấy thể 
tích tuyến giáp trước điều trị, sau điều trị 3 
tháng, 6 tháng là 16,8 mL, 4,8 mL, 2,6 mL và 
u nang giảm thể tích tốt hơn u hỗn hợp và u 
đặc [2]. Bùi Xuân Trường và cộng sự (2018) 
thấy sau 1 tháng tất cả bệnh nhân đều giảm 
thể tích u tuyến giáp, có đến 75 % trường hợp 
giảm trên 50 % thể tích [1]. Tang X. và cộng 
sự (2017) nghiên cứu trên 108 bệnh nhân thấy 
thể tích u tuyến giáp giảm 64,12 % sau 1 
tháng, 85,54 % sau 3 tháng [6]. Ugurlu M. U. 
và cộng sự (2015) thấy sau 6 tháng thể tích u 
tuyến giáp giảm 74 % [7]. Young Sun Kim và 
cộng sự (2006) thấy thể tích u tuyến giáp còn 
lại sau đốt sóng cao tần dưới 3 tháng là 53,5 
% ± 26,5 %, sau 9 - 18,5 tháng là 11,8 % ± 
10,9 % [5], u lỏng và u hỗn hợp giảm thể tích 
nhiều và nhanh hơn u đặc [5]. Viacheslav 
Solovov và cộng sự (2017) nghiên cứu trên 
450 bệnh nhân u tuyến giáp sau điều trị 6 
tháng và 36 tháng giảm 70 % và 84 % thể 
tích, hiệu quả với cả nhân độc tuyến giáp. Eun 
Ju Ha và cộng sự (2015) thấy đốt sóng cao tần 
có hiệu quả điều trị 98,7 % khối u tuyến giáp, 
bệnh nhân đốt sóng cao tần còn có tỷ lệ giảm 
thể tích u tuyến giáp tốt hơn đốt laser (76,1 % 
so với 49,9 %) [3]. Jung S. L. và cộng sự 
(2018) thấy trong 345 bệnh nhân u tuyến 
giáp, tỷ lệ thành công là 97,8 %. 
Cùng với việc giảm thể tích, kích thước 
khối u, đốt sóng cao tần cũng đồng thời làm 
giảm các triệu chứng và đem lại vẻ đẹp thẩm 
mỹ vùng trước cổ cho bệnh nhân. Sau 3 tháng 
điều trị, số bệnh nhân của chúng tôi hết hẳn 
biểu hiện chèn ép và phàn nàn về thẩm mỹ do 
khối u đem đến. Guang Y., He W. và cộng sự 
(2019) thấy dấu hiệu chèn ép và thẩm mỹ cải 
thiện tốt đặc biệt với những bệnh nhân có u 
trung bình hoặc lớn [4]. Viacheslav Solovov 
(2017) tổng kết từ nhiều nghiên cứu thấy 96 
% đảm bảo tốt về thẩm mỹ. Young Sun Kim 
và cộng sự (2006) thấy 88 % trường hợp cải 
thiện các triệu chứng rõ [5]. 
4.3. Tính an toàn của đốt sóng cao tần u 
tuyến giáp 
Khi đốt u tuyến giáp bằng sóng cao tần, 
bệnh nhân không cần phải gây mê, chỉ cần 
gây tê tại chỗ nên hoàn toàn tỉnh táo và nhanh 
hồi phục. Thầy thuốc chỉ đưa đầu kim đốt 
xuyên qua eo giáp vào khối u vì thế sẽ tránh 
được “tam giác nguy hiểm” (thực quản, khí 
quản, thanh quản, dây thần kinh quặt ngược), 
đường kính của kim nhỏ nên bệnh nhân 
không đau hoặc chỉ có cảm giác đau nhẹ, xâm 
lấn tối thiểu nên ít chảy máu, ít tổn thương 
mô xung quanh, không có sẹo và thời gian thủ 
thuật nhanh (10 - 30 phút). Sau thủ thuật bệnh 
nhân có thể ra viện sớm, không cần điều trị 
nội trú. 
Qua nhiều nghiên cứu trên thế giới đều 
cho thấy chức năng của tuyến giáp không bị 
ảnh hưởng sau điều trị, các tác dụng không 
mong muốn và biến chứng rất hiếm gặp và 
thường nhẹ, nhanh hồi phục [8], [6], [4], [3]. 
Erhan Aysan và cộng sự chỉ thấy 1 trường 
hợp khàn tiếng tạm thời và 1 trường hợp nề 
vùng eo giáp trong 100 bệnh nhân đốt sóng 
cao tần [2]. Ugurlu M. U. và cộng sự (2015) 
thấy 12 % bệnh nhân có đau nhẹ, không có 
biến chứng khác [7]. Bùi Xuân Trường và 
cộng sự (2018) thấy 2 bệnh nhân tụ máu nhẹ, 
2 bệnh nhân thay đổi giọng thoáng qua (hồi 
phục trong 1 tháng) sau đốt sóng cao tần u 
tuyến giáp. Tất cả những điều đó cũng góp 
phần lý giải trong 34 bệnh nhân nghiên cứu 
của chúng tôi không có trường hợp nào có 
cường hoặc suy giáp sau điều trị và chỉ có 3 
trường hợp đau nhẹ, 1 trường hợp tụ máu nhẹ 
tại nơi chọc kim rồi hết sau 1 ngày. 
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 39 - Năm 2020 
92 
5. KẾT LUẬN 
Nghiên cứu 34 bệnh nhân u tuyến giáp 
lành tính được đốt sóng cao tần tại Bệnh viện 
Trung ương Thái Nguyên, theo dõi từ 1 đến 3 
tháng chúng tôi thấy: 
Thể tích u tuyến giáp của bệnh nhân giảm 
nhanh và rõ rệt: từ 7,37 ± 4,57 mL trước điều 
trị đến 2,95 ± 2,24 mL sau 1 tháng và 1,99 ± 
1,51 mL sau 3 tháng. Tỷ lệ giảm thể tích u 
tuyến giáp sau điều trị 1 tháng và 3 tháng là 
59,97% và 73 %. Tất cả bệnh nhân hết dấu 
hiệu chèn ép và cảm thấy hài lòng hoàn toàn 
về thẩm mỹ sau điều trị 3 tháng. 
Chức năng tuyến giáp không bị ảnh 
hưởng. Chỉ 3 bệnh nhân (8,8 %) có đau nhẹ, 1 
bệnh nhân có tụ máu nhẹ nơi chọc kim đốt 
sóng cao tần và hết nhanh sau 1 ngày. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bùi Xuân Trường, Nguyễn Anh Khôi, 
Trần Chính Tâm, Hồ Thái Tính (2018): 
“Bước đầu đánh giá hiệu quả đốt hạt giáp 
lành tính bằng song cao tần”. Tạp chí Ung 
thư học Việt Nam, số 4/2018, tr.22-23. 
2. Erhan Aysan, Ufuk Oguz Idiz, Huseyin 
Akbulut and Leyla Elmas (2016): 
‘Single–session radiofrequency ablation 
on benign thyroid nodules: a prospective 
single center study’. Langenbeck’s 
Archives of Surgery. Vol. 401, pp. 357 - 
363. 
3. Eun Ju Ha, Jung Hwan Baek, Kyung 
Won Kim, Junhee Pyo, Jeong Hyun Lee 
et al (2015): ‘Comparative efficacy of 
radiofrequency and laser ablation for 
treatment of benign thyroid nodules: 
systematic review including traditional 
pooling and Bayesian network meta - 
analysis. Journal of Clinical 
Endocrinology and Metabolism, vol. 
100, No. 5, pp. 1903 - 1911. 
4. Guang Y., He W., Luo Y., Zhang Y., 
Ning B., Yu T. (2019): ‘Patient 
satisfaction of radiofrequency ablation 
for symptomatic benign solid thyroid 
nodules: our experience for 2 year follow 
up’. BMC. Cancer, vol. 19, No. 1, pp. 
147. 
5. Young Sun Kim, Hyunchul Rhim, 
Kyung Tae, Dong Woo Park and Sung 
Tae Kim (2006): Radiofrequency 
ablation of benign cold thyroid nodules: 
Initial clinical experience. Thyroid, vol. 
16, No. 4, pp. 361 - 367. 
6. Tang X., Cui D., Chi J., Wang Z., Wang 
T., Zhai B., Li P. (2017): ‘Evaluation of 
the safety and efficacy of radiofrequency 
ablation for treating benign thyroid 
nodules’. J. Cancer, vol. 8, No. 2, pp. 
754 - 760. 
7. Ugurlu M. U., Uprak K., Akpinar I. N., 
Attaallah W., Yegen C., Gulluoglu B. M. 
(2015): ‘Radiofrequency ablation of 
benign symptomatic thyroid nodules: 
prospective safety and efficacy study’. 
World J. Surg., vol 39, No. 4, pp. 961 - 
968. 
8. In Fen Wang, Tao Wu, Kun Peng Hu, 
Wen Xu, Bo Wen Zheng, Ge Tong, Zhi 
Cheng Yao, Bo Liu and Jie Ren (2017): 
‘Complications following 
radiofrequency ablation of benign 
thyroid nodules: a systematic review’. 
China Med. J. (Engl.), vol.130, No. 11, 
pp. 1361 - 1370. 

File đính kèm:

  • pdfket_qua_buoc_dau_dot_song_cao_tan_u_tuyen_giap_lanh_tinh_tai.pdf