Kết quả ban đầu phẫu thuật bệnh lý đĩa đệm cột sống cổ lối trước sử dụng miếng ghép tự khóa

Phẫu thuật lấy đĩa đệm cổ lối trước hàn xương liên thân đốt (ACDF) được chỉ định rộng rãi trong các

bệnh lý thoái hóa hoặc thoát vị cột sống cổ đa tầng. Trước đây, phẫu thuật viên sử dụng nẹp cổ trước để

đảm bảo độ vững và tránh tình trạng lún miếng ghép đĩa đệm. Tuy nhiên nẹp cổ trước cũng đem lại nhiều

biến chứng, như tổn thương phần mềm quanh thực quản gây phù nề, khó nuốt, đặc biệt nghiêm trọng trong

phẫu thuật đa tầng đĩa đệm. Miếng ghép đĩa đệm tự khóa ra đời, đảm bảo tỷ lệ liền xương tối đa, hạn chế

biến chứng khó nuốt và rút ngắn thời gian phẫu thuật. Cuối năm 2019, hệ thống này đã được FDA chấp

nhận trong các phẫu thuật cột sống cổ đa tầng. Tại khoa ngoại A, Bệnh viện Đại học Y Hà Nội chúng tôi

đã tiến hành ứng dụng và thu được những kết quả bước đầu thuận lợi. Bước đầu nghiên cứu tiến cứu trên

10 bệnh nhân có thoái hóa và thoát vị đĩa đệm cột sống cổ

pdf 10 trang phuongnguyen 160
Bạn đang xem tài liệu "Kết quả ban đầu phẫu thuật bệnh lý đĩa đệm cột sống cổ lối trước sử dụng miếng ghép tự khóa", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Kết quả ban đầu phẫu thuật bệnh lý đĩa đệm cột sống cổ lối trước sử dụng miếng ghép tự khóa

Kết quả ban đầu phẫu thuật bệnh lý đĩa đệm cột sống cổ lối trước sử dụng miếng ghép tự khóa
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 134 (10) - 2020232
KẾT QUẢ BAN ĐẦU PHẪU THUẬT BỆNH LÝ ĐĨA ĐỆM 
CỘT SỐNG CỔ LỐI TRƯỚC SỬ DỤNG MIẾNG GHÉP TỰ KHÓA
Kiều Đình Hùng và Trần Trung Kiên 
Bệnh viện Đại học Y Hà Nội
Phẫu thuật lấy đĩa đệm cổ lối trước hàn xương liên thân đốt (ACDF) được chỉ định rộng rãi trong các 
bệnh lý thoái hóa hoặc thoát vị cột sống cổ đa tầng. Trước đây, phẫu thuật viên sử dụng nẹp cổ trước để 
đảm bảo độ vững và tránh tình trạng lún miếng ghép đĩa đệm. Tuy nhiên nẹp cổ trước cũng đem lại nhiều 
biến chứng, như tổn thương phần mềm quanh thực quản gây phù nề, khó nuốt, đặc biệt nghiêm trọng trong 
phẫu thuật đa tầng đĩa đệm. Miếng ghép đĩa đệm tự khóa ra đời, đảm bảo tỷ lệ liền xương tối đa, hạn chế 
biến chứng khó nuốt và rút ngắn thời gian phẫu thuật. Cuối năm 2019, hệ thống này đã được FDA chấp 
nhận trong các phẫu thuật cột sống cổ đa tầng. Tại khoa ngoại A, Bệnh viện Đại học Y Hà Nội chúng tôi 
đã tiến hành ứng dụng và thu được những kết quả bước đầu thuận lợi. Bước đầu nghiên cứu tiến cứu trên 
10 bệnh nhân có thoái hóa và thoát vị đĩa đệm cột sống cổ. Đã có 21 miếng ghép được sử dụng. Các bệnh 
nhân được đánh giá triệu chứng lâm sàng trước và sau mổ theo protocol, theo thang điểm đau VAS (Visual 
Analogue Scale), thang điểm chức năng cột sống cổ NDI (Neck Disability Index) và đánh giá mức độ khó 
nuốt sau mổ. Bệnh nhân được chụp xquang đánh giá trước và sau mổ về các chỉ số góc cột sống cổ, thời 
gian, lượng máu mất cũng như các biến chứng. Kết quả cho thấy các bệnh nhân đều có tiến triển tốt về triệu 
chứng đau kiểu rễ và đau cột sống cổ, chỉ số chức năng cột sống cổ cải thiện tốt. X-quang sau mổ không 
ghi nhận có bất thường, ghi nhận có sự cải thiện về độ ưỡn cột sống cổ. Thời gian phẫu thuật ngắn hơn và 
lượng máu mất ít hơn. Không ghi nhận trường hợp nào có biểu hiện khó nuốt và các biến chứng nói chung. 
Phẫu thuật cột sống cổ lối trước sử dụng miếng ghép tự khóa cho hiệu quả lâm sàng tốt, mức độ chỉnh trục 
cột sống tốt, rút ngắn thời gian phẫu thuật và hiện tại không ghi nhận biến chứng sau mổ kể cả nuốt nghẹn. 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Từ khóa: Miếng ghép đĩa đệm tự khóa, ACDF, biến chứng, khó nuốt
Phẫu thuật lấy đĩa cột sống và hàn xương 
lối trước đã được coi là kỹ thuật kinh điển trong 
điều trị bệnh lý thoái hóa cũng như biến dạng 
cột sống cổ có hội chứng rễ và hội chứng tủy. 
Mục tiêu của phẫu thuật trên nhằm giải phóng 
chèn ép thần kinh và duy trì độ vững của đơn 
vị cột sống cổ tương ứng . Những báo cáo đầu 
tiên về kỹ thuật này đã được công bố cách đây 
hơn 60 năm,¹ cho đến nay đã có rất nhiều cải 
tiến tiến. Đơn vị cột sống sẽ được cố định bằng 
hệ thống nẹp lối trước sau khi hàn xương liên 
thân đốt với nhiều ưu điểm như tăng độ vững 
về cấu trúc, tăng tỷ lệ hàn xương. Tuy nhiên 
đi kèm là các tổn thương cấu trúc phần mềm 
gây khó nuốt, đặc biệt ở các phẫu thuật đa tầng 
cột sống cổ, chiếm đến 51%.2,3 Đã có những 
giả thuyết về các yếu tố gây khó nuốt sau phẫu 
thuật cổ trước kèm nẹp vít như: kéo quá mạnh 
khi đặt nẹp, nẹp chèn ép trực tiếp vào thực 
quản, nẹp kích ứng các cấu trúc phần mềm 
Tác giả liên hệ: Trần Trung Kiên,
Bệnh viện Đại học Y Hà Nội
Email: [email protected]
Ngày nhận: 10/10/2020
Ngày được chấp nhận: 08/12/2020
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 134 (10) - 2020 233
xung quanh.4,5
Trong 20 năm gần đây, quan điểm về việc 
hàn xương liên thân đốt không sử dụng nẹp 
lối trước cũng đã được đưa ra, sử dụng nhiều 
vật liệu khác nhau như titan, sợi carbon hay 
PEEK⁶ Hạn chế của kỹ thuật này là chỉ sử 
dụng cho bệnh lý đĩa đệm đơn tầng, không 
chỉnh được trục ưỡn cột sống cổ và có tỷ lệ 
lún miếng ghép đĩa đệm vào thân đốt sống khá 
cao.⁷ Thế hệ tiếp theo của hệ thống miếng ghép 
đĩa đệm đơn thuần này là miếng ghép đi kèm 
vít khóa. Theo xu thế, có rất nhiều hệ thống 
trên đã ra đời, trong đó hệ thống Interlock của 
Nuvasive đã được FDA công nhận trong ứng 
dụng phẫu thuật đơn tầng và đa tầng cột sống 
cổ lối trước (từ C2 đến T1) vào tháng 11 năm 
2019. Cũng với cấu hình trên, đã có rất nhiều 
nghiên cứu cho thấy hiệu quả tương đương với 
phẫu thuật nẹp lối trước kinh điển8,9 trong khi 
giảm thiểu tối đa triệu chứng nuốt nghẹn cũng 
như việc không cần đặt nẹp, rút ngăn thời gian 
phẫu thuật.² Nghiên cứu này được thực hiện 
nhằm đánh giá kết quả điều trị dựa trên triệu 
chứng lâm sàng và cận lâm sàng và bước đầu 
đánh giá tính ưu việt và tỷ lệ biến chứng sau 
phẫu thuật.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
Tiêu chuẩn lựa chọn: (i) các bệnh nhân (BN) 
từ 18 – 80 tuổi; (ii) có tổn thương đa tầng đĩa 
đệm do chấn thương hoặc bệnh lý; (iii) điều trị 
bảo tồn thất bại sau 4 – 6 tuần đối với bệnh lý. 
Tiêu chuẩn loại trừ: (i) BN trong tình trạng 
nguy kịch hoặc kèm theo các bệnh hệ thống 
hoặc ung thư; (ii) BN được kèm chẩn đoán hẹp 
ống sống do nguyên nhân phía sau hoặc do cốt 
hóa dây chằng dọc sau; (iii) BN kèm theo tình 
trạng loãng xương nặng.
2. Phương pháp
Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu tiến cứu.
Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 5 năm 2020 
đến tháng 7 năm 2020
Địa điểm nghiên cứu: Nghiên cứu được tiến 
hành tại Khoa ngoại A, Bệnh viện Đại học Y Hà 
Nội.
Phương pháp chọn mẫu và cỡ mẫu: Chọn 
mẫu thuận tiện và tuyển chọn được 10 bệnh 
nhân đủ tiêu chuẩn, trong đó có 2 trường hợp 
chấn thương và 8 trường hợp bệnh lý.
Hệ thống sử dụng trong phẫu thuật: miếng 
ghép đĩa đệm tự khóa – Interlock (Nuvasive), 
chất liệu bằng PEEK (PolyEtherEtherKetone - 
polyme nhựa nhiệt dẻo hữu cơ) và hệ thống 
vít titan tự khóa. Miếng ghép trên có diện ghép 
xương lớn (17 x 14 mm) và bờ tỳ toàn bộ vào 
cấu trúc xương cứng cột sống cổ làm tăng tỷ 
lệ liền xương, độ ưỡn 70 chiều cao dao động 
từ 5 – 12 mm (bước tăng 1 mm). Kích thước 
được lựa chọn trực tiếp trong mổ. Hệ thống vít 
tự khóa gồm 3 vít: 1 trên nằm giữa và 2 dưới 
nằm hai bên.
Phẫu thuật: Phẫu thuật lối trước theo kỹ 
thuật Smith – Robinson và gây mê nội khí quản. 
Rạch da đường ngang cổ bên trái, định vị đĩa 
đệm, lấy đĩa, mở rộng khoảng gian đĩa, giải ép 
dưới kính vi phẫu có sử dụng khoan mài, lấy 
bỏ toàn bộ chèn ép tủy sống và rễ thần kinh. 
Tùy mức độ chèn ép và tính chất của thoát vị 
đĩa đệm, sẽ có các cách mở xương tương ứng. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi chỉ sử dụng kỹ 
thuật lấy đĩa lối trước nên kỹ thuật mở xương 
chủ yếu theo phân độ I và độ IV.
Hình 1. Phân độ mở xương theo Ames10 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 134 (10) - 2020234
Hình 2. A: Tiêu chuẩn giải ép thần kinh: lấy bỏ hoàn toàn dây chằng dọc sau (trái) 
và bộc lộ được tủy sống ngang mức (phải). B: Giải phóng lỗ liên hợp
Chuẩn bị diện ghép cho miếng ghép đĩa đệm bằng khoan mài, sử dụng bộ thử để xác định kích 
thước miếng ghép đĩa đệm thích hợp. Xương ghép liên thân đốt được lấy từ xương tại chỗ và xương 
đồng loại dạng bột, miếng ghép đặt chính xác với trục chịu lực của cột sống cổ. Hệ thống nẹp vít tự 
khóa được đặt sau khi tạo đường vào, vị trí miếng ghép và vít tự khóa được kiểm tra trên Carm 2 
bình diện (trước-sau và bên). Dẫn lưu đáy vết mổ sau khi bơm rửa, cầm máu và kiểm tra các tạng 
xung quanh, cơ bám da cổ được đóng bằng vicryl 2.0, da được đóng bằng chỉ 4.0. Các BN đeo nẹp 
cổ trong 2 tuần sau mổ. Thuốc giảm đau kháng viêm non-steroid liều thấp và paracetamol được duy 
trì sau mổ.
Đánh giá kết quả sau mổ:
Đánh giá trên X-quang: So sánh X-quang trước mổ với X-quang sau mổ.
Hình 3. X-Quang đánh giá
 A: Trục đứng dọc C2-7: khoảng cách giữa đường thẳng ở trung tâm C2 và bờ sau mặt trên đĩa 
C7 (tính bằng cm). Góc nghiêng T1: tạo bởi bờ trên T1 và mặt phẳng ngang. Góc Cobb C2-7: tạo bởi 
đường kẻ song song bờ dưới C2 và bờ dưới C7, trong đó gù khi Cobb < 00, mất đường cong sinh lý 
khi Cobb 0 – 100, ưỡn khi Cobb > 100. 
B: Đánh giá mức độ lún trên X-quang sau mổ.
Đánh giá triệu chứng lâm sàng: BN đước đánh trước và sau mổ và sau 1 tháng dựa trên: (i) thang 
điểm đau VAS được tính từ 0 (không đau) – 10 điểm (đau không chịu nổi), VAS được đánh giá ở cổ 
và mức độ lan kiểu rễ; (ii) bảng điểm mất chức năng cột sống cổ (NDI).
Trong đó: 
NDI < 10% Không ảnh hưởng NDI 10 – 30% Nhẹ
NDI 30 – 50% Trung bình NDI 50 – 70% Nặng
NDI > 70% Ảnh hưởng hoàn toàn
A B
A
B
Trục đứng 
dọc C2-7
Góc nghiêng 
T1
Góc Cobb 
C2-7
tTitanum
Vertebral body
tSubsidence 
direction
tPEEK
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 134 (10) - 2020 235
Mức độ cải thiện theo JOA được đánh giá 
theo công thức:
 RR 17 JOA
JOA JOA 100
t
s t= -
-
#
Với s: sau mổ, t: trước mổ.
RR ≥ 75% Rất tốt
50% ≤ RR < 75% Tốt
25% ≤ RR < 50% Trung bình
RR < 25% Kém
Thời gian phẫu thuật (phút) và lượng máu 
mất trung bình (ml)
Đánh giá biến chứng sớm: chảy máu, nuốt 
khó (theo Bazaz) và khàn tiếng.
Bảng 1. Mức độ khó nuốt theo Bazaz
Mức độ khó nuốt Triệu chứng
Không có
Không ghi nhận khó nuốt 
ngắt quãng
Nhẹ
Hiếm khi khó nuốt ngắt 
quãng
Vừa Thường xuyên khó nuốt
Nặng
Khó nuốt với thức ăn rắn 
và lỏng
3. Xử lý số liệu
Số liệu được nhập vào máy tính và xử lý 
theo chương trình SPSS 23.
4. Đạo đức nghiên cứu
Nghiên cứu tuân thủ các quy định về đạo 
đức trong nghiên cứu y sinh. Các xét nghiệm 
trong nghiên cứu tuân thủ theo đúng các quy 
trình, quy tắc phòng xét nghiệm. Nghiên cứu 
cũng đã được thông qua Hội đồng Đạo đức 
trong nghiên cứu Y sinh học Trường Đại học 
Y Hà Nội số 66/GCN - HĐĐĐNCYSH/ĐHYHN 
ngày 16 tháng 03 năm 2020.
III. KẾT QUẢ
Bảng 2. Đặc điểm của BN trong nghiên cứu 
và vị trí phẫu thuật
Giá trị
Giới
Nam 6
Nữ 4
Tuổi trung bình 54,2 ± 12,6 (tuổi)
Vị trí phẫu thuật
(đĩa đệm)
C34 3
C45 6
C56 9
C67 3
Đánh giá kết quả trên 10 BN: 6 nam và 4 nữ, 
tuổi trung bình: 54,2 tuổi. Có 21 đĩa đệm được phẫu 
thuật, trong đó phẫu thuật nhiều nhất là C56 (42,9%).
1. Hiệu quả của phẫu thuật trên triệu chứng lâm sàng
Bảng 3. Mức độ cải thiện triệu chứng lâm sàng theo các thang điểm
Giá trị
Trước mổ Sau mổ Sau 1 tháng
VAS cổ 5,4 ± 0,8 1,5 ± 0,7 1,6 ± 0,6
VAS tay 5,6 ± 1,4 1,4 ± 0,7 1,2 ± 0,2
NDI 40 ± 15,1 19,4 ± 11,4 18,2 ± 9,3
JOA 13,5 ± 2,6 15,6 ± 1,8 15,8 ± 1,5
Trong đó 100 % BN cải thiện tốt đánh giá theo thang điểm VAS. Mức độ giảm chức năng cột sống 
NDI cải thiện về mức ảnh hưởng nhẹ. 1 BN 80 tuổi, NDI trước mổ 76% nên sau mổ cải thiện chậm 
hơn 48%.
Mức độ cải thiện triệu chứng theo thang điểm JOA ngay sau mổ đạt trung bình 71,7 %, trong đó 
mức phục hồi 100% là 4/10 BN. Mức độ hài lòng của BN theo MacNab sau 1 tháng: có 8/10 BN rất 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 134 (10) - 2020236
hài lòng với phẫu thuật. Không ghi nhận trường hợp nào không hài lòng sau mổ.
2. Hiệu quả trên cận lâm sàng
Bảng 4. Mức độ cải thiện các chỉ sổ đo trên X-quang nghiêng
Giá trị
Trước mổ Sau 1 tháng
Cobb C2-7 (độ) 12,2° ± 10,2° 20,7° ± 11,5°
Trục dọc C2-7 (mm) 22,6 ± 10,7 12,8 ± 10,2
Nghiêng T1 (độ) 28,9°± 7,5° 30,1°± 7,2°
tầng đĩa đệm đã được khẳng đinh. Nghiên cứu 
đa trung tâm của Nambiar và công sự12 năm 
2017 đã cho thấy không có sự khác biệt về 
kết quả phẫu thuật, góc nắn chỉnh và tỷ lệ liền 
xương giữa hệ thống này và hệ thống nẹp lối 
trước. Trong nghiên cứu của chúng tôi, mức độ 
cải thiện triệu chứng đau cổ và đau kiểu rễ khá 
tương đồng với các nghiên cứu trước đó,4,6 kể 
cả trong các phẫu thuật đa tầng cột sống cổ. 
Điều này có sự khác biệt đáng kể so với hệ 
thống miếng ghép đơn thuần không sử dụng vít 
khóa, đối với hệ thống này thì việc phẫu thuật 
đa tầng thường gặp nhiều biến chứng sớm như 
chậm liền xương hoặc di lệch miếng ghép.6,7 
Tương tự, có sự cải thiện đáng kể về mức 
độ mất chức năng cột sống cổ theo thang điểm 
NDI và JOA. Có 90% BN cải thiện về mức độ 
ảnh hưởng cột sống nhẹ theo chỉ số NDI. Đặc 
biệt mức độ cải thiện ngay sau mổ theo JOA 
lên đến 71,7 %. Do đây chỉ là kết quả bước đầu 
nên chúng tôi chưa đánh giá sự xuất hiện triệu 
chứng sớm của bệnh lý thoái hóa đốt liền kề 
cũng như hiệu quả liền xương. Song và cộng 
sự13 và Joo và cộng sự14 cho rằng tỷ lệ xuất 
hiện thoái hóa đốt liền kề là 7,9% và 4,5% sau 2 
năm. Các tác giả đều thống nhất về các nguyên 
nhân như: đã có thoái hóa từ trước mổ nhưng 
không có triệu chứng, do bù trừ tầm vận động 
hoặc do dãn đĩa đệm quá mạnh. Tỷ lệ rất hài 
lòng của BN theo MacNab sau 1 tháng là 80%, 
hạn chế trong nghiên cứu của chúng tôi là số 
Góc ưỡn cột sống cổ đo từ C2 – C7 trung 
bình cải thiện từ 12,2° lên 20,7° và khoảng 
cách trục dọc C2 – C7 giảm xuống từ 22,6 
đến 12,8mm. Cả 2 sự cải thiện này đều có sự 
khác biệt có ý nghĩa thống kê (p = 0,05). Góc 
nghiêng T1 thay đổi từ 28,9° lên 30,1°, không 
có khác biệt.
Thời gian trung bình phẫu thuật là: 142,5 ± 
50,2 (phút)
Lượng máu mất trung bình là: 75 ± 26,5 (ml)
Không ghi nhận biến chứng sau mổ bao 
gồm cả chảy máu, nói khàn và nuốt nghẹn. Ghi 
nhận 1 BN sốt nhẹ sau mổ chấn thương ngày 
thứ (38,2 độ), BN được hướng dẫn ngồi dậy 
sớm và vỗ rung kết hợp thay kháng sinh, ngày 
hôm sau hết sốt.
IV. BÀN LUẬN
Phẫu thuật lấy đĩa cổ trước hàn xương liên 
thân đốt được thực hiện khá thường xuyên 
trong các bệnh lý cột sống cổ. Việc sử dụng 
mảnh xương chậu trong những ngày đầu, nay 
đã được thay thể do có quá nhiều biến chứng 
liên quan đến vùng lấy xương. Cùng với việc 
thay đổi về vật liệu ghép xương liên thân đốt, 
miếng ghép liên thân đốt và nẹp cổ trước cũng 
dần được thay thế bởi miếng ghép liền vít, với 
mong muốn hạn chế những biến chứng liên 
quan đến nẹp cổ trước như lỏng vít, bung nẹp 
và nuốt nghẹn.11 Mức độ an toàn của miếng 
ghép đĩa đệm tự khóa trong phẫu thuật đơn 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 134 (10) - 2020 237
lượng BN còn quá ít và kết quả cần được theo 
dõi sát trong thời gian dài để có thể khẳng định 
hiệu quả tuyệt đối.
Sự cải thiện của số đo góc Cobb C2 – 7 và 
trục dọc C2 – 7 có khác biệt có ý nghĩa thống 
kê. Điều này khá tương đồng với nghiên cứu 
khác khi đánh giá 1 tháng sau mổ và theo dõi 
liên tục trong 1 năm sau đó.15 Tuy nhiên khi theo 
dõi sau 2 năm, các tác giả có ghi nhận có sự 
thay đổi về góc Cobb C2 – 7, Kim và cộng sự16 
quan sát có sự tiến triển gù cột sống sau 2 năm 
đối với các phẫu thuật đa tầng. Han và cộng 
sự17 theo dõi sau 2 năm có tiến triển gù 2,1o so 
với sau mổ.
 Hình 4. Đánh giá các góc đo trước và sau phẫu thuật: góc Cobb C2-7 (trắng đậm), góc trượt 
T1 (đen) và khoảng cách trục dọc C2-7 (trắng mảnh)
Hình 5. Góc T1: Góc càng lớn lực tác động lên khối cơ và dây chằng phía sau càng lớn 
và cột sống có nguy cơ trượt ra phía trước.
Lý giải tình trạng mất ưỡn hay tăng tiến triển 
gù nói trên là do tình trạng thoái hóa đĩa đệm 
liền kề, loãng xương và đặc biệt là tình trạng 
miếng ghép bị lún tại chỗ vào thân đốt sống. 
Eugene Pak-Lin Ng và cộng sự15 nghiên cứu 
trên 31 trường hợp phẫu thuật từ 2 tầng trở lên 
cho thấy tỷ lệ lún miếng ghép đĩa đệm là 22,5% 
sau 6 tháng theo dõi, tuy nhiên tình trạng này 
giữ nguyên sau 2 năm theo dõi. Trong y văn, 
cũng ghi nhận rất nhiều kết quả khác nhau liên 
quan đến lún miếng ghép đĩa đệm; Kim và cộng 
sự16 ghi nhận tỷ lệ trên là 66,6 % sau 2 năm 
trong nhóm 12 BN được phẫu thuật 2 tầng đĩa 
đệm. Đối với phẫu thuật 1 tầng đĩa đệm, tỷ lệ 
trung bình thường gặp ghi nhận là 23,5%.18 
Nguyên nhân trực tiếp dẫn đến tình trạng này 
được khẳng định có liên quan đến các kỹ thuật 
trong mổ. Có thể kể đến như tầng phẫu thuật 
gần tầng bản lề C67 có tỷ lệ gặp cao hơn các 
vùng khác (đặc biệt đối với các trường hợp có 
góc trượt T1 lớn > 30o) hoặc diện ghép xương 
trước sau của đĩa đệm ngắn hay do đặt đĩa đệm 
quá sâu vào vùng xương xốp.19,20 Khắc phục 
tình trạng đó, chúng tôi sử miếng ghép tự khóa, 
có chiều rộng ghép xương rất lớn (17 x 14 mm), 
khi đặt vào đĩa đệm, cả 3 bờ của đĩa đều tiếp 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 134 (10) - 2020238
xúc sát với phần xương cứng của cột sống cổ. 
Khi đặt cage, chúng tôi chủ động đặt gần mép 
phía trước nhất có thể và gần như không giãn 
nẹp trong khi đặt đĩa. Ngoài ra, trước khi đặt vít, 
chúng tôi đánh giá sơ bộ chỉ số khoảng cách 
trục dọc C2 - 7 ( 
28o). Mặc dù tình trạng lún đĩa đệm ghi nhận 
là không liên quan đến tuổi, giới hay số tầng 
phẫu thuật kể cả chỉ số JOA khi so sánh giữa 
2 nhóm không lún và có lún cũng không có sự 
khác biệt,15,20 nhưng lún đĩa đệm có thể gây hẹp 
lỗ liên hợp 2 bên và biểu hiện hội chứng chèn 
ép rễ rõ rệt.16
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tất cả các 
BN đều được tiếp cận sử dụng đường rạch 
ngang nếp lằn da cổ, cho hiệu quả thẩm mỹ cao 
và không thay đổi về thời gian trung bình phẫu 
thuật.
Thời gian phẫu thuật trung bình là 142,5 ± 
50,2 phút và lượng máu mất trung bình 75 ± 26,5 
ml (mất nhiều nhất ở phẫu thuật can thiệp 4 tầng 
là 220 ml). Trong nghiên cứu của chúng tôi cũng 
không ghi nhận bất kỳ biến chứng nào liên quan 
đến khàn tiếng và nuốt nghẹn. Kết quả ban đầu 
này khá phù hợp với các tác giả nghiên cứu về 
hệ thống miếng ghép không liền nẹp trước đó.2,9
Hình 6. Đường mổ ngang và sử dụng các mũi khâu kéo làm mở rộng trường mổ 
trong các trường hợp can thiệp 4 tầng đĩa đệm.
Nuốt nghẹn mạn tính là một biến chứng khá 
phổ biến sau phẫu thuật cổ trước đa tầng kèm 
nẹp vít.6,14 Về cơ chế bệnh sinh của triệu chứng 
khó nuốt vận chưa được khẳng định rõ ràng 
nhưng khi xuất hiện triệu chứng trên thì nó là 
hậu quả của rất nhiều tác nhân, có thể kể đến 
như: kéo quá mạnh khi đặt nẹp, viêm phản ứng 
tại chỗ và tổn thương trực tiếp thực quản.21 Một 
cách lý giải thuyết phục nhất cho tình trạng trên 
là việc vén thực quản trong một thời gian dài 
cộng với tăng lực vén khi đặt nẹp gây ra thiếu 
máu tại chỗ trong thành thực quản và gây ra 
các biến chứng như phù tế bào, máu tụ sau mổ 
hoặc kích ứng thực quản. Về sau, việc tiếp xúc 
giữa nẹp và các mô xung quanh cũng gây kích 
ứng trực tiếp với thực quản và gây phù nề ở vị 
trí tương ứng. Độ dày của nẹp cổ trước cũng 
đóng một vai trò quan trọng trong việc tiến triển 
của triệu chứng nuốt nghẹn mạn tính: chiều dày 
của nẹp và vị trí của nó nằm ngay sau thực 
quản gây kích ứng các mô xung quanh và gây 
ra nuốt ngẹn.6
Ưu điểm của kỹ thuật chúng tôi sử dụng là 
sử dụng miếng ghép tự khóa không dùng nẹp 
cổ trước, thời gian tiến hành giải ép không khác 
biệt so với phẫu thuật dùng nẹp. Tuy nhiên, 
chúng tôi không cần vén thực quản quá nhiều 
và quá mạnh khi đặt nẹp khóa, ngoài ra khi bộc 
lộ phần trước cột sống, đặc biệt với các phẫu 
thuật nhiều tầng, chúng tôi chủ động giải phóng 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 134 (10) - 2020 239
làm di động các tạng khá rộng rãi trước khi 
tiến hành đặt bộ vén để lấy đĩa. Mỗi một tiếng, 
chúng tôi chủ động nới bộ vén trong 2 - 3 phút.
V. KẾT LUẬN
Hệ thống miếng ghép đĩa đệm tự khóa trong 
phẫu thuật đa tầng cột sống cổ lối trước cho kết 
quả cải thiện tốt trên triệu chứng lâm sàng và 
tái tạo được cấu trúc cột sống cổ theo trục dọc. 
Hệ thống có nhiều ưu điểm như: rút ngắn thời 
gian phẫu thuật, không ghi nhận biến chứng 
đặc biệt triệu chứng nuốt nghẹn trong phẫu 
thuật từ 3 tầng trở lên. Tuy nhiên, nghiên cứu 
cần thêm thời gian để theo dõi mức tiến triển 
triệu chứng cũng như đánh giá các biến chứng 
xa như: thoái hóa đốt liền kề, lún miếng ghép, 
gù tiến triển và đặc biệt cần so sánh với phẫu 
thuật kinh điển sử dụng nẹp lối trước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Smith GW, Robison RA. The treatment 
of certain cervical-spine disorders by anterior 
removal of the intervertebral disc and interbody 
fusion. J Bone Joint Surg Am. 1958; 40(3): 607 
- 624.
2. Hofstetter CP, Kesavabhotla K, Boockvar 
JA. Zero-profile anchored spacer reduces 
rate of dysphagia compared with ACDF with 
anterior plating. Journal of Spinal Disorders and 
Techniques. 2015; 28(5): E284 - E290.
3. Fraser JF, Härtl R. Anterior approaches 
to fusion of the cervical spine: a metaanalysis 
of fusion rates. Journal of Neurosurgery: Spine. 
2007; 6(4): 298 - 303.
4. Fountas KN, Kapsalaki EZ, Nikolakakos 
LG, et al. Anterior cervical discectomy and fusion 
associated complications. Spine. 2007; 32(21): 
2310 - 2317.
5. Heese O, Fritzsche E, Heiland M, Westphal 
M, Papavero L. Intraoperative measurement of 
pharynx/esophagus retraction during anterior 
cervical surgery. Part II: perfusion. European 
Spine Journal. 2006; 15(12): 1839 - 1843.
6. Mobbs RJ, Rao P, Chandran NK. Anterior 
cervical discectomy and fusion: analysis of 
surgical outcome with and without plating. 
Journal of clinical neuroscience. 2007; 14(7): 
639 - 642.
7. Gercek E, Arlet V, Delisle J, Marchesi D. 
Subsidence of stand-alone cervical cages in 
anterior interbody fusion: warning. European 
Spine Journal. 2003; 12(5): 513 - 516.
8. Miao J, Shen Y, Kuang Y, et al. Early 
follow-up outcomes of a new zero-profile implant 
used in anterior cervical discectomy and fusion. 
Clinical Spine Surgery. 2013; 26(5): E193 - E197.
9. Sıfır FADİB, İmplantın P. Outcome 
evaluation of a zero-profile implant for anterior 
cervical diskectomy with fusion. Turkish 
neurosurgery. 2012; 22(5): 611 - 617.
10. Deviren V, Scheer JK, Ames CP. Technique 
of cervicothoracic junction pedicle subtraction 
osteotomy for cervical sagittal imbalance: report 
of 11 cases. Journal of Neurosurgery: Spine. 
2011; 15(2): 174 - 181.
11. Pereira EA, Chari A, Hempenstall J, 
Leach JC, Chandran H, Cadoux-Hudson TA. 
Anterior cervical discectomy plus intervertebral 
polyetheretherketone cage fusion over three and 
four levels without plating is safe and effective 
long-term. Journal of Clinical Neuroscience. 
2013; 20(9): 1250 - 1255.
12. Nambiar M, Phan K, Cunningham JE, 
Yang Y, Turner PL, Mobbs R. Locking stand-
alone cages versus anterior plate constructs 
in single-level fusion for degenerative cervical 
disease: a systematic review and meta-analysis. 
European Spine Journal. 2017; 26(9): 2258 - 
2266.
13. Song KJ, Taghavi CE, Lee KB, Song 
JH, Eun JP. The efficacy of plate construct 
augmentation versus cage alone in anterior 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 134 (10) - 2020240
cervical fusion. Spine. 2009; 34(26): 2886 - 2892.
14. Joo YH, Lee JW, Kwon KY, Rhee JJ, 
Lee HK. Comparison of fusion with cage alone 
and plate instrumentation in two-level cervical 
degenerative disease. Journal of Korean 
Neurosurgical Society. 2010; 48(4): 342.
15. Ng EP, Yip AS, Wan KH, et al. Stand-
Alone Cervical Cages in 2-Level Anterior 
Interbody Fusion in Cervical Spondylotic 
Myelopathy: Results from a Minimum 2-Year 
Follow-up. Asian Spine Journal. 2019; 13(2): 
225 – 232.
16. Kim SY, Yoon SH, Kim D, Oh CH, Oh S. 
A prospective study with cage-only or cage-with-
plate fixation in anterior cervical discectomy and 
interbody fusion of one and two levels. Journal of 
Korean Neurosurgical Society. 2017; 60(6): 691.
17. Han SY, Kim HW, Lee CY, Kim HR, Park 
DH. Stand-alone cages for anterior cervical 
fusion: are there no problems? Korean Journal 
of Spine. 2016; 13(1): 13.
18. Oh JK, Kim TY, Lee HS, et al. Stand-
alone cervical cages versus anterior cervical 
plate in 2-level cervical anterior interbody 
fusion patients: clinical outcomes and radiologic 
changes. Clinical Spine Surgery. 2013; 26(8): 
415 - 420.
19. Barsa P, Suchomel P. Factors affecting 
sagittal malalignment due to cage subsidence 
in standalone cage assisted anterior cervical 
fusion. European Spine Journal. 2007; 16(9): 
1395.
20. Yang JJ, Yu CH, Chang B-S, Yeom JS, 
Lee JH, Lee C-K. Subsidence and nonunion 
after anterior cervical interbody fusion using a 
stand-alone polyetheretherketone (PEEK) cage. 
Clinics in Orthopedic Surgery. 2011; 3(1): 16 - 
23.
21. Fountas KN KE, Machinis T, Robinson 
JS. Extrusion of a screw into the gastrointestinal 
tract after anterior cervical spine plating. J Spinal 
Disord Tech. 2006; 19: 199 - 203.
Summary
A PRELIMINARY RESULTS IN ANTERIOR CERVICAL DISC 
SURGERY USING THE INTERLOCK SYSTEM
Anterior cervical discectomy and fusion (ACDF) is widely indicated for degenerative or multilevel 
cervical disc herniation. In the past, anterior plates were used to maintain stability and avoid 
subsidence. However, they also come with complications, such as soft tissue damaged causing 
esophagus edema, dysphagia, especially in multi-level surgery. The interlock disc graft was invented 
to ensure maximum fusion rate, less complications, dysphagia and save surgery time. By the end 
of 2019, this system was approved by the FDA in multi-level cervical surgery. At Department A, 
Hanoi Medical University Hospital, we have applied and obtained favorable initial results. This is 
a preliminary prospective study of 10 patients with degenerative and cervical disc herniation. 21 
interlocks have been used. Patients were evaluated for clinical symptoms pre-and post operation 
according to protocol, VAS (Visual Analogue Scale) scale for pain, NDI (Neck Disability Index) and 
scale for dysphagia. Pre-and postoperative X-ray assessment of sagittal cervical angle, surgery time, 
blood loss as well as complications were also assessed. All patients had good improvement of nerve 
root compression and cervical pain, improved NDI and improved lordosis. X-ray post-operation did not 
notice any abnormality. Surgery time and blood loss are minimized. There was no dysphagia or general 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 134 (10) - 2020 241
complications. ACDF using interlock came with good results, maintain cervical lordosis, save surgery 
time, blood loss and currently does not record any postoperative complications including dysphagia.
Key words: Interlock, ACDF, complications, dysphagia.

File đính kèm:

  • pdfket_qua_ban_dau_phau_thuat_benh_ly_dia_dem_cot_song_co_loi_t.pdf