Kết quả áp dụng liệu pháp ức chế androgen kết hợp biphosphonate điều trị ung thư tuyến tiền liệt di căn xương tại bệnh viện Trung Ương Quân đội 108
ĐẶT VẤN ĐỀ Ung thư tuyến tiền liệt là một trong những ung thư hay gặp. Theo Globocan 2012, ước tính năm 2012 toàn thế giới có khoảng 1.094.916 bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt mới mắc với tỷ lệ mắc chẩn theo tuổi là 30,7/100.000 dân; có khoảng 307.481 bệnh nhân tử vong do ung thư tuyến tiền liệt với tỷ lệ tử vong chuẩn theo tuổi là 7,8/100.000 dân. Tại Việt Nam, ước tính năm 2012 có khoảng 1.275 bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt mới mắc với tỷ lệ mác chuẩn theo tuổi là 3,4/100.000 dân; có khoảng 872 bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt tử vong với tỷ lệ tử vong chuẩn theo tuổi là 2,5/100.000 dân[1]. Cũng như phần lớn các bệnh ung thư khác, chiến lược điều trị ung thư tuyến tiền liệt là điều trị đa mô thức, phối hợp nhiều phương pháp điều trị: phẫu thuật, tia xạ, ức chế androgen, hóa chất, điều trị miễn dịch Lựa chọn điều trị cụ thể căn cứ vào giai đoạn bệnh, mức nguy cơ, các yếu tố tiên lượng, kỳ vọng sống thêm, tình trạng bệnh nhân Đối với các bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt di căn, cho đến nay, liệu pháp ức chế androgen vẫn là phương pháp điều trị chính. Mặc dù tại thời điểm chẩn đoán chỉ khoảng 5% ung thư tuyến tiền liệt có di căn xa, nhưng khoảng 90% những bệnh nhân này có di căn xương. Di căn xương là yếu tố tiên lượng xấu[2]. Chúng tôi thực hiện nghiên cứu này nhằm đánh giá hiệu quả việc áp dụng liệu pháp ức chế androgen kết hợp bisphosphonate điều trị bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt di căn xương mới chẩn đoán, chưa điều trị
Tóm tắt nội dung tài liệu: Kết quả áp dụng liệu pháp ức chế androgen kết hợp biphosphonate điều trị ung thư tuyến tiền liệt di căn xương tại bệnh viện Trung Ương Quân đội 108

NHI - PHỤ KHOA - NIỆU TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 64 KẾT QUẢ ÁP DỤNG LIỆU PHÁP ỨC CHẾ ANDROGEN KẾT HỢP BIPHOSPHONATE ĐIỀU TRỊ UNG THƯ TUYẾN TIỀN LIỆT DI CĔN XƯƠNG TẠI BỆNH VIỆN TRUNG ƯƠNG QUÂN ĐỘI 108 LA VÂN TRƯỜNG1, TRẦN VĔN TÔN2 1 Phụ trách Khoa Chống đau và Chĕm sóc giảm nhẹ - Viện Ung thư Quân đội - Bệnh viện Trung Ương Quân Đội 108 2 ThS. Trung tâm Ung Bướu - Bệnh viện Quân Y 103 - Học viện Quân Y ĐẶT VẤN ĐỀ Ung thư tuyến tiền liệt là một trong những ung thư hay gặp. Theo Globocan 2012, ước tính nĕm 2012 toàn thế giới có khoảng 1.094.916 bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt mới mắc với tỷ lệ mắc chẩn theo tuổi là 30,7/100.000 dân; có khoảng 307.481 bệnh nhân tử vong do ung thư tuyến tiền liệt với tỷ lệ tử vong chuẩn theo tuổi là 7,8/100.000 dân. Tại Việt Nam, ước tính nĕm 2012 có khoảng 1.275 bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt mới mắc với tỷ lệ mác chuẩn theo tuổi là 3,4/100.000 dân; có khoảng 872 bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt tử vong với tỷ lệ tử vong chuẩn theo tuổi là 2,5/100.000 dân[1]. Cũng như phần lớn các bệnh ung thư khác, chiến lược điều trị ung thư tuyến tiền liệt là điều trị đa mô thức, phối hợp nhiều phương pháp điều trị: phẫu thuật, tia xạ, ức chế androgen, hóa chất, điều trị miễn dịchLựa chọn điều trị cụ thể cĕn cứ vào giai đoạn bệnh, mức nguy cơ, các yếu tố tiên lượng, kỳ vọng sống thêm, tình trạng bệnh nhânĐối với các bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt di cĕn, cho đến nay, liệu pháp ức chế androgen vẫn là phương pháp điều trị chính. Mặc dù tại thời điểm chẩn đoán chỉ khoảng 5% ung thư tuyến tiền liệt có di cĕn xa, nhưng khoảng 90% những bệnh nhân này có di cĕn xương. Di cĕn xương là yếu tố tiên lượng xấu[2]. Chúng tôi thực hiện nghiên cứu này nhằm đánh giá hiệu quả việc áp dụng liệu pháp ức chế androgen kết hợp bisphosphonate điều trị bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt di cĕn xương mới chẩn đoán, chưa điều trị. ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Là 44 bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt di cĕn xương điều trị tại BVTWQĐ 108. Thu thập bệnh nhân nghiên cứu từ tháng 7/2010 đến thâng 12/2017. Thu thập số liệu từ tháng 7/2010 đến tháng 7/2018. Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân Chẩn đoán xác định ung thư tuyến tiền liệt dựa trên kết quả sinh thiết mô. Chẩn đoán di cĕn xương dựa trên triệu chứng lâm sàng, xạ hình xương và/hoặc MRI. Mới chẩn đoán, chưa điều trị. Tình trạng toàn thân 0 – 2 điểm. Không có chống chỉ định điều trị Zoladex, Diphereline, Casodex và pamisol. Tiêu chuẩn loại trừ Bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt không có di cĕn xương. Bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt di cĕn xương đã được điều trị trước đó. Tình trạng toàn thân > 2 điểm. Không thực hiện đầy đủ kế hoạch nghiên cứu. Không đồng ý tham gia nghiên cứu. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiến cứu, mô tả cắt ngang, theo dõi dọc Các bước nghiên cứu Đánh giá bệnh nhân trước nghiên cứu: các bệnh nhân nghiên cứu được khám lâm sàng, hoàn chỉnh các xét nghiệm thường quy, xét nghiệm PSA, chụp cắt lớp vi tính hoặc MRI bụng-tiểu khung, xạ hình xương, chụp MRI xương trường hợp lâm sàng và xạ hình xương nghi ngờ. Điều trị: điều trị ức chế androgen + pamisol. Cụ thể như sau: + Phẫu thuật + Casodex 50mg/ngày + Pamisol 90mg/tháng hoặc + Đồng vận LHRH (Zoladex; Diphereline)/28 ngày + Casodex 50mg/ngày + Pamisol 90mg/tháng. NHI - PHỤ KHOA - NIỆU TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 65 Theo dõi trong quá trình điều trị: khám lâm sàng mỗi chu kỳ 4 tuần; xét nghiệm PSA mỗi 4 tuần hoặc khi nghi ngờ tiến triển; Xạ hình xương mỗi 12 tuần hoặc khi nghi ngờ tiến triển; CT/MRI mỗi 12 tuần hoặc khi nghi ngờ tiến triển. Điều trị khi kháng cắt tinh hoàn: các bệnh nhân kháng cắt tinh hoàn được điều trị hóa chất hoặc tiếp tục ức chế androgen + abiteron hoặc chĕm sóc giảm nhẹ. Nội dung nghiên cứu Nghiên cứu một số đặc điểm lâm sàng + Tuổi: chia làm 3 mức: < 65 tuổi; 65 - 75 tuổi và > 75 tuổi. + Triệu chứng đường tiết niệu dưới: đánh giá rối loạn tiểu tiện theo thang điểm triệu chứng tuyến tiền liệt quốc tế (International Prostate Symptom Score - IPSS). + Đau xương: đánh giá mức độ đau theo thang điểm đau dạng số (pain score 0 - 10 numerical rating). + Tình trạng toàn thân: đánh giá tình trạng toàn thân theo ECOG. + Bệnh kết hợp: tim mạch, đái đường, hô hấp, tiêu hóa, tiết niệu, bệnh khác Nghiên cứu một số đặc điểm xét nghiệm + PSA tại thời điểm chẩn đoán: chia làm 3 mức: 20. + Điểm Gleason: chia làm 5 nhóm: nhóm 1: ≤ 6 điểm (≤ 3 + 3); nhóm 2: 7 điểm (3 + 4); nhóm 3: 7 điểm (4 + 3); nhóm 4: 8 điểm (4 + 4, 3 + 5 và 5 + 3); nhóm 5: 9 hoặc 10 điểm (4 + 5, 5 + 4 và 5 + 5). + Tổn thương xương: vị trí di cĕn (xương cột sống, xương chậu, xương khác); thể tích di cĕn đánh giá theo tiêu chuẩn CHAARTED. Cụ thể: thể tích cao khi: ≥ 4 tổn thương xương (ít nhất có 1 tổn thương ở ngoài cột sống và khung chậu) và/ hoặc di cĕn tạng. + Giai đoạn cTNM: Đánh giá theo hệ thống phân loại giai đoạn TNM cho tuyến tiền liệt ấn bản thứ 7 nĕm 2017 của AJCC (American Joint Committee on Cancer). Nghiên cứu phác đồ điều trị Chia làm 2 nhóm: cắt tinh hoàn bằng phẫu thuật và nội khoa. Nghiên cứu đáp ứng điều trị: Đánh giá đáp ứng theo khuyến cáo của PCWG (Prostate Cancer Clinical Trials Working Group) 1 và 2[3];[4]. Cụ thể như sau: Tiêu chuẩn đạt cắt tinh hoàn (phẫu thuật hoặc dùng thuốc): mức testosterol máu < 20ng/dl (1,7nmol/L). Đáp ứng sinh học + Đáp ứng (một phần): giảm ≥ 50% so với trước điều trị (sau 12 tuần). + Không đáp ứng: không đạt tiêu chuẩn đáp ứng (sau 12 tuần). PSA nadir (thấp nhất): mức PSA thấp nhất đạt được trong quá trình điều trị. Nghiên cứu thời gian sống thêm + Sống thêm không tiến triển: tính từ khi đưa vào thử nghiệm, điều trị đạt lui bệnh đến khi bệnh tiến triển trở lại. Xác định bệnh tiến triển khi: Tái phát sinh học: PSA tiến triển sau đáp ứng điều trị ≥4ng/ml và tĕng liên tục > 25% mỗi 3 lần xét nghiệm liên tiếp cách nhau 1 tuần hoặc: Xem là bệnh tiến triển khi xuất hiện tổn thương xương mới bất chấp các tiêu chuẩn khác. Xem là bệnh tiến triển khi tổn thương tạng tiến triển theo tiêu chuẩn RECIST (Response Evaluation Criteria in Solid Tumors) bất chấp các tiêu chuẩn khác. + Sống thêm toàn bộ: tính từ khi đưa vào thử nghiệm đến khi tử vong. Cỡ mẫu nghiên cứu Cỡ mẫu thuận tiện. Xử lý số liệu nghiên cứu Sử dụng phần mềm SPSS 20.0. Ước lượng thời gian sống thêm theo phương pháp Kaplan- Mayer. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Đặc điểm lâm sàng bệnh nhân nghiên cứu Bảng 1. Đặc điểm lâm sàng bệnh nhân nghiên cứu Đặc điểm Số lượng Tỷ lệ (%) Tuổi < 65 14 31,1 65- 75 20 44,1 >75 10 22,1 IPSS 0 – 7 điểm 12 27,3 8 – 19 điểm 12 27,3 20 – 35 điểm 20 45,5 Đau xương 0 điểm 22 50,0 1 – 4 điểm 8 18,2 5 – 7 điểm 12 27,3 NHI - PHỤ KHOA - NIỆU TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 66 8 – 10 điểm 2 4,5 Tình trạng toàn thân 0 điểm 27 61,4 1 điểm 15 34,1 2 điểm 2 4,5 Bệnh kết hợp Không 34 72,3 Có 10 27,7 Tim mạch 8 18,2 Đái đường 6 13,6 Hô hấp 3 6,8 Khác 1 2,3 Đặc điểm xét nghiệm bệnh nhân nghiên cứu Bảng 2. Đặc điểm xét nghiệm bệnh nhân nghiên cứu Đặc điểm Số lượng Tỷ lệ (%) PSA trước điều trị < 10 1 2,3 10 - <20 5 11,4 ≥20 38 86,4 Gleason ≤ 6 9 20,5 3 + 4 6 13,6 4 + 3 6 13,6 8 13 29,6 9 + 10 10 22,7 cT T1 2 4,5 T2 6 13,6 T3 17 38,7 T4 19 43,2 N N0 34 77,3 N1 10 22,7 M M1b 34 77,3 M1c 10 22,7 Tổn thương xương X. cột sống 39 88,6 Xương chậu 34 77,3 Xương khác 32 72,7 LVD 13 29,5 HVD 31 70,5 Di cĕn xa ngoài xương Hạch 3 6,8 Phổi 4 9,0 Gan 2 4,5 Vị trí khác 2 4,5 Phân bố bệnh nhân theo phác đồ điều trị Bảng 3. Phân bố bệnh nhân theo phác đồ điều trị Phác đồ Số lượng Tỷ lệ (%) Phẫu thuật + Casodex + Pamisol 22 50 Đồng vận LHRH + Casodex + Pamisol 22 50 Đáp ứng với điều trị Bảng 4. Đáp ứng với điều trị Chỉ tiêu Số lượng Tỷ lệ (%) Testosterol (nmol/L) < 1,7 42 95,4 ≥ 1,7 02 4,6 Đáp ứng PSA Đáp ứng 42 95,4 K. đáp ứng 2 4,6 PSA nadir (ng/ml); n=37 Nhỏ nhất 0,00 Lớn nhất >154 ≤ 4 25 67,6 >4 12 32,4 Thời gian sống thêm Thời gian sống thêm không tiến triển: Có 42 bệnh nhân đáp ứng điều trị. Tại thời điểm kết thúc nghiên cứu có 24 bệnh nhân đã tiến triển. Bệnh nhân theo dõi ngắn nhất là 8 tháng, bệnh nhân theo dõi dài nhất là 71 tháng, thời gian theo dõi trung bình là 24,5 tháng. Thời gian sống thêm không sự kiện của 42 bệnh nhân nghiên cứu là thể hiện ở biểu đồ 1. Sống không sự kiện trung vị là 20,54 tháng. Thời gian sống thêm toàn thể: tại thời điểm kết thúc nghiên cứu có 6 bệnh nhân tử vong trong số 44 bệnh nhân đánh giá được. Bệnh nhân theo dõi ngắn nhất là 8 tháng, bệnh nhân theo dõi dài nhất là 71 tháng, thời gian theo dõi trung bình là 25,2 tháng. Thời gian sống thêm toàn thể của 44 bệnh nhân nghiên cứu thể hiện ở biểu đồ 2. Sống thêm toàn thể trung vị là 38,6 tháng. NHI - PHỤ KHOA - NIỆU TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 67 BÀN LUẬN Đặc điểm lâm sàng Trong 44 bệnh nhân chúng tôi nghiên cứu chỉ có 31,1% bệnh nhân từ <65 tuổi. Gần 30% bệnh nhân nghiên cứu có bệnh kết hợp, trong đó 18,2% có bệnh tim mạch, 6% có bệnh đái đường. Có 17 bệnh nhân (38,6%) tình trạng toàn thân 1-2 điểm. Eberhard Varenhorst và cộng sự nghiên cứu ở 915 bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt di cĕn xương có 47,4% bệnh nhân 65 -74 tuổi, 38% bệnh nhân ≥ 75 tuổi, 10,4% có bệnh tim mạch và 45,5% bệnh nhân có tình trạng toàn thân 1-3 điểm[5]. Như vậy khoảng 2/3 số bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt di cĕn xương có tuổi cao trong khi khoảng 1/3 có bệnh kết hợp và gần một nửa có tình trạng toàn thân kém. Các bệnh nhân tuổi cao, có bệnh kết hợp, tình trạng toàn thân kém sẽ gặp khó khĕn khi điều trị kết hợp ức chế androgen và hóa chất. Triệu chứng đường tiết niệu dưới (tiểu khó, tiểu nhiều lần) và đau xương là các triệu chứng hay gặp ở bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt di cĕn xương. Ở nghiên cứu của chúng tôi có khoảng 50% bệnh nhân nghiên cứu có đau xương, trong đó 27,3% đau nặng và 4,5% đau khủng khiếp. Có 27,3% rối loạn tiểu tiện mức độ nhẹ, 27,3% mức độ vừa và 45,5% mức độ nặng. Cũng ở nghiên cứu của Eberhard Varenhorst và cộng sự, 58,6% trong số 915 bệnh nhân nghiên cứu có đau xương[5]. Natsuo Tomita và cộng sự (2015) nghiên cứu ở 216 bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt giai đoạn tại chỗ có 124 bệnh nhân (57,4%) rối loạn nhẹ, 70 bệnh nhân (32,4%) rối loạn vừa và 22 bệnh nhân (10,2%) rối loạn nặng[6]. Tỷ lệ bệnh nhân rối loạn tiểu tiện mức độ nặng ở nghiên cứu của chúng tôi cao hơn ở nghiên cứu của Natsuo Tomita có lẽ do các bệnh nhân ở nghiên cứu của chúng tôi đều ở giai đoạn IV, đã có di cĕn xa. Đau xương và rối loạn tiểu tiện ảnh hưởng đến chất lượng sống của bệnh nhân. Đặc điểm xét nghiệm PSA là dấu ấn sinh học ung thư có giá trị sàng lọc, phân mức nguy cơ, đánh giá đáp ứng điều trị và theo dõi tái phát tiến triển. Ở nghiên cứu của chúng tôi, một số bệnh nhân đi khám là do các triệu chứng của di cĕn (đau xương, hạch to, ho do di cĕn phổi), một số bệnh nhân đi khám do các triệu chứng đường tiết niệu dưới (đái khó, đái ngắt ngừng, đái máu). Các bệnh nhân đều được xét nghiệm PSA, phát hiện PSA cao và sinh thiết tuyến tiền liệt qua đường hậu môn-trực tràng. Tại thời điểm chẩn đoán có đến 86,4% bệnh nhân có PSA ≥ 20ng/ml. Omar Abdel-Rahman phân tích số liệu của SEER giai đoạn 2006 – 2014, trong 72.999 bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt, có 82,3% PSA < 10ng/ml, 12,9% PSA 10 - < 20ng/ml và 4,8% PSA ≥ 20ng/ml[7]. Giorgio Gandagliaa và cộng sự cũng phân tích số liệu của SEER giai đoạn 1991 – 2009, ở 3093 bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt di cĕn xương, tại thời điểm chẩn đoán có 79,8% bệnh nhân có PSA ≥ 20ng/ml, ở 442 bệnh nhân vừa có di cĕn xương vừa có di cĕn tạng có 84,4% PSA ≥ 20ng/ml[8]. Như vậy ung thư tuyến tiền liệt di cĕn thường có PSA ≥ 20ng/ml. Kazuhiro Nagao và cộng sự (2016) nghiên cứu ở 100 bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt di cĕn xương có 6 (6%) bệnh nhân gleason ≤ 6 điểm, 28 (28%) bệnh nhân gleason = 7 điểm, 66 (66%) bệnh nhân gleason ≥ 8 điểm[11]. Ở 44 bệnh nhân chúng tôi nghiên cứu có 52,3% bệnh nhân gleason ≥ 8 điểm. Ở nghiên cứu của Omar Abdel-Rahman, trong 72999 bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt, 40,6% gleason ≤ 6 điểm, 31,6% gleason 3 + 4 điểm, 13,3% gleason 4 + 3 điểm, 9,4% gleason 8 điểm và 5,1% gleason 9 + 10 điểm[7]. Ở nghiên cứu của chúng tôi phần lớn bệnh nhân cT3 và cT4 (81,9%), tuy nhiên cũng có 4,5% cT1 và 13,6% cT2. Kết quả này cho thấy ngay cả khi u ở tuyến tiền liệt còn nhỏ vẫn có khả nĕng di cĕn xương. Kyo Chul Koo và cộng sự (2015) hồi cứu 248 bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt di cĕn xương có 27 bệnh nhân (11%) giai đoạn T2, 130 (52,4%) bệnh nhân giai đoạn T3 và 91 (36,6%) bệnh nhân giai đoạn T4[9]. Maria J. Schymura và cộng sự (2014) phân tích số liệu SEER 2004 - 2010 cho thấy: nĕm 2010 có 56.946 bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt. Trong đó giai đoạn T0 là 9 bệnh nhân (0,05%), T2 có 33.002 bệnh nhân (58,41%), T3 có 1377 bệnh nhân (2,43%), T4 có 516 bệnh nhân (0,91%) và Tx có 3.507 (6,21%) bệnh nhân[10]. Nghiên cứu ở 2607 bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt giai đoạn IV, Giorgio Gandagliaa và cộng sự thấy có 91,1% có di cĕn xương, 8,7% có di cĕn hạch, 5,7% di cĕn phổi, 4,7% di cĕn gan, 1,8% di cĕn não, 1,3% di cĕn hệ tiêu hóa, 1,3% di cĕn ở bụng và sau phúc mạc, 0,6% di cĕn thận và thượng thận. Mặt khác trong số 3093 bệnh nhân có di cĕn xương có 422 (13,6%) bệnh nhân có cả di cĕn tạng[8]. Trong 44 bệnh nhân có di cĕn xương chúng NHI - PHỤ KHOA - NIỆU TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 68 tôi nghiên cứu có 3 (6,8%) bệnh nhân có cả di cĕn hạch xa và 8 (18,1%) bệnh nhân có cả di cĕn tạng. Tiên lượng thời gian sống thêm xấu dần theo thứ tự: di cĕn hạch xa, di cĕn xương, di cĕn tạng, di cĕn xương và di cĕn tạng[8]. Folasire và cộng sự (2015) nghiên cứu ở 82 bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt di cĕn xương thấy 67% di cĕn nhiều xương, 33% di cĕn 1 xương. Các xương hay gặp di cĕn nhất là: cột sống (94% - trong đó 92,2% có di cĕn cột sống thắt lưng); khung chậu (67%); xương sườn (40%). Các xương ít gặp di cĕn là xương trụ (1%) và xương chày (1%). Điểm Gleason tại thời điểm chẩn đoán không có giá trị tiên đoán vị trí di cĕn xương[12]. Hai vị trí di cĕn gặp nhiều nhất ở nghiên cứu của chúng tôi là xương cột sống (88,6%) và xương chậu (77,3%), 70,5% bệnh nhân nghiên cứu có khối lượng di cĕn cao. Christopher J. Sweeney và cộng sự (2015) nghiên cứu ở 790 bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt di cĕn, có 147 (18,6%) bệnh nhân có thể tích di cĕn thấp và 643 (81,4%) bệnh nhân có thể tích di cĕn cao[13]. Một số thử nghiệm lâm sàng cho thấy thêm docetacel vào phác đồ ức chế androgen kéo dài thời gian sống thêm không tiến triển và thời gian sống thêm toàn thể ở các bệnh nhân có thể tích di cĕn cao. Phác đồ điều trị Cho đến nay, điều trị ức chế androgen vẫn là điều trị chính đối với bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt di cĕn. Cắt tinh hoàn bằng thuốc (đồng vận LHRH hoặc đối vận LHRH) và phẫu thuật cắt 2 tinh hoàn hiệu quả như nhau[14]. Nhiều nghiên cứu cũng cho thấy ức chế androgen tối đa (phối hợp cắt tinh hoàn bằng thuốc hoặc phẫu thuật với antiandrogen nhóm không streroid) cải thiện thời gian đến tiến triển và thời gian sống thêm, giảm nguy cơ tử vong. Ở bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt di cĕn xương, phối hợp ức chế androgen với thuốc chống tiêu xương (Zoledronic) kéo dài thời gian đến kháng cắt tinh hoàn[11]. Ở nghiên cứu của chúng tôi, 50% bệnh nhân lựa chọn phẫu thuật cắt 2 tinh hoàn và 50% lựa chọn cắt tinh hoàn bằng thuốc. Các bệnh nhân đều được điều trị ức chế androgen tối đa (thêm Casodex) và thuốc chống tiêu xương pamisol. Đáp ứng với điều trị Mức testosterol: mức testosterol < 1,7nmol/L được coi là cắt tinh hoàn. Tuy nhiên, do sự tiến bộ về kỹ thuật xét nghiệm, một số nghiên cứu cho thấy mức testosterol trung bình trong máu sau phẫu thuật cắt tinh hoàn là 0,003nmol/L. Một số tác giả đề xuất mức testosterol cắt tinh hoàn mới là 0,7nmol/L. Các tác giả cũng cho thấy sống thêm không kháng cắt tinh hoàn dài hơn ở bệnh nhân mức testosterol cắt tinh hoàn thấp hơn trong 3 nhóm < 0,7nmol/L; 0,7nmol/L - <1,7nmol/L và ≥1,7nmol/L[15]. Chúng tôi sử dụng mức testosterol cắt tinh hoàn là < 1,7nmol/L theo hướng dẫn NCCN[14]. Trong 44 bệnh nhân nghiên cứu có 2 (4,6%) bệnh nhân sau điều trị 1 tháng mức testosterol ≥ 1,7nmol/L. Đáng chú ý là trong đó có 1 bệnh nhân điều trị cắt tinh hoàn bằng thuốc (Zoladex + Casodex) sau khi chuyển sang phẫu thuật cắt tinh hoàn thì mức testosterol < 1,7nmol/L. Một số nghiên cứu cũng cho thấy khoảng 2 - 12,5% bệnh nhân cắt tinh hoàn bằng đối vận LHRH có mức testosterol ≥1,7nmol/L[15]. Đáp ứng sinh học: ở nghiên cứu của chúng tôi ban đầu có 2 trường hợp testosterol không đạt được mức cắt tinh hoàn. Trong đó có 1 trường hợp điều trị cắt tinh hoàn bằng thuốc sau khi chuyển sang phẫu thuật cắt tinh hoàn thì testosterol đạt mức cắt tinh hoàn, tuy nhiên cả 2 trường hợp này PSA không đạt đáp ứng sinh học, cả 2 bệnh nhân đều tử vong sớm (trước 12 tháng). PSA nadir: trong 44 bệnh nhân chúng tôi nghiên cứu, 01 bệnh nhân PSA không giảm, mức PSA tại thời điểm chẩn đoán là mức PSA thấp nhất (>154ng/ml). 04 bệnh nhân kết quả xét nghiệm không ổn định, chúng tôi không xác định được PSA nadir. 02 bệnh nhân đến thời điểm kết thúc nghiên cứu PSA đang tiếp tục giảm. Trong số 37 bệnh nhân xác định được PSA nadir, 25 (67,6%) bệnh nhân PSA nadir ≤ 4ng/ml, 12 (32,4%) bệnh nhân PSA nadir > 4ng/ml. Trong 917 bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt di cĕn điều trị ức chế androgen ở nhánh chứng của thử nghiệm STAMPEDE, chỉ có 457 bệnh nhân xác định được PSA nadir. Có 78% PSA nadir <4ng/ml, 22% PSA nadir ≥4ng/ml[17]. Chaiyut Kongseang và cộng sự hồi cứu 248 bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt di cĕn xương điều trị ức chế androgen, mức ALP cao, tình trạng toàn thân ≥1 điểm và mức PSA nadir cao là những yếu tố tiên lượng xấu thời gian sống thêm[19]. Thời gian sống thêm Cũng ở nhánh chứng của thử nghiệm STAMPETE, với thời gian theo dõi trung bình 20 tháng, sống thêm không thất bại điều trị trung vị và sống thêm toàn thể trung vị của 917 bệnh nhân nghiên cứu tương ứng là 11 tháng và 42 tháng[17]. Rami Klaff và cộng sự nghiên cứu 915 bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt di cĕn, có 77,4% sống thêm 0 - 5 nĕm, 18,3% sống thêm 5 - 10 nĕm và 4,4% sống thêm > 10 nĕm[18]. Kazuhiro Nagao và cộng sự phối hợp ức chế androgen tối đa và Zoledronic điều trị ung thư tuyến tiền liệt di cĕn xương, thời gian đến tiến triển trung vị là 25,2 tháng[11]. Ở nghiên cứu của chúng tôi, thời gian sống thêm không tiến triển trung vị là 20,54 tháng và thời gian sống thêm toàn thể trung vị là 36,8 tháng. Ngoài các yếu tố thuộc về đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của bệnh, sống thêm NHI - PHỤ KHOA - NIỆU TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 69 toàn thể còn phụ thuộc vào biện pháp điều trị sau khi bệnh tiến triển. KẾT LUẬN Hầu hết bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt di cĕn xương đạt mức cắt tinh hoàn và đạt đáp ứng PSA khi điều trị phối hợp ức chế androgen tối đa và pamisol, tuy nhiên, thời gian sống thêm không tiến triển trung vị ngắn. Kết quả này đặt ra yêu cầu cần phối hợp thêm hóa chất, nội tiết hoặc điều trị miễn dịch để kéo dài thời gian đáp ứng điều trị. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Globocan 2012: Estimated Cancer Incidence, Mortality and Prevalence Worldwide in 2012, international Agency for Reseacrch on Cancer. 2. Carolin Reischauer, MSc Johannes M. Froehlich, PhD Dow-Mu Koh, MDNicole Graf, PhD. Bone Metastases from Prostate Cancer: Assessing Treatment Response by Using Diffusionweighted Imaging and Functional Diffusion Maps—Initial Observations. Radiology: Volume 257: Number 2—November 2010. 3. Glenn J. Bubley, Michael Carducci, William Dahut et al. Eligibility and Response Guidelines for Phase II Clinical Trials in Androgen- Independent Prostate Cancer: Recommendations From the Prostate-Specific Antigen Working Group. J Clin Oncol 17:3461– 3467. 1999 by American Society of Clinical Oncology. 4. Howard I. Scher, Susan Halabi, Ian Tannock et al. Design and End Points of Clinical Trials for Patients With Progressive Prostate Cancer and Castrate Levels of Testosterone: Recommendations of the Prostate Cancer Clinical Trials Working Group. J Clin Oncol. 2008 March 1; 26(7): 1148–1159. doi:10.1200/JCO.2007.12.4487. 5. Eberhard Varenhorst, Rami Klaff, Anders Berglund et al. Predictors of early androgen deprivation treatment failure in prostate cancer with bone metastases. Cancer Medicine 2016; 5(3):407–414. 6. Natsuo Tomita, Isao Oze, Hidetoshi Shimizu et al. International prostate symptom score (IPSS) change and changing factor in intensity- modulated radiotherapy combined with androgen deprivation therapy for prostate cancer. Nagoya J. Med. Sci. 77. 637 ~ 646, 2015. 7. Omar Abdel-Rahman Validation of American Joint Committee on Cancer eighth staging system among prostate cancer patients treated with radical prostatectomy. Ther Adv Urol 2018, Vol. 10(2) 35–42. 8. Giorgio Gandagliaa, Pierre I. Karakiewicza, Alberto Brigantib et all. Impact of the Site of Metastases on Survival in Patients with Metastatic Prostate Cancer. EUROPEAN UROLOGY 68 (2015) 325–334. 9. Kyo Chul Koo, Sang Un Park, Ki Hong Kim, et all. Predictors of survival in prostate cancer patients with bone metastasis and extremely high prostate-specific antigen levels. Prostate International 3 (2015) 10 – 15. 10. Maria J. Schymura; Leon Sun; and Antoinette Percy-Laurry. Prostate Cancer Collaborative Stage Data Items—Their Definitions, Quality, Usage, and Clinical Implications: A Review of SEER Data for 2004-2010. Cancer December 1, 2014. 11. Kazuhiro Nagao, Hideyasu Matsuyama, Masahiro Nozawa et all. Zoledronic acid combined with androgendeprivation therapy may prolong time to castration-resistant prostate cancer in hormone-naı¨ve metastatic prostate cancer patients e A propensity scoring approach. Asian Journal of Urology (2016) 3, 33-38. 12. Folasire A, Ntekim A, Omikunle A, Ali-Gombe M. Association of Gleason Risk Groups with Metastatic Sites in Prostate Cancer. Afr. J. Biomed. Res. Vol.18 (September, 2015); 189- 196. 13. Christopher J. Sweeney, Yu-Hui Chen, Michael Carducci et all. Chemohormonal Therapy in Metastatic Hormone-Sensitive Prostate Cancer. N Engl J Med 2015; 373: 737-46. 14. NCCN Clinical Practice Guidelines in Oncology. Prostate Cancer, Version 3.2018. 15. 15. Bobby Shayegan, Frédéric Pouliot, Alan So, at all. Testosterone monitoring for men with advanced prostate cancer: Review of current practices and a survey of Canadian physicians, CUAJ Volume 11 N06 June 2017.indd 204. 16. Chaiyut Kongseang, Worapat Attawettayanon, Watid Kanchanawanichkul, Choosak Pripatnanont. Predictive factor of androgen deprivation therapy for patients with advanced stage prostate cancer. Prostate Int 5 (2017) 35- 38. 17. Nicholas David James, Melissa R. Spears, Noel W. Clarke et all. Survival with Newly Diagnosed Metastatic Prostate Cancer in the ‘‘Docetaxel Era’’: Data from 917 Patients in the Control Arm NHI - PHỤ KHOA - NIỆU TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 70 of the STAMPEDE Trial (MRC PR08, CRUK/06/019). E U R O P E A N U R O L O G Y 6 7 (2 0 1 5) 1 0 2 8 - 1 0 3 8. 18. Rami Klaff, Anders Berglund, Eberhard Varenhorst et al. Clinical characteristics and quality-of-life in patients surviving a decade of prostate cancer with bone metastases. BJU Int 2016; 117: 904–913. 19. Kyo Chul Koo, Sang Un Park, Ki Hong Kim et all. Predictors of survival in prostate cancer patients with bone metastasis and extremely high prostate-specific antigen levels. Prostate International 3 (2015) 10-15.
File đính kèm:
ket_qua_ap_dung_lieu_phap_uc_che_androgen_ket_hop_biphosphon.pdf