Kết quả áp dụng liệu pháp ức chế androgen kết hợp biphosphonate điều trị ung thư tuyến tiền liệt di căn xương tại bệnh viện Trung Ương Quân đội 108

ĐẶT VẤN ĐỀ Ung thư tuyến tiền liệt là một trong những ung thư hay gặp. Theo Globocan 2012, ước tính năm 2012 toàn thế giới có khoảng 1.094.916 bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt mới mắc với tỷ lệ mắc chẩn theo tuổi là 30,7/100.000 dân; có khoảng 307.481 bệnh nhân tử vong do ung thư tuyến tiền liệt với tỷ lệ tử vong chuẩn theo tuổi là 7,8/100.000 dân. Tại Việt Nam, ước tính năm 2012 có khoảng 1.275 bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt mới mắc với tỷ lệ mác chuẩn theo tuổi là 3,4/100.000 dân; có khoảng 872 bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt tử vong với tỷ lệ tử vong chuẩn theo tuổi là 2,5/100.000 dân[1]. Cũng như phần lớn các bệnh ung thư khác, chiến lược điều trị ung thư tuyến tiền liệt là điều trị đa mô thức, phối hợp nhiều phương pháp điều trị: phẫu thuật, tia xạ, ức chế androgen, hóa chất, điều trị miễn dịch Lựa chọn điều trị cụ thể căn cứ vào giai đoạn bệnh, mức nguy cơ, các yếu tố tiên lượng, kỳ vọng sống thêm, tình trạng bệnh nhân Đối với các bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt di căn, cho đến nay, liệu pháp ức chế androgen vẫn là phương pháp điều trị chính. Mặc dù tại thời điểm chẩn đoán chỉ khoảng 5% ung thư tuyến tiền liệt có di căn xa, nhưng khoảng 90% những bệnh nhân này có di căn xương. Di căn xương là yếu tố tiên lượng xấu[2]. Chúng tôi thực hiện nghiên cứu này nhằm đánh giá hiệu quả việc áp dụng liệu pháp ức chế androgen kết hợp bisphosphonate điều trị bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt di căn xương mới chẩn đoán, chưa điều trị

pdf 7 trang phuongnguyen 300
Bạn đang xem tài liệu "Kết quả áp dụng liệu pháp ức chế androgen kết hợp biphosphonate điều trị ung thư tuyến tiền liệt di căn xương tại bệnh viện Trung Ương Quân đội 108", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Kết quả áp dụng liệu pháp ức chế androgen kết hợp biphosphonate điều trị ung thư tuyến tiền liệt di căn xương tại bệnh viện Trung Ương Quân đội 108

Kết quả áp dụng liệu pháp ức chế androgen kết hợp biphosphonate điều trị ung thư tuyến tiền liệt di căn xương tại bệnh viện Trung Ương Quân đội 108
NHI - PHỤ KHOA - NIỆU 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
64 
KẾT QUẢ ÁP DỤNG LIỆU PHÁP ỨC CHẾ ANDROGEN KẾT HỢP 
BIPHOSPHONATE ĐIỀU TRỊ UNG THƯ TUYẾN TIỀN LIỆT DI CĔN 
XƯƠNG TẠI BỆNH VIỆN TRUNG ƯƠNG QUÂN ĐỘI 108 
LA VÂN TRƯỜNG1, TRẦN VĔN TÔN2 
1
 Phụ trách Khoa Chống đau và Chĕm sóc giảm nhẹ - Viện Ung thư Quân đội - Bệnh viện Trung Ương Quân Đội 108 
2
 ThS. Trung tâm Ung Bướu - Bệnh viện Quân Y 103 - Học viện Quân Y 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Ung thư tuyến tiền liệt là một trong những ung 
thư hay gặp. Theo Globocan 2012, ước tính nĕm 
2012 toàn thế giới có khoảng 1.094.916 bệnh nhân 
ung thư tuyến tiền liệt mới mắc với tỷ lệ mắc chẩn 
theo tuổi là 30,7/100.000 dân; có khoảng 307.481 
bệnh nhân tử vong do ung thư tuyến tiền liệt với tỷ lệ 
tử vong chuẩn theo tuổi là 7,8/100.000 dân. Tại Việt 
Nam, ước tính nĕm 2012 có khoảng 1.275 bệnh 
nhân ung thư tuyến tiền liệt mới mắc với tỷ lệ mác 
chuẩn theo tuổi là 3,4/100.000 dân; có khoảng 872 
bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt tử vong với tỷ lệ tử 
vong chuẩn theo tuổi là 2,5/100.000 dân[1]. 
Cũng như phần lớn các bệnh ung thư khác, 
chiến lược điều trị ung thư tuyến tiền liệt là điều trị 
đa mô thức, phối hợp nhiều phương pháp điều trị: 
phẫu thuật, tia xạ, ức chế androgen, hóa chất, điều 
trị miễn dịchLựa chọn điều trị cụ thể cĕn cứ vào 
giai đoạn bệnh, mức nguy cơ, các yếu tố tiên lượng, 
kỳ vọng sống thêm, tình trạng bệnh nhânĐối với 
các bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt di cĕn, cho đến 
nay, liệu pháp ức chế androgen vẫn là phương pháp 
điều trị chính. 
Mặc dù tại thời điểm chẩn đoán chỉ khoảng 5% 
ung thư tuyến tiền liệt có di cĕn xa, nhưng khoảng 
90% những bệnh nhân này có di cĕn xương. Di cĕn 
xương là yếu tố tiên lượng xấu[2]. Chúng tôi thực 
hiện nghiên cứu này nhằm đánh giá hiệu quả việc áp 
dụng liệu pháp ức chế androgen kết hợp 
bisphosphonate điều trị bệnh nhân ung thư tuyến 
tiền liệt di cĕn xương mới chẩn đoán, chưa điều trị. 
ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Là 44 bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt di cĕn 
xương điều trị tại BVTWQĐ 108. Thu thập bệnh 
nhân nghiên cứu từ tháng 7/2010 đến thâng 
12/2017. Thu thập số liệu từ tháng 7/2010 đến tháng 
7/2018. 
Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân 
Chẩn đoán xác định ung thư tuyến tiền liệt dựa 
trên kết quả sinh thiết mô. 
Chẩn đoán di cĕn xương dựa trên triệu chứng 
lâm sàng, xạ hình xương và/hoặc MRI. 
Mới chẩn đoán, chưa điều trị. 
Tình trạng toàn thân 0 – 2 điểm. 
Không có chống chỉ định điều trị Zoladex, 
Diphereline, Casodex và pamisol. 
Tiêu chuẩn loại trừ 
Bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt không có di 
cĕn xương. 
Bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt di cĕn xương 
đã được điều trị trước đó. 
Tình trạng toàn thân > 2 điểm. 
Không thực hiện đầy đủ kế hoạch nghiên cứu. 
Không đồng ý tham gia nghiên cứu. 
Phương pháp nghiên cứu: 
Nghiên cứu tiến cứu, mô tả cắt ngang, theo 
dõi dọc 
Các bước nghiên cứu 
Đánh giá bệnh nhân trước nghiên cứu: các 
bệnh nhân nghiên cứu được khám lâm sàng, hoàn 
chỉnh các xét nghiệm thường quy, xét nghiệm PSA, 
chụp cắt lớp vi tính hoặc MRI bụng-tiểu khung, xạ 
hình xương, chụp MRI xương trường hợp lâm sàng 
và xạ hình xương nghi ngờ. 
Điều trị: điều trị ức chế androgen + pamisol. 
Cụ thể như sau: 
+ Phẫu thuật + Casodex 50mg/ngày + Pamisol 
90mg/tháng hoặc 
+ Đồng vận LHRH (Zoladex; Diphereline)/28 
ngày + Casodex 50mg/ngày + Pamisol 90mg/tháng. 
NHI - PHỤ KHOA - NIỆU 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
65 
Theo dõi trong quá trình điều trị: khám lâm sàng 
mỗi chu kỳ 4 tuần; xét nghiệm PSA mỗi 4 tuần hoặc 
khi nghi ngờ tiến triển; Xạ hình xương mỗi 12 tuần 
hoặc khi nghi ngờ tiến triển; CT/MRI mỗi 12 tuần 
hoặc khi nghi ngờ tiến triển. 
Điều trị khi kháng cắt tinh hoàn: các bệnh nhân 
kháng cắt tinh hoàn được điều trị hóa chất hoặc 
tiếp tục ức chế androgen + abiteron hoặc chĕm sóc 
giảm nhẹ. 
Nội dung nghiên cứu 
Nghiên cứu một số đặc điểm lâm sàng 
+ Tuổi: chia làm 3 mức: < 65 tuổi; 65 - 75 tuổi 
và > 75 tuổi. 
+ Triệu chứng đường tiết niệu dưới: đánh giá 
rối loạn tiểu tiện theo thang điểm triệu chứng tuyến 
tiền liệt quốc tế (International Prostate Symptom 
Score - IPSS). 
+ Đau xương: đánh giá mức độ đau theo thang 
điểm đau dạng số (pain score 0 - 10 numerical 
rating). 
+ Tình trạng toàn thân: đánh giá tình trạng toàn 
thân theo ECOG. 
+ Bệnh kết hợp: tim mạch, đái đường, hô hấp, 
tiêu hóa, tiết niệu, bệnh khác 
Nghiên cứu một số đặc điểm xét nghiệm 
+ PSA tại thời điểm chẩn đoán: chia làm 3 mức: 
 20. 
+ Điểm Gleason: chia làm 5 nhóm: nhóm 1: ≤ 6 
điểm (≤ 3 + 3); nhóm 2: 7 điểm (3 + 4); nhóm 3: 7 
điểm (4 + 3); nhóm 4: 8 điểm (4 + 4, 3 + 5 và 5 + 3); 
nhóm 5: 9 hoặc 10 điểm (4 + 5, 5 + 4 và 5 + 5). 
+ Tổn thương xương: vị trí di cĕn (xương cột 
sống, xương chậu, xương khác); thể tích di cĕn 
đánh giá theo tiêu chuẩn CHAARTED. Cụ thể: thể 
tích cao khi: ≥ 4 tổn thương xương (ít nhất có 1 tổn 
thương ở ngoài cột sống và khung chậu) và/ hoặc di 
cĕn tạng. 
+ Giai đoạn cTNM: Đánh giá theo hệ thống 
phân loại giai đoạn TNM cho tuyến tiền liệt ấn bản 
thứ 7 nĕm 2017 của AJCC (American Joint 
Committee on Cancer). 
Nghiên cứu phác đồ điều trị 
Chia làm 2 nhóm: cắt tinh hoàn bằng phẫu thuật 
và nội khoa. 
Nghiên cứu đáp ứng điều trị: 
Đánh giá đáp ứng theo khuyến cáo của PCWG 
(Prostate Cancer Clinical Trials Working Group) 1 và 
2[3];[4]. Cụ thể như sau: 
Tiêu chuẩn đạt cắt tinh hoàn (phẫu thuật hoặc 
dùng thuốc): mức testosterol máu < 20ng/dl 
(1,7nmol/L). 
Đáp ứng sinh học 
+ Đáp ứng (một phần): giảm ≥ 50% so với 
trước điều trị (sau 12 tuần). 
+ Không đáp ứng: không đạt tiêu chuẩn đáp 
ứng (sau 12 tuần). 
PSA nadir (thấp nhất): mức PSA thấp nhất đạt 
được trong quá trình điều trị. 
Nghiên cứu thời gian sống thêm 
+ Sống thêm không tiến triển: tính từ khi đưa 
vào thử nghiệm, điều trị đạt lui bệnh đến khi bệnh 
tiến triển trở lại. Xác định bệnh tiến triển khi: 
Tái phát sinh học: PSA tiến triển sau đáp ứng 
điều trị ≥4ng/ml và tĕng liên tục > 25% mỗi 3 lần xét 
nghiệm liên tiếp cách nhau 1 tuần hoặc: 
Xem là bệnh tiến triển khi xuất hiện tổn thương 
xương mới bất chấp các tiêu chuẩn khác. 
Xem là bệnh tiến triển khi tổn thương tạng 
tiến triển theo tiêu chuẩn RECIST (Response 
Evaluation Criteria in Solid Tumors) bất chấp các 
tiêu chuẩn khác. 
+ Sống thêm toàn bộ: tính từ khi đưa vào thử 
nghiệm đến khi tử vong. 
Cỡ mẫu nghiên cứu 
Cỡ mẫu thuận tiện. 
Xử lý số liệu nghiên cứu 
Sử dụng phần mềm SPSS 20.0. Ước lượng 
thời gian sống thêm theo phương pháp Kaplan-
Mayer. 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Đặc điểm lâm sàng bệnh nhân nghiên cứu 
Bảng 1. Đặc điểm lâm sàng bệnh nhân nghiên cứu 
Đặc điểm Số lượng Tỷ lệ (%) 
Tuổi < 65 14 31,1 
65- 75 20 44,1 
>75 10 22,1 
IPSS 0 – 7 điểm 12 27,3 
8 – 19 điểm 12 27,3 
20 – 35 điểm 20 45,5 
Đau xương 0 điểm 22 50,0 
1 – 4 điểm 8 18,2 
5 – 7 điểm 12 27,3 
NHI - PHỤ KHOA - NIỆU 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
66 
8 – 10 điểm 2 4,5 
Tình trạng 
toàn thân 
0 điểm 27 61,4 
1 điểm 15 34,1 
2 điểm 2 4,5 
Bệnh kết hợp 
Không 34 72,3 
Có 10 27,7 
Tim mạch 8 18,2 
Đái đường 6 13,6 
Hô hấp 3 6,8 
Khác 1 2,3 
Đặc điểm xét nghiệm bệnh nhân nghiên cứu 
Bảng 2. Đặc điểm xét nghiệm bệnh nhân nghiên cứu 
Đặc điểm Số lượng Tỷ lệ (%) 
PSA trước 
điều trị 
< 10 1 2,3 
10 - <20 5 11,4 
≥20 38 86,4 
Gleason 
≤ 6 9 20,5 
3 + 4 6 13,6 
4 + 3 6 13,6 
8 13 29,6 
9 + 10 10 22,7 
cT 
T1 2 4,5 
T2 6 13,6 
T3 17 38,7 
T4 19 43,2 
N 
N0 34 77,3 
N1 10 22,7 
M 
M1b 34 77,3 
M1c 10 22,7 
Tổn thương 
xương 
X. cột sống 39 88,6 
Xương chậu 34 77,3 
Xương khác 32 72,7 
LVD 13 29,5 
HVD 31 70,5 
Di cĕn xa 
ngoài xương 
Hạch 3 6,8 
Phổi 4 9,0 
Gan 2 4,5 
Vị trí khác 2 4,5 
Phân bố bệnh nhân theo phác đồ điều trị 
Bảng 3. Phân bố bệnh nhân theo phác đồ điều trị 
Phác đồ Số lượng Tỷ lệ (%) 
Phẫu thuật + Casodex + Pamisol 22 50 
Đồng vận LHRH + Casodex 
+ Pamisol 
22 50 
Đáp ứng với điều trị 
Bảng 4. Đáp ứng với điều trị 
Chỉ tiêu Số lượng Tỷ lệ (%) 
Testosterol 
(nmol/L) 
< 1,7 42 95,4 
≥ 1,7 02 4,6 
Đáp ứng PSA 
Đáp ứng 42 95,4 
K. đáp 
ứng 
2 4,6 
PSA nadir 
(ng/ml); n=37 
Nhỏ nhất 0,00 
Lớn nhất >154 
≤ 4 25 67,6 
>4 12 32,4 
Thời gian sống thêm 
Thời gian sống thêm không tiến triển: Có 42 
bệnh nhân đáp ứng điều trị. Tại thời điểm kết thúc 
nghiên cứu có 24 bệnh nhân đã tiến triển. Bệnh 
nhân theo dõi ngắn nhất là 8 tháng, bệnh nhân theo 
dõi dài nhất là 71 tháng, thời gian theo dõi trung bình 
là 24,5 tháng. Thời gian sống thêm không sự kiện 
của 42 bệnh nhân nghiên cứu là thể hiện ở biểu đồ 
1. Sống không sự kiện trung vị là 20,54 tháng. 
Thời gian sống thêm toàn thể: tại thời điểm kết 
thúc nghiên cứu có 6 bệnh nhân tử vong trong số 44 
bệnh nhân đánh giá được. Bệnh nhân theo dõi ngắn 
nhất là 8 tháng, bệnh nhân theo dõi dài nhất là 71 
tháng, thời gian theo dõi trung bình là 25,2 tháng. 
Thời gian sống thêm toàn thể của 44 bệnh nhân 
nghiên cứu thể hiện ở biểu đồ 2. Sống thêm toàn thể 
trung vị là 38,6 tháng. 
NHI - PHỤ KHOA - NIỆU 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
67 
BÀN LUẬN 
Đặc điểm lâm sàng 
Trong 44 bệnh nhân chúng tôi nghiên cứu chỉ 
có 31,1% bệnh nhân từ <65 tuổi. Gần 30% bệnh 
nhân nghiên cứu có bệnh kết hợp, trong đó 18,2% 
có bệnh tim mạch, 6% có bệnh đái đường. Có 17 
bệnh nhân (38,6%) tình trạng toàn thân 1-2 điểm. 
Eberhard Varenhorst và cộng sự nghiên cứu ở 915 
bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt di cĕn xương có 
47,4% bệnh nhân 65 -74 tuổi, 38% bệnh nhân ≥ 75 
tuổi, 10,4% có bệnh tim mạch và 45,5% bệnh nhân 
có tình trạng toàn thân 1-3 điểm[5]. Như vậy khoảng 
2/3 số bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt di cĕn 
xương có tuổi cao trong khi khoảng 1/3 có bệnh kết 
hợp và gần một nửa có tình trạng toàn thân kém. 
Các bệnh nhân tuổi cao, có bệnh kết hợp, tình trạng 
toàn thân kém sẽ gặp khó khĕn khi điều trị kết hợp 
ức chế androgen và hóa chất. 
Triệu chứng đường tiết niệu dưới (tiểu khó, tiểu 
nhiều lần) và đau xương là các triệu chứng hay 
gặp ở bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt di cĕn 
xương. Ở nghiên cứu của chúng tôi có khoảng 50% 
bệnh nhân nghiên cứu có đau xương, trong đó 
27,3% đau nặng và 4,5% đau khủng khiếp. Có 
27,3% rối loạn tiểu tiện mức độ nhẹ, 27,3% mức độ 
vừa và 45,5% mức độ nặng. Cũng ở nghiên cứu của 
Eberhard Varenhorst và cộng sự, 58,6% trong số 
915 bệnh nhân nghiên cứu có đau xương[5]. Natsuo 
Tomita và cộng sự (2015) nghiên cứu ở 216 bệnh 
nhân ung thư tuyến tiền liệt giai đoạn tại chỗ có 124 
bệnh nhân (57,4%) rối loạn nhẹ, 70 bệnh nhân 
(32,4%) rối loạn vừa và 22 bệnh nhân (10,2%) rối 
loạn nặng[6]. Tỷ lệ bệnh nhân rối loạn tiểu tiện mức 
độ nặng ở nghiên cứu của chúng tôi cao hơn ở 
nghiên cứu của Natsuo Tomita có lẽ do các bệnh 
nhân ở nghiên cứu của chúng tôi đều ở giai đoạn IV, 
đã có di cĕn xa. Đau xương và rối loạn tiểu tiện ảnh 
hưởng đến chất lượng sống của bệnh nhân. 
Đặc điểm xét nghiệm 
PSA là dấu ấn sinh học ung thư có giá trị sàng 
lọc, phân mức nguy cơ, đánh giá đáp ứng điều trị và 
theo dõi tái phát tiến triển. Ở nghiên cứu của chúng 
tôi, một số bệnh nhân đi khám là do các triệu chứng 
của di cĕn (đau xương, hạch to, ho do di cĕn 
phổi), một số bệnh nhân đi khám do các triệu 
chứng đường tiết niệu dưới (đái khó, đái ngắt 
ngừng, đái máu). Các bệnh nhân đều được xét 
nghiệm PSA, phát hiện PSA cao và sinh thiết tuyến 
tiền liệt qua đường hậu môn-trực tràng. Tại thời 
điểm chẩn đoán có đến 86,4% bệnh nhân có PSA 
≥ 20ng/ml. Omar Abdel-Rahman phân tích số liệu 
của SEER giai đoạn 2006 – 2014, trong 72.999 bệnh 
nhân ung thư tuyến tiền liệt, có 82,3% PSA 
< 10ng/ml, 12,9% PSA 10 - < 20ng/ml và 4,8% PSA 
≥ 20ng/ml[7]. Giorgio Gandagliaa và cộng sự cũng 
phân tích số liệu của SEER giai đoạn 1991 – 2009, 
ở 3093 bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt di cĕn 
xương, tại thời điểm chẩn đoán có 79,8% bệnh nhân 
có PSA ≥ 20ng/ml, ở 442 bệnh nhân vừa có di cĕn 
xương vừa có di cĕn tạng có 84,4% PSA ≥ 
20ng/ml[8]. Như vậy ung thư tuyến tiền liệt di cĕn 
thường có PSA ≥ 20ng/ml. 
Kazuhiro Nagao và cộng sự (2016) nghiên cứu 
ở 100 bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt di cĕn 
xương có 6 (6%) bệnh nhân gleason ≤ 6 điểm, 28 
(28%) bệnh nhân gleason = 7 điểm, 66 (66%) bệnh 
nhân gleason ≥ 8 điểm[11]. Ở 44 bệnh nhân chúng tôi 
nghiên cứu có 52,3% bệnh nhân gleason ≥ 8 điểm. 
Ở nghiên cứu của Omar Abdel-Rahman, trong 
72999 bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt, 40,6% 
gleason ≤ 6 điểm, 31,6% gleason 3 + 4 điểm, 13,3% 
gleason 4 + 3 điểm, 9,4% gleason 8 điểm và 5,1% 
gleason 9 + 10 điểm[7]. 
Ở nghiên cứu của chúng tôi phần lớn bệnh 
nhân cT3 và cT4 (81,9%), tuy nhiên cũng có 4,5% 
cT1 và 13,6% cT2. Kết quả này cho thấy ngay cả khi 
u ở tuyến tiền liệt còn nhỏ vẫn có khả nĕng di cĕn 
xương. Kyo Chul Koo và cộng sự (2015) hồi cứu 
248 bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt di cĕn xương 
có 27 bệnh nhân (11%) giai đoạn T2, 130 (52,4%) 
bệnh nhân giai đoạn T3 và 91 (36,6%) bệnh nhân 
giai đoạn T4[9]. Maria J. Schymura và cộng sự (2014) 
phân tích số liệu SEER 2004 - 2010 cho thấy: nĕm 
2010 có 56.946 bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt. 
Trong đó giai đoạn T0 là 9 bệnh nhân (0,05%), T2 có 
33.002 bệnh nhân (58,41%), T3 có 1377 bệnh nhân 
(2,43%), T4 có 516 bệnh nhân (0,91%) và Tx có 
3.507 (6,21%) bệnh nhân[10]. 
Nghiên cứu ở 2607 bệnh nhân ung thư tuyến 
tiền liệt giai đoạn IV, Giorgio Gandagliaa và cộng sự 
thấy có 91,1% có di cĕn xương, 8,7% có di cĕn 
hạch, 5,7% di cĕn phổi, 4,7% di cĕn gan, 1,8% di 
cĕn não, 1,3% di cĕn hệ tiêu hóa, 1,3% di cĕn ở 
bụng và sau phúc mạc, 0,6% di cĕn thận và thượng 
thận. Mặt khác trong số 3093 bệnh nhân có di cĕn 
xương có 422 (13,6%) bệnh nhân có cả di cĕn 
tạng[8]. Trong 44 bệnh nhân có di cĕn xương chúng 
NHI - PHỤ KHOA - NIỆU 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
68 
tôi nghiên cứu có 3 (6,8%) bệnh nhân có cả di cĕn 
hạch xa và 8 (18,1%) bệnh nhân có cả di cĕn tạng. 
Tiên lượng thời gian sống thêm xấu dần theo thứ tự: 
di cĕn hạch xa, di cĕn xương, di cĕn tạng, di cĕn 
xương và di cĕn tạng[8]. 
Folasire và cộng sự (2015) nghiên cứu ở 82 
bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt di cĕn xương thấy 
67% di cĕn nhiều xương, 33% di cĕn 1 xương. Các 
xương hay gặp di cĕn nhất là: cột sống (94% - trong 
đó 92,2% có di cĕn cột sống thắt lưng); khung chậu 
(67%); xương sườn (40%). Các xương ít gặp di cĕn 
là xương trụ (1%) và xương chày (1%). Điểm 
Gleason tại thời điểm chẩn đoán không có giá trị tiên 
đoán vị trí di cĕn xương[12]. Hai vị trí di cĕn gặp nhiều 
nhất ở nghiên cứu của chúng tôi là xương cột sống 
(88,6%) và xương chậu (77,3%), 70,5% bệnh nhân 
nghiên cứu có khối lượng di cĕn cao. Christopher J. 
Sweeney và cộng sự (2015) nghiên cứu ở 790 bệnh 
nhân ung thư tuyến tiền liệt di cĕn, có 147 (18,6%) 
bệnh nhân có thể tích di cĕn thấp và 643 (81,4%) 
bệnh nhân có thể tích di cĕn cao[13]. Một số thử 
nghiệm lâm sàng cho thấy thêm docetacel vào phác 
đồ ức chế androgen kéo dài thời gian sống thêm 
không tiến triển và thời gian sống thêm toàn thể ở 
các bệnh nhân có thể tích di cĕn cao. 
Phác đồ điều trị 
Cho đến nay, điều trị ức chế androgen vẫn là 
điều trị chính đối với bệnh nhân ung thư tuyến tiền 
liệt di cĕn. Cắt tinh hoàn bằng thuốc (đồng vận 
LHRH hoặc đối vận LHRH) và phẫu thuật cắt 2 tinh 
hoàn hiệu quả như nhau[14]. Nhiều nghiên cứu cũng 
cho thấy ức chế androgen tối đa (phối hợp cắt tinh 
hoàn bằng thuốc hoặc phẫu thuật với antiandrogen 
nhóm không streroid) cải thiện thời gian đến tiến 
triển và thời gian sống thêm, giảm nguy cơ tử vong. 
Ở bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt di cĕn xương, 
phối hợp ức chế androgen với thuốc chống tiêu 
xương (Zoledronic) kéo dài thời gian đến kháng cắt 
tinh hoàn[11]. Ở nghiên cứu của chúng tôi, 50% bệnh 
nhân lựa chọn phẫu thuật cắt 2 tinh hoàn và 50% 
lựa chọn cắt tinh hoàn bằng thuốc. Các bệnh nhân 
đều được điều trị ức chế androgen tối đa (thêm 
Casodex) và thuốc chống tiêu xương pamisol. 
Đáp ứng với điều trị 
Mức testosterol: mức testosterol < 1,7nmol/L 
được coi là cắt tinh hoàn. Tuy nhiên, do sự tiến bộ 
về kỹ thuật xét nghiệm, một số nghiên cứu cho thấy 
mức testosterol trung bình trong máu sau phẫu thuật 
cắt tinh hoàn là 0,003nmol/L. Một số tác giả đề xuất 
mức testosterol cắt tinh hoàn mới là 0,7nmol/L. 
Các tác giả cũng cho thấy sống thêm không kháng 
cắt tinh hoàn dài hơn ở bệnh nhân mức testosterol 
cắt tinh hoàn thấp hơn trong 3 nhóm < 0,7nmol/L; 
0,7nmol/L - <1,7nmol/L và ≥1,7nmol/L[15]. 
Chúng tôi sử dụng mức testosterol cắt tinh hoàn là 
< 1,7nmol/L theo hướng dẫn NCCN[14]. Trong 44 
bệnh nhân nghiên cứu có 2 (4,6%) bệnh nhân sau 
điều trị 1 tháng mức testosterol ≥ 1,7nmol/L. Đáng 
chú ý là trong đó có 1 bệnh nhân điều trị cắt tinh 
hoàn bằng thuốc (Zoladex + Casodex) sau khi 
chuyển sang phẫu thuật cắt tinh hoàn thì mức 
testosterol < 1,7nmol/L. Một số nghiên cứu cũng cho 
thấy khoảng 2 - 12,5% bệnh nhân cắt tinh hoàn bằng 
đối vận LHRH có mức testosterol ≥1,7nmol/L[15]. 
Đáp ứng sinh học: ở nghiên cứu của chúng tôi 
ban đầu có 2 trường hợp testosterol không đạt được 
mức cắt tinh hoàn. Trong đó có 1 trường hợp điều trị 
cắt tinh hoàn bằng thuốc sau khi chuyển sang phẫu 
thuật cắt tinh hoàn thì testosterol đạt mức cắt tinh 
hoàn, tuy nhiên cả 2 trường hợp này PSA không đạt 
đáp ứng sinh học, cả 2 bệnh nhân đều tử vong sớm 
(trước 12 tháng). 
PSA nadir: trong 44 bệnh nhân chúng tôi 
nghiên cứu, 01 bệnh nhân PSA không giảm, mức 
PSA tại thời điểm chẩn đoán là mức PSA thấp nhất 
(>154ng/ml). 04 bệnh nhân kết quả xét nghiệm 
không ổn định, chúng tôi không xác định được PSA 
nadir. 02 bệnh nhân đến thời điểm kết thúc nghiên 
cứu PSA đang tiếp tục giảm. Trong số 37 bệnh nhân 
xác định được PSA nadir, 25 (67,6%) bệnh nhân 
PSA nadir ≤ 4ng/ml, 12 (32,4%) bệnh nhân 
PSA nadir > 4ng/ml. Trong 917 bệnh nhân ung thư 
tuyến tiền liệt di cĕn điều trị ức chế androgen 
ở nhánh chứng của thử nghiệm STAMPEDE, chỉ có 
457 bệnh nhân xác định được PSA nadir. Có 78% 
PSA nadir <4ng/ml, 22% PSA nadir ≥4ng/ml[17]. 
Chaiyut Kongseang và cộng sự hồi cứu 248 
bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt di cĕn xương điều 
trị ức chế androgen, mức ALP cao, tình trạng toàn 
thân ≥1 điểm và mức PSA nadir cao là những yếu tố 
tiên lượng xấu thời gian sống thêm[19]. 
Thời gian sống thêm 
Cũng ở nhánh chứng của thử nghiệm 
STAMPETE, với thời gian theo dõi trung bình 20 
tháng, sống thêm không thất bại điều trị trung vị và 
sống thêm toàn thể trung vị của 917 bệnh nhân 
nghiên cứu tương ứng là 11 tháng và 42 tháng[17]. 
Rami Klaff và cộng sự nghiên cứu 915 bệnh nhân 
ung thư tuyến tiền liệt di cĕn, có 77,4% sống thêm 
0 - 5 nĕm, 18,3% sống thêm 5 - 10 nĕm và 4,4% 
sống thêm > 10 nĕm[18]. Kazuhiro Nagao và cộng sự 
phối hợp ức chế androgen tối đa và Zoledronic điều 
trị ung thư tuyến tiền liệt di cĕn xương, thời gian đến 
tiến triển trung vị là 25,2 tháng[11]. Ở nghiên cứu của 
chúng tôi, thời gian sống thêm không tiến triển trung 
vị là 20,54 tháng và thời gian sống thêm toàn thể 
trung vị là 36,8 tháng. Ngoài các yếu tố thuộc về đặc 
điểm lâm sàng, cận lâm sàng của bệnh, sống thêm 
NHI - PHỤ KHOA - NIỆU 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
69 
toàn thể còn phụ thuộc vào biện pháp điều trị sau khi 
bệnh tiến triển. 
KẾT LUẬN 
Hầu hết bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt di cĕn 
xương đạt mức cắt tinh hoàn và đạt đáp ứng PSA 
khi điều trị phối hợp ức chế androgen tối đa và 
pamisol, tuy nhiên, thời gian sống thêm không tiến 
triển trung vị ngắn. Kết quả này đặt ra yêu cầu cần 
phối hợp thêm hóa chất, nội tiết hoặc điều trị miễn 
dịch để kéo dài thời gian đáp ứng điều trị. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Globocan 2012: Estimated Cancer Incidence, 
Mortality and Prevalence Worldwide in 2012, 
international Agency for Reseacrch on Cancer. 
2. Carolin Reischauer, MSc Johannes M. Froehlich, 
PhD Dow-Mu Koh, MDNicole Graf, PhD. Bone 
Metastases from Prostate Cancer: Assessing 
Treatment Response by Using Diffusionweighted 
Imaging and Functional Diffusion Maps—Initial 
Observations. Radiology: Volume 257: Number 
2—November 2010. 
3. Glenn J. Bubley, Michael Carducci, William 
Dahut et al. Eligibility and Response Guidelines 
for Phase II Clinical Trials in Androgen-
Independent Prostate Cancer: 
Recommendations From the Prostate-Specific 
Antigen Working Group. J Clin Oncol 17:3461–
3467. 1999 by American Society of Clinical 
Oncology. 
4. Howard I. Scher, Susan Halabi, Ian Tannock et 
al. Design and End Points of Clinical Trials for 
Patients With Progressive Prostate Cancer and 
Castrate Levels of Testosterone: 
Recommendations of the Prostate Cancer 
Clinical Trials Working Group. J Clin Oncol. 2008 
March 1; 26(7): 1148–1159. 
doi:10.1200/JCO.2007.12.4487. 
5. Eberhard Varenhorst, Rami Klaff, Anders 
Berglund et al. Predictors of early androgen 
deprivation treatment failure in prostate cancer 
with bone metastases. Cancer Medicine 2016; 
5(3):407–414. 
6. Natsuo Tomita, Isao Oze, Hidetoshi Shimizu et 
al. International prostate symptom score (IPSS) 
change and changing factor in intensity-
modulated radiotherapy combined with androgen 
deprivation therapy for prostate cancer. Nagoya 
J. Med. Sci. 77. 637 ~ 646, 2015. 
7. Omar Abdel-Rahman Validation of American 
Joint Committee on Cancer eighth staging 
system among prostate cancer patients treated 
with radical prostatectomy. Ther Adv Urol 2018, 
Vol. 10(2) 35–42. 
8. Giorgio Gandagliaa, Pierre I. Karakiewicza, 
Alberto Brigantib et all. Impact of the Site of 
Metastases on Survival in Patients with 
Metastatic Prostate Cancer. EUROPEAN 
UROLOGY 68 (2015) 325–334. 
9. Kyo Chul Koo, Sang Un Park, Ki Hong Kim, et 
all. Predictors of survival in prostate cancer 
patients with bone metastasis and extremely 
high prostate-specific antigen levels. Prostate 
International 3 (2015) 10 – 15. 
10. Maria J. Schymura; Leon Sun; and Antoinette 
Percy-Laurry. Prostate Cancer Collaborative 
Stage Data Items—Their Definitions, Quality, 
Usage, and Clinical Implications: A Review of 
SEER Data for 2004-2010. Cancer December 1, 
2014. 
11. Kazuhiro Nagao, Hideyasu Matsuyama, 
Masahiro Nozawa et all. Zoledronic acid 
combined with androgendeprivation therapy may 
prolong time to castration-resistant prostate 
cancer in hormone-naı¨ve metastatic prostate 
cancer patients e A propensity scoring approach. 
Asian Journal of Urology (2016) 3, 33-38. 
12. Folasire A, Ntekim A, Omikunle A, Ali-Gombe M. 
Association of Gleason Risk Groups with 
Metastatic Sites in Prostate Cancer. Afr. J. 
Biomed. Res. Vol.18 (September, 2015); 189- 
196. 
13. Christopher J. Sweeney, Yu-Hui Chen, Michael 
Carducci et all. Chemohormonal Therapy in 
Metastatic Hormone-Sensitive Prostate Cancer. 
N Engl J Med 2015; 373: 737-46. 
14. NCCN Clinical Practice Guidelines in Oncology. 
Prostate Cancer, Version 3.2018. 
15. 15. Bobby Shayegan, Frédéric Pouliot, Alan So, 
at all. Testosterone monitoring for men with 
advanced prostate cancer: Review of current 
practices and a survey of Canadian physicians, 
CUAJ Volume 11 N06 June 2017.indd 204. 
16. Chaiyut Kongseang, Worapat Attawettayanon, 
Watid Kanchanawanichkul, Choosak 
Pripatnanont. Predictive factor of androgen 
deprivation therapy for patients with advanced 
stage prostate cancer. Prostate Int 5 (2017) 35-
38. 
17. Nicholas David James, Melissa R. Spears, Noel 
W. Clarke et all. Survival with Newly Diagnosed 
Metastatic Prostate Cancer in the ‘‘Docetaxel 
Era’’: Data from 917 Patients in the Control Arm 
NHI - PHỤ KHOA - NIỆU 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
70 
of the STAMPEDE Trial (MRC PR08, 
CRUK/06/019). E U R O P E A N U R O L O G Y 
6 7 (2 0 1 5) 1 0 2 8 - 1 0 3 8. 
18. Rami Klaff, Anders Berglund, Eberhard 
Varenhorst et al. Clinical characteristics and 
quality-of-life in patients surviving a decade of 
prostate cancer with bone metastases. BJU Int 
2016; 117: 904–913. 
19. Kyo Chul Koo, Sang Un Park, Ki Hong Kim et all. 
Predictors of survival in prostate cancer patients 
with bone metastasis and extremely high 
prostate-specific antigen levels. Prostate 
International 3 (2015) 10-15. 

File đính kèm:

  • pdfket_qua_ap_dung_lieu_phap_uc_che_androgen_ket_hop_biphosphon.pdf