Kết quả bước đầu của phẫu thuật nội soi một đường rạch cắt lách điều trị xuất huyết giảm tiểu cầu miễn dịch ở trẻ em

Phẫu thuật nôi soi một đường rạch cắt lách là xu thế mới của phẫu thuật ít xâm lấn nhằm giảm tối đa sẹo mổ

tăng hiệu quả thẩm mỹ. Chúng tôi thực hiện đề tài Kết quả bước đầu của phẫu thuật nội soi một đường rạch cắt lách

điều trị xuất huyết giảm tiểu cầu miễn dịch ở trẻ em nhằm mục đích nhận xét về chỉ định và đánh giá kết quả sớm

phẫu thuật nội soi một đường rạch cắt lách điều trị xuất huyết giảm tiểu cầu miễn dịch ở trẻ em. Nghiên cứu tiến

hành tại khoa Phẫu thuật Nhi Bệnh viện Việt Đức từ tháng 01 năm 2016 đến tháng 06 năm 2019. Phẫu thành công

trên cả 24 bệnh nhi, không có bệnh nhi nào phải chuyển mổ nội nhiều cổng hay mổ mở cắt lách. Thời gian phẫu

thuật trung bình là 90,2 ± 30,2 phút. Không có tai biến nặng và kết quả thẩm mỹ cao. Phẫu thuật nội soi một đường

rạch cắt lách là an toàn và khả thi, kết quả thẩm mỹ cao để điều trị cho bệnh nhi xuất huyết giảm tiểu cầu miễn dịch.

pdf 8 trang phuongnguyen 200
Bạn đang xem tài liệu "Kết quả bước đầu của phẫu thuật nội soi một đường rạch cắt lách điều trị xuất huyết giảm tiểu cầu miễn dịch ở trẻ em", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Kết quả bước đầu của phẫu thuật nội soi một đường rạch cắt lách điều trị xuất huyết giảm tiểu cầu miễn dịch ở trẻ em

Kết quả bước đầu của phẫu thuật nội soi một đường rạch cắt lách điều trị xuất huyết giảm tiểu cầu miễn dịch ở trẻ em
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 132 (8) - 202030
KẾT QUẢ BƯỚC ĐẦU CỦA PHẪU THUẬT NỘI SOI 
MỘT ĐƯỜNG RẠCH CẮT LÁCH ĐIỀU TRỊ XUẤT HUYẾT 
GIẢM TIỂU CẦU MIỄN DỊCH Ở TRẺ EM 
Hồng Quý Quân1, , Nguyễn Việt Hoa¹, Nguyễn Thanh Liêm²
1Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức
2Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec
Phẫu thuật nôi soi một đường rạch cắt lách là xu thế mới của phẫu thuật ít xâm lấn nhằm giảm tối đa sẹo mổ 
tăng hiệu quả thẩm mỹ. Chúng tôi thực hiện đề tài Kết quả bước đầu của phẫu thuật nội soi một đường rạch cắt lách 
điều trị xuất huyết giảm tiểu cầu miễn dịch ở trẻ em nhằm mục đích nhận xét về chỉ định và đánh giá kết quả sớm 
phẫu thuật nội soi một đường rạch cắt lách điều trị xuất huyết giảm tiểu cầu miễn dịch ở trẻ em. Nghiên cứu tiến 
hành tại khoa Phẫu thuật Nhi Bệnh viện Việt Đức từ tháng 01 năm 2016 đến tháng 06 năm 2019. Phẫu thành công 
trên cả 24 bệnh nhi, không có bệnh nhi nào phải chuyển mổ nội nhiều cổng hay mổ mở cắt lách. Thời gian phẫu 
thuật trung bình là 90,2 ± 30,2 phút. Không có tai biến nặng và kết quả thẩm mỹ cao. Phẫu thuật nội soi một đường 
rạch cắt lách là an toàn và khả thi, kết quả thẩm mỹ cao để điều trị cho bệnh nhi xuất huyết giảm tiểu cầu miễn dịch.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Từ khóa: Phẫu thuật nội soi một đường rạch cắt lách, xuất huyết giảm tiểu cầu
Xuất huyết giảm tiểu cầu miễn dịch 
(XHGTCMD) là bệnh lý tự miễn do các tự 
kháng thể kháng lại tiểu cầu được sản xuất tại 
lách, làm phá huỷ tiểu cầu gây giảm số lượng 
tiểu cầu máu ngoại vi. Cắt lách là một phương 
pháp điều trị XHGTCMD khi bệnh mạn tính và 
không đáp ứng với điều trị nội khoa vì lách vừa 
là nơi huỷ tiểu cầu chính vừa là nơi sản xuất 
kháng thể kháng lại tiểu cầu.¹
Trước đây đa phần bệnh nhi được tiến hành 
mổ mở để lại sẹo mổ dài, đau đớn sau mổ, biến 
chứng nhiễm trùng vết mổ cao và thời gian nằm 
viện kéo dài. Phẫu thuật nội soi (PTNS) thông 
thường cắt lách với 3 đến 5 cổng ra đời cũng đã 
khắc phục được phần nào các nhược điểm trên 
của mổ mở cắt lách.2,3,4 Tuy nhiên PTNS thông 
thường cắt lách vẫn để lại nhiều sẹo nhỏ trên 
thành bụng của trẻ.
Phẫu thuật nội soi một đường rạch cắt lách 
(PTNSMĐRCL) được tiến hành qua một đường 
rạch duy nhất trong phạm vi của rốn nên sẹo 
gần như không nhìn thấy vì trùng với rốn.3,4,5 
Tuy vậy chưa có báo cáo nào về PTNSMĐRCL 
điều trị XHGTCMD ở trẻ em nên chúng tôi tiến 
hành nghiên cứu “kết quả bước đầu phẫu thuật 
nội soi một đường rạch cắt lách điều trị xuất 
huyết giảm tiểu cầu miễn dịch ở trẻ em” nhằm 2 
mục tiêu: (1) Nhận xét về chỉ định PTNSMĐRCL 
điều trị XHGTCMD ở trẻ em; (2) Đánh giá kết 
quả sớm PTNSMĐRCL điều trị XHGTCMD ở 
trẻ em.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
Các bệnh nhi mắc XHGTCMD thể mạn tính 
được tiến hành PTNSMĐRCL tại khoa Phẫu 
Tác giả liên hệ: Hồng Quý Quân, 
Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức
Email: [email protected]
Ngày nhận: 13/09/2020
Ngày được chấp nhận: 20/10/2020
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 132 (8) - 2020 31
thuật Nhi Bệnh viện Việt Đức thời gian từ tháng 
01 năm 2016 đến tháng 6 năm 2019.
Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân:
+ Bệnh nhi có độ tuổi từ 5 đến 16 tuổi.
+ Mắc XHGTCMD thể mạn tính, được chỉ 
định cắt lách bởi các bác sỹ chuyên khoa huyết 
học.
Tiêu chuẩn loại trừ:
+ Tuổi > 16.
+ Các bệnh nhân cắt lách không thuộc nhóm 
XHGTCMD.
+ Các bệnh nhi có chống chỉ định phẫu thuật 
nội soi như mổ cũ ổ bụng, bệnh lý hô hấp, tim 
mạch có chống chỉ định bơm hơi ổ bụng.
2. Phương pháp
Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả tiến 
cứu.
Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 01 năm 
2016 đến tháng 6 năm 2019.
Địa điểm nghiên cứu: Tại khoa Phẫu thuật 
nhi Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức.
Phương pháp chọn mẫu và cỡ mẫu: Chọn 
mẫu thuận tiện có chủ đích được áp dụng trong 
nghiên cứu này. Cỡ mẫu là 24 bệnh nhân.
Phương pháp phẫu thuật: 
Dụng cụ phẫu thuật: dụng cụ nội soi thẳng 
thông thường
Chuẩn bị bệnh nhân: Bệnh nhân được gây 
mê nội khí quản. Với các bệnh nhân có số 
lượng tiểu cầu dưới 50 x 10⁹/L sẽ được truyền 
tiểu cầu ngay trước khi rạch da để nâng tiểu 
cầu trong mổ. 
Phẫu thuật:
- Bệnh nhân nằm nghiêng phải 50 - 70o, có 
độn ở dưới sườn, phẫu thuật viên và người phụ 
đứng bên phải bàn mổ, dụng cụ viên đứng bên 
trái bàn mổ. 
- Rạch da hình chữ Z trong phạm vi của rốn 
để chia rốn làm 2 phần từ trên xuống dưới như 
hình xoáy âm dương. Đặt 3 trocar 5 trong phạm 
vi của đường rạch chữ Z. 
- Sau khi bơm hơi ổ bụng, tiến hành mở mạc 
nối nhỏ vào hậu cung mạc nối. Cắt dây chằng 
vị lách và các động mạch vị ngắn để bộc lộ rốn 
lách. Các dây chằng quanh lách cũng được 
cắt để giải phóng lách. Động tĩnh mạch lách ở 
rốn lách được bộ lộ và được cắt bằng dao hàn 
mạch. Lách sau khi được cắt sẽ được cho vào 
túi, hút sạch máu đọng hố lách. Túi đựng lách 
được kéo ra lỗ trocar được rạch thêm. Lách 
được kẹp nhỏ và lấy dần ra ngoài. Khâu tạo 
hình lại rốn. Lượng máu mất trong mổ được đo 
bằng lượng máu hút ra trong bình chứa sau khi 
kết thúc ca mổ.
Hình 1. Đường rạch da chữ Z ở rốn và vị trí 
3 trocar đặt tại rốn
- Sau mổ bệnh nhân được theo dõi toàn 
thân, tình trạng bụng, vết mổ để phát hiện các 
biến chứng sau mổ. Bệnh nhân được rút ống 
thông dạ dày và cho ăn sau khi đánh hơi. 24 giờ 
sau mổ bệnh được xét nghiệm công thức máu 
để kiểm tra số lượng tiểu cầu, hồng cầu. Bệnh 
nhân được ra viện khi toàn thân ổn định, tiêu 
hoá bình thường và vết mổ khô. 
- Bệnh nhân được kiểm tra công thức máu 
sau 6 tháng. Tiêu chuản đánh giá bệnh nhân 
đáp ứng tốt sau cắt lách khi số lượng tiểu cầu ≥ 
100 x 10⁹/L. Đáp ứng kém khi số lượng tiểu cầu 
< 100 x 10⁹/L nhưng ≥ 50 x 10⁹/L. Không đáp 
ứng khi số lượng tiểu cầu < 50 x 10⁹/L.
3. Xử lý số liệu
Số liệu được phân tích bằng phần mềm 
STATA 14.0. Sử dụng T-test để so sánh hai 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 132 (8) - 202032
trung bình, khác biệt có ý nghĩa thống kê khi 
p < 0,05.
4. Đạo đức nghiên cứu
Đối tượng tham gia nghiên cứu được giải 
thích rõ mục tiêu nghiên cứu và hoàn toàn tự 
quyết định sự tham gia của họ trong nghiên 
cứu.
III. KẾT QUẢ
1. Một số đặc điểm bệnh nhân 
Sau khi PTNSMĐRCL cho 24 bệnh nhân 
chúng tôi thu được một số đặc điểm của bệnh 
nhân như sau:
Tuổi trung bình 7,5 tuổi, nhỏ nhất là 5 tuổi, 
lớn nhất 15 tuổi. Thời gian mắc XHGTCMD 
trung bình 18,5 tháng. Tỉ lệ nữ/nam là 14/10
2. Triệu chứng lâm sàng
Bảng 1. Các triệu chứng lâm sàng
Triệu chứng lâm sàng Số bệnh nhân Tỷ lệ (%)
Xuất huyết dưới da 20 83,3
Chảy máu cam 4 16,7
Hội chứng cushing 18 75
Triệu chứng lâm sàng phổ biến nhất là xuất huyết dưới da, đây cũng là triệu chứng gợi ý đến 
bệnh XHGTCMD. Có 4 bệnh nhân (16,7%) có tiền sử xuất huyết nặng là xuất huyết não (1 bệnh 
nhân) và xuất huyết đường tiêu hoá (3 bệnh nhân).
3. Cận lâm sàng
Bảng 2. Số lượng tiểu cầu máu ngoại vi trước mổ
Số lượng tiểu cầu máu ngoại vi (109/L) Số bệnh nhân Tỷ lệ (%)
< 20 10 41,7
≥ 20 - 50 8 33,3
> 50 6 25
Tiểu cầu máu ngoại vi trước mổ trung bình là 40,8 x 10⁹/L, có 75% bệnh nhân có số lượng tiểu 
cầu trong máu ngoại vi ≤ 50 x 10⁹/L, đây là mức tiểu cầu thấp cần phải truyền tiểu cầu ngay trước 
mổ để đảm bảo an toàn cho cuộc mổ.
4. Kết quả phẫu thuật
Bảng 3. Kết quả phẫu thuật
Kết quả Đơn vị Tối thiểu Tối đa Số bệnh nhân Trung bình
Thời gian mổ Phút 55 150 24 90,2 ± 30,2
Mất máu ml 0 100 24 38,5 ± 17,2
Lách phụ Bệnh nhân 3
Chuyển mổ nội soi nhiều 
cổng Bệnh nhân 0
Mổ mở Bệnh nhân 0
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 132 (8) - 2020 33
Kết quả Đơn vị Tối thiểu Tối đa Số bệnh nhân Trung bình
Thời gian hậu phẫu Ngày 3 7 24 4,82 ± 1,70
Biến chứng sau mổ Bệnh nhân 2
Tử vong bệnh nhân 0
Phẫu thuật được tiến hành an toàn cho cả 24 bệnh nhi, không có bệnh nhân nào phải đặt thêm 
trocar để chuyển thành PTNS nhiều cổng. Biến chứng sau mổ chỉ có 2 bệnh nhi bị nhiễm trùng vết 
mổ được điều trị ổn định.
Bảng 4. So sánh kết quả phẫu thuật các nhóm theo số lượng tiểu cầu máu ngoại vi trước 
mổ và theo cân nặng bệnh nhân
Theo tiểu cầu máu ngoại vi trước mổ Theo cân nặng
TC<20 x 109/L
N = 10
TC ≥20 x 109/L
N = 14
p
Bình thường
N = 12
Béo phì
N = 12
p
Thời gian 
phẫu thuật 
(phút)
95,0 ± 32,3 83,2 ± 25,6 0,328 72,5 ± 22,8 107,9 ± 37,6 0,017
Lượng 
máu mất 
(ml)
39,0 ± 21,9 36,9 ± 15,2 0,783 34,3 ± 16,4 42,7 ± 18,0 0,245
Thời gian 
hậu phẫu 
(ngày)
5,13 ± 1,72 4,46 ± 1,60 0,337 4,34 ± 1,50 5,30 ± 1,90 0,183
Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về thời gian phẫu thuật ở nhóm bệnh nhân béo phì và cân 
nặng bình thường với p < 0,05
Biểu đồ 1. Thời phẫu thuật của các ca mổ
Thời gian mổ của các ca giảm dần và ổn định từ ca số 7 trở đi.
Th
ờ
i g
ia
n 
m
ổ 
(p
hú
t)
C
a bệnh
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 132 (8) - 202034
Bảng 5. Đáp ứng sớm sau mổ của bệnh nhân cắt lách
Đáp ứng tốt
TC ≥ 100 x 109/L
Đáp ứng kém
50 x 109/L ≤ TC < 100 x 109/L
Không đáp ứng
TC < 50 x 109/L
Sau mổ 24 giờ 17 BN (70,8%) 4 BN (16,7%) 3 BN (12,5%)
Sau mổ 1 tuần 16 BN (66,7%) 3 BN (12,5%) 5 BN (20,8%)
Sau mổ 6 tháng 17 BN (70,7%) 3 BN (12,5%) 4 BN (16,7%)
Đáp ứng tốt sau mổ biểu hiện bằng tiểu cầu 
máu ngoại sau mổ về mức ≥ 100 x 10⁹/L, tỉ lệ 
đáp ứng tốt sau mổ của nghiên cứu là 70,7% ở 
thời gian 6 tháng sau mổ.
IV. BÀN LUẬN
Cắt lách là biện pháp điều trị có hiệu quả với 
các bệnh nhân XHGTC miễn dịch mạn tính, với 
tỉ lệ khỏi bệnh hoàn toàn cao 70 - 90%.1-4 Tuy 
nhiên cắt lách là phương pháp xâm lấn, không 
thể đảo ngược, vẫn có tỉ lệ bệnh nhân không 
đáp ứng (số lượng tiểu cầu vẫn thấp dưới 100 
x 10⁹/L) sau cắt lách, thêm vào đó có tỉ lệ bệnh 
nhân mắc XHGTCMD tự thuyên giảm sau một 
vài năm bệnh.¹
Do đó cắt lách chỉ nên được chỉ định ở 
những bệnh nhân thất bại với điều trị nội khoa 
và với thời gian mắc bệnh ít nhất 1 năm.1,2,3 Tất 
cả 24 bệnh nhi của chúng tôi đều đạt những 
tiêu chuẩn trên với tất cả bệnh nhân đều được 
chẩn đoán XHGTCMD với thời gian mắc bệnh 
trung bình 18,5 tháng.
Triệu chứng lâm sàng phổ biến nhất là xuất 
huyết trên da có thể thành nốt, đám hay mảng 
xuất huyết với 83,3 % bệnh nhân (Bảng 1). Đặc 
biệt trong số 24 bệnh nhân có 1 bệnh nhân có 
tiền sử xuất huyết não và 3 bệnh nhân có tiền 
sử xuất huyết dạ dày đây là các triệu xuất huyết 
nặng. Bệnh nhân XHGTCMD mạn tính khi có 
biểu hiện xuất huyết nặng này kèm số lượng 
tiểu cầu máu ngoại vi thấp thì nên chỉ định cắt 
lách sớm tránh các biến chứng nặng nề nguy 
hiểm tính mạng.1,2
75% bệnh nhân có số lượng tiểu cầu máu 
ngoại trước mổ dưới 50 x 10⁹/L, có nguy cơ 
chảy máu cao trong mổ nên được chỉ định 
truyền tiểu cầu ngay trước khi rạch da để nâng 
tiểu cầu trong máu ngoại vi khi mổ.
Đường rạch da chúng tôi áp dụng là được 
rạch chữ Z trong phạm vi của rốn, đường rạch 
này giúp vết mổ có thể kéo dài về 2 góc, giúp 
thao tác dễ hơn, tránh va chạm của dụng cụ 
nội soi.
Phẫu thuật được tiến hành thành công trên 
24 bệnh nhân. Không có bệnh nhi phải đặt 
thêm trocar để chuyển thành phẫu thuật nội 
soi thông thường nhiều cổng cắt lách. Không 
có bệnh nhân tử vong, không có tai biến trong 
mổ nghiêm trọng, chỉ có 2 bệnh nhân có nhiễm 
trùng vết mổ được điều trị ổn định (Bảng 3). 
Kết quả này tương đương với các nghiên cứu 
đã công bố về PTNS thông thường cắt lách và 
PTNSMĐRCL.2,4,5,6
Thời gian trung bình của ca PTNSMĐRCL là 
90,2 ± 30,2 phút tương đương với các nghiên 
cứu khác và tương đương với thời gian PTNS 
thông thường cắt lách.²
Theo tác giả Keidar A6 có 4 nguyên nhân 
gây khó khăn làm tăng thời gian mổ cho phẫu 
thuật nội soi cắt lách ở bệnh nhân XHGTCMD 
bao gồm: béo phì, lách to, kinh nghiệm của 
phẫu thuật viên và kỹ thuật xử trí mạch máu. 
Bằng việc chia nhóm bệnh nhân theo cân 
nặng béo phì và bình thường theo phân loại 
béo phì của WHO.⁷ Chúng tôi nhận thấy ở 
những bệnh nhân béo phì có thời gian phẫu 
thuật lâu hơn với p = 0,05 khi sử dụng T-test 
(Bảng 4). Điều này có thể giải thích bởi bệnh 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 132 (8) - 2020 35
nhân béo phì thành bụng dầy sẽ gây khó khăn 
trong thao tác của phẫu thuật viên. Bệnh nhân 
béo phì thường cũng có mỡ tập trung ở mạch 
nối nhỏ và cuống lách sẽ mất thời gian để phẫu 
tích hơn.
Kinh nghiệm của phẫu thuật viên cũng là 
yếu tố ảnh hưởng đến thời gian phẫu thuật, 
dựa trên đường cong học tập nhận thấy các 
ca mổ có thời gian giảm nhanh từ ca số 7 trở đi 
và dần tiệm cận với thời gian mổ bằng phương 
pháp nôi soi kinh điển nhiều cổng cắt lách (Biểu 
đồ 1). Cắt lách nội soi một đường rạch là một 
kỹ thuật khó do góc làm việc rất nhỏ và sự va 
chạm của dụng cụ, đòi hỏi phẫu thuật viên phải 
có kinh nghiệm mổ cắt lách nội soi kinh điển 
nhiều cổng trước đó và thời gian làm quen với 
PTNSMĐR cắt lách, thời gian này các tác giả 
cho rằng từ 7 đến 10 ca mổ.4,6
Xử lý cuống lách là thì quan trọng nhất 
trong cắt lách nội soi, nếu để rách những 
mạch máu này thì máu phun sẽ rất dữ dội và 
sẽ phải chuyển mở để cầm máu. Kinh nghiệm 
của chúng tôi trong xử lý cuống lách là bộc lộ 
rõ động tĩnh mạch lách, sau đó dùng dao hàn 
mạch đốt cắt. Dao hàn mạch có khả năng cắt 
đốt các mạch máu đường kính lên đến 7 mm, 
trong xuất huyết giảm tiểu cầu lách không to và 
các mạch máu cũng không tăng kích thước nên 
sử dụng dao hàn mạch vừa an toàn vừa giúp 
tiết kiệm thời gian phẫu thuật.
Năm 2005, Keidar A⁶ cho rằng PTNSCL có 
thể tiến hành ở những bệnh nhân có tiểu cầu 
máu ngoại vi thấp (< 20 x 10⁹/L) nhưng bệnh 
nhân có nguy cơ biến chứng chảy máu trong 
mổ nhiều hơn, phải truyền máu nhiều hơn 
và thời gian nằm viện sau mổ lâu hơn so với 
những bênh nhân có số lượng tiểu cầu máu 
ngoại vi cao hơn. Tuy nhiên trong nghiên cứu 
của chúng tôi khi so sánh giữa 2 nhóm có số 
lượng tiểu cầu máu ngoại vi < 20 x 10⁹/L (n = 
10) và nhóm có số lượng tiểu cầu máu ngoại 
vi ≥ 20 x 10⁹/L (n = 14), chúng tôi không thấy 
sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về thời gian 
mổ, lượng máu mất trong mổ, thời gian nằm 
viện sau mổ (Bảng 4). Điều này giải thích bởi 
chúng tôi tiến hành truyền tiểu cầu máy cho các 
bệnh nhân có tiểu cầu máu ngoại vi dưới 50 x 
10⁹/L ngay trước khi rạch da bệnh nhân trong 
khi Keidar chỉ truyền tiểu cầu cho bệnh nhân có 
tiểu cầu máu ngoại vi < 10 x 10⁹/L. 
Lách phụ được phát hiện ở 3 bệnh nhân (tỉ lệ 
12,5 %) tương đương các nghiên cứu khác.2,6,8 
Lách phụ là một trong những nguyên nhân gây 
tái phát bệnh nên cần phải cắt bỏ triệt để. Vị trí 
lách phụ thường gặp là ở sát cuống lách, trong 
mạch nối nhỏ, có thể có 1 hoặc nhiều lách phụ. 
Nhiều tác giả khuyên nên chụp CT scanner ổ 
bụng hoặc chụp xạ hình để tìm lách phụ trước 
mổ, giúp phẫu thuật viên tránh bỏ sót lách phụ 
trong mổ.⁸
Phẫu thuật nội soi nhiều cổng đã được 
chứng minh là mang lại lợi ích đáng kể cho 
bệnh nhân so với phẫu thuật mở về mặt đau, 
thời gian phục hồi sau phẫu thuật và thẩm 
mỹ.2,3,4,5,6,9,10 So sánh về mức độ thẩm mỹ của 
PTNSMĐRCL với PTNSCL thông thường nhiều 
cổng các tác giả đều cho rằng PTNSMĐRCL 
có kết quả thẩm mỹ hơn so với PTNS thông 
thường cắt lách.4,5,9,10 Dễ dàng nhận ra rằng: 
Thứ nhất với PTNSMĐRCL số lượng sẹo mổ 
trên thành bụng đã giảm từ 3 - 5 sẹo xuống 
còn 1 sẹo. Thứ hai với PTNS nhiều cổng cắt 
lách mặc dù vết rạch đặt trocar rốn lúc đầu là 
12mm nhưng sau đó khi lấy lách ra ngoài cũng 
phải mở rộng vết mổ này lên 2 - 3 cm do đó 
vết rạch tại rốn của PTNS nhiều cổng cắt lách 
cũng tương đương vết rạch của PTNSMĐRCL. 
Thứ ba đa số tác giả thực hiện PTNSMĐRCL 
sử dụng đường vào là rốn, rốn lại là 1 sẹo bẩm 
sinh nên bệnh nhân xem như không có thêm 
sẹo mới nào, hoặc sẹo được che khuất vì vậy 
phẫu thuật được thực hiện như là không có sẹo 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 132 (8) - 202036
mổ và kết quả thẩm mỹ là tối ưu.
Về đáp ứng số lượng TC máu ngoại vi sau 
mổ được chia làm các nhóm: Đáp ứng tốt (sau 
mổ TC máu ngoại vi ≥ 100 x 10⁹/L), đáp ứng 
kém (sau mổ 50 x 10⁹/L ≤ TC máu ngoại vi < 
100 x 10⁹/L) và không đáp ứng sau mổ (số 
lượng TC máu ngoại vi < 50 x 10⁹/L). Tỉ lệ đáp 
ứng của nghiên cứu khoảng 70,8% với thời 
gian sau 6 tháng (Bảng 5) tương đương các 
nghiên cứu khác đã được báo cáo từ 70 đến 
90%.5,6,9,10,11 Với xét nghiệm TC máu ngoại vi 
sau mổ 24 giờ thường cao hơn do với những 
bệnh nhân có TC trước mổ < 50 x 10⁹/L được 
truyền TC ngay trước mổ. Các nghiên cứu cũng 
chỉ ra rằng có một tỉ lệ đáp ứng muộn sau mổ 
một đến vài năm vậy nên cần theo dõi lâu dài 
số lượng TC máu ngoại vi bệnh nhân.11
V. KẾT LUẬN
Trong nghiên cứu này chúng tôi nhận thấy 
PTNSMĐRCL tuân theo chỉ định chung cắt lách 
điều trị XHGTCMD. Là một lựa chọn tốt khi chỉ 
định cắt lách cho bệnh nhi XHGTXMD, ngay cả 
với những bệnh nhi có số lượng tiểu cầu thấp 
dưới 10 x 10⁹/L phẫu thuật vẫn được tiến hành 
an toàn. Phẫu thuật có kết quả thẩm mỹ hơn so 
với PTNS cắt lách thông thường nhiều cổng do 
sẹo mổ trùng với sẹo tự nhiên là rốn. Tỉ lệ bệnh 
nhân đáp ứng về tiểu cầu sau mổ tương đương 
phương pháp cắt lách nội soi nhiều cổng. Tuy 
nhiên nghiên cứu cần thêm thời gian và bệnh 
nhân để đánh giá chính xác hơn các kết quả 
của PTNSMĐRCL ở bệnh nhi XHGTCMD.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Hà Thanh. Bệnh xuất huyết giảm 
tiểu cầu chưa rõ nguyên nhân. Bài giảng bệnh 
học nội khoa tập I.NXB Y học. 2007:25-29.
2. Delaitre B, Maignien B. Laparoscopic 
splenectomy: technical aspects. Surg Endosc. 
1996;6:305-308.
3. Barbaros U, Ahmet D. Single incision 
laparoscopic splenectomy: the first two cases. 
J Gastrointest Surg. 2009;13:1520. 
4. Robert B, Trevor B, Thomas H et all. 
Single-incision laparoscopic splenectomy in 
children. J Pediatr Surg.2012;47(5):898-903.
5. Lê Trọng Quân, Nguyễn Hoàng Bắc. 
Nghiên cứu kết quả phẫu thuật nội soi một vết 
mổ cắt lách trong điều trị xuất huyết giảm tiểu 
cầu tự miễn. Tạp chí Y học TP. Hồ Chí Minh. 
2014; 7(1):51-62. 
6. Keidar A, Sagi B, Szold A. Laparoscopic 
splenectomy for immune thrombocytopenic 
purpura in patients with severe refractory 
thrombocytopenia. Pathophysiol Haemost 
Thromb. 2003; 33: 116 – 119.
7. World Health Organization . Obesity: 
preventing and managing the global epidemic: 
report of a WHO consultation. Geneva: World 
Health Org; 2000. 
8. Barbaros U, Dinccag A, Erbil Y, Mercan 
S, et al. Handheld gamma probe used to detect 
accessory spleens during initial laparoscopic 
splenectomies. Surg Endosc. 2007; 21:115 – 
119.
9. Fan Y, Wu SD, Kong J et al. Feasibility 
and safety of single- incision laparoscopic 
splenectomy: a systematic review", J Surg 
Res.2014; 186(1), 354 - 62. 
10. Choi KK, Kim JM, Park H et al. 
Single-Incision Laparoscopic Splenectomy 
Versus Conventional Multiport Laparoscopic 
Splenectomy: A Retrospective Comparison of 
Outcomes. Surg Innov. 2013; 20(1): 40 - 5.
11. Martin Arnau B, Turrado Rodriguez 
V, Ernesto T et al. Impact of preoperative 
platelet count on perioperative outcome 
after laparoscopic splenectomy for idiopathic 
thrombocytopenic purpura. Cir Esp. 2016; 
94(7): 399 - 403.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 132 (8) - 2020 37
Summary
EARLY OUTCOME OF SINGLE INCISION LAPAROSCOPIC 
SPLENECTOMY FOR IMMUNE THROMBOCYTOPENIC 
PURPURA IN CHILDREN
Single incision laparoscopic surgery is trending as a less invasive surgery for reducing 
scar tissue and increasing the asthetic efficiency. In this study, we describe the indications and 
early evaluation of the single incision laparoscopic splenectomy (SILS) method in children 
with immune thrombocytopenic purpura (ITP). The study is perfomed at the pediatric surgery 
department of Viet Duc hospital from January 2016 to June 2019. Surgery was performed 
successfully on 24 pediatric patients, with no conversion to multi port laparoscopic splenectomy. 
The average surgery time was 90.2 ± 30.2 minutes with no complication and high asthetic 
result. We conclude that SILS is safe and feasible with high asthetic result for children with ITP. 
Key words: Single incision laparoscopic surgery, Immune thrombocytopenic purpura

File đính kèm:

  • pdfket_qua_buoc_dau_cua_phau_thuat_noi_soi_mot_duong_rach_cat_l.pdf