Kết hợp thuốc giãn phế quản trong điều trị COPD
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
COPD là một bệnh lý trầm trọng, là gánh nặng cho cộng đồng và cho từng cá thể bệnh nhân, có tỷ lệ tử vong đứng hàng thứ 3 trong nguyên nhân gây tử vong của các bệnh lý trên thế giới.
Mục tiêu điều trị bệnh nhân bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD) là giúp làm giảm các triệu chứng và giảm nguy cơ đợt cấp, trong đó thuốc giãn phế quản có vai trò rất lớn trong cải thiện chất lượng cuộc sống và hạn chế sự tiến triển của bệnh
Bạn đang xem tài liệu "Kết hợp thuốc giãn phế quản trong điều trị COPD", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Kết hợp thuốc giãn phế quản trong điều trị COPD
Tổng quan 25 Hô hấp số 17/2018 1. ĐẶT VẤN ĐỀ COPD là một bệnh lý trầm trọng, là gánh nặng cho cộng đồng và cho từng cá thể bệnh nhân, có tỷ lệ tử vong đứng hàng thứ 3 trong nguyên nhân gây tử vong của các bệnh lý trên thế giới. Mục tiêu điều trị bệnh nhân bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD) là giúp làm giảm các triệu chứng và giảm nguy cơ đợt cấp, trong đó thuốc giãn phế quản có vai trò rất lớn trong cải thiện chất lượng cuộc sống và hạn chế sự tiến triển của bệnh. Cơ chế tác dụng và các thử nghiệm lâm sàng đã chứng minh phối hợp các thuốc giãn phế quản bao gồm thuốc tác dụng beta 2-agonist kéo dài (LABA) và thuốc tác dụng kháng muscarinic tác dụng kéo dài (LAMAs) làm tăng hiệu quả so với sử dụng phương thức đơn trị đặc biệt trong hạn chế đợt kịch phát và cải thiện chức năng phổi. 2. THuỐC CƯỜNG THỤ THỂ BETA 2 ADRENERGIC Isoprenaline tổng hợp được giới thiệu vào năm 1948, trong khi beta 2-agonist chọn lọc, salbutamol (albuterol) được giới thiệu như một thuốc giãn phế quản vào năm 1969, tiếp theo là terbutaline năm 1974. Các thuốc giãn phế quản đồng vận beta 2 kéo dài (Long active bronchodilatator action, LABA) như salmeterol và formoterol đã trở thành thuốc có sẵn trong thực hành lâm sàng từ những năm 1990, thời gian tác dụng 12 giờ / một lần. Các thuốc LABA tác dụng siêu dài, ULTRA-LABA (LABA thời gian tác dụng 24 giờ / một lần, cho phép sử dụng một lần mỗi ngày) như indacaterol, vilanterol và olodaterol gần đây đã được phê duyệt và đưa vào sử dụng. Các thụ thể beta 2-adrenergic được thấy trên bề mặt màng tế bào cơ trơn của đường hô hấp. Mỗi tế bào cơ trơn chứa từ từ 30-40.000 thụ thể beta 2, phân phối từ khí quản đến phế quản tận cùng với mật độ càng nhiều khi đường kính phế quản càng nhỏ. Do đó, các chất beta 2-agonist, gây ra sự giãn của các phế quản nhỏ (<2 mm đường kính) (1). Kích thích tác động lên thụ thể beta 2 dẫn đến sự hoạt hóa của adenylyl cyclase bằng cách kích hoạt thích G-protein (Gs) và xúc tác chuyển đổi adenosine triphosphate (ATP) thành cyclic adenosine monophosphate cAMP (2). Chính cAMP trong tế bào cơ trơn hoạt hóa protein kinase A (PKA), trong đó phosphoryl hóa một số protein đích trong tế bào. Khi PKA phosphoryl hóa men MLCK (myosin light chain kinases) làm cho ái lực calmodulin / Ca+ giảm, và hiện tượng giãn cơ xảy ra (hình 1). Ngoài ra, thụ thể triphosphate inositol (IP3R) trong lưới nội chất (ER) được phosphoryl hóa bởi PKA, làm giảm sự giải phóng canxi từ ER đến cytosol, làm giảm canxi trong tế bào chất, gây giảm sự tương tác calmodulin / Ca+ với MLCK. Ngoài ra, PKA có thể phosphoryl hoá các kênh kali, đẩy kali ra khỏi tế bào, làm khử cực và làm giãn cơ trơn. Với những cơ chế này, thông qua cAMP / PKA, tạo ra sự giãn cơ trơn phế quản (2). Hình 1. Tín hiệu tế bào gây giãn cơ trơn do kích thích thụ thể beta2-adrenergic (Alvarado A. Clin Res Trials, 2017) KẾT HỢP THuỐC GIÃN PHẾ QuẢN TRONG ĐIỀu TRỊ COPD BSCKII NGuyỄN ĐÌNH Duy BV Phạm Ngọc Thạch (Thành phố Hồ Chí Minh) Tổng quan 26 Hô hấp số 17/2018 Do thụ thể beta 2 khu trú trên nhiều tế bào khác nhau trong đường hô hấp nên b 2 -agonist có thể có tác dụng khác trên đường dẩn khí nên khi được kích thích chúng có thể làm giãn phế quản gián tiếp bằng cách ức chế giải phóng các chất trung gian hóa học từ các tế bào viêm và các chất dẫn truyền thần kinh từ các dây thần kinh đường hô hấp. Ví dụ, beta 2-agonist ức chế giải phóng các chất trung gian hóa học của tế bào mask thông qua việc ngăn chặn sự dẫn truyền trung gian calcium qua kênh K (Kca 3.1). Tác dụng ức chế giải phóng chất trung gian hóa học từ tế bào mast gây hiện tượng thẩm thấu vi mạch là tác dụng kháng viêm. Tuy nhiên tác dụng này chỉ có hiệu quả trong viêm cấp tính hơn là trong quá trình viêm mạn tính, trái ngược với tác dụng kháng viêm khi sử dụng corticoid dạng hít (ICS). Nguyên nhân là do các thụ thể beta 2 ít hiện diện trên các đại thực bào, tế bào lympho, tế bào ái toan. Hơn nữa các thụ thể này còn bị bất hoạt bởi men G-protein receptor kinase-2 (GPCK2 ) (3). Mặt khác, mặc dù thụ thể beta 2 kết hợp với G protein (Gs) để giãn cơ trơn phế quản nhưng có thể kích hoạt các cơ chế khác gây tác dụng có hại như tăng hiện tượng viêm. Khi xảy ra hiện tượng beta 2 biểu hiện quá mức như trong bệnh hen, Gq kết hợp với phospholipase Cβ1 (PLCβ1), được hoạt hoá, dẫn đến làm tăng phản ứng co thắt phế quản khi đáp ứng với các chất trung gian như ACh và histamine. Các thụ thể beta 2 còn tương tác với b-aressting 2 , chất này lại tác động hỗ trợ với các chất p38MAPK và PI3K là những chất trung gian tiền viêm gây phản ứng có hại đặc biệt là trong hen (4) (hình 2). Hình 2. Các đường tín hiệu tế bào khác của thụ thể beta2-adrenergic (Alvarado A. Clin Res Trials, 2017) 3. THuỐC KHÁNG CHOLINERGIC Các thụ thể muscarinic được chia thành các phân nhóm. Các phân nhóm thụ thể M1, M2 và M3 được tìm thấy trong đường hô hấp của con người, M 4 và M 5 nằm trong hệ thần kinh trung ương. Các thụ thể M1 được tìm thấy trong thành phế nang và trong hạch giao cảm, ức chế tác dụng của chúng làm giảm phản ứng co thắt phế quản. Các thụ thể M 2 nằm trên đoạn cuối dây thần kinh X sau hạch, và các thụ thể này giới hạn hoạt động thần kinh phế vị gây sự co thắt phế quản. Khi giải phóng và vận chuyển của acheyl cholin tăng lên (gây co thắt phế quản), các thụ thể này ức chế sự giải phóng của acetyl cholin qua quá trình trao đổi chất dẫn truyền thần kinh. Nếu các thụ thể này bị bất hoạt, cơ chế điều khiển phế vị mất đi, làm kéo dài sự co thắt của cơ trơn phế quản. Các thụ thể M 3 khu trú trong cơ trơn đường dẫn khí và các tuyến dưới niêm mạc, nơi chúng làm trung gian gây co thắt phế quản và tăng tiết nhầy, được kích thích bởi thuốc chủ vận acetylcholin hoặc cholinergic (ví dụ methacholine). Các sợi cholinergic tập trung nhiều trong vùng rốn phổi và giảm về phía đường hô hấp ngoại vi, tương tự các thụ thể cholinergic muscarinic cũng làm giảm mật độ của chúng trong các đường dẫn khí ngoại biên (chủ yếu là các thụ thể M 3 ), ngược lại với thụ thể beta 2. Các thụ thể muscarinic Ach là các thụ thể ghép protein G (GPCR s ). Các thụ thể M1 và M 3 được kết hợp với các protein Gq, trong khi M 2 cùng với protein G io . Khi receptor M được kích hoạt, guanosine triphosphate (GTP) gắn với tiểu đơn vị G-protein tương ứng (ví dụ Gq trong trường hợp M 3 ), kích thích phospholipase Cβ (PLCβ). PLCβ phân tách phosphoinositol bisphosphate (PIP2) thành Inositol triphosphate (IP3) và diacyl glycerol (DAG). IP3 tương tác với các thụ thể tương ứng (IP3R) trong lưới nội chất (ER) và gây ra giải phóng canxi vào tế bào chất, liên kết với calmodulin bằng cách kích hoạt MLCK. Các MLCK phosphoryl hoá myosin tạo điều kiện cho sự tương tác giữa actin và myosin gây co cơ. DAG lần lượt kích hoạt protein kinase C (PKC) làm phosphoryl hóa calponin, ngăn cản Tổng quan 27 Hô hấp số 17/2018 Các nghiên cứu in vitro cho thấy acetylcholin gây ra sự giải phóng các chất trung gian gây viêm như GM- CSF (granulocyte-macrophage colony stimulating factor), leukotriene B4 (LTB4) và prostaglandin E2 của các tế bào biểu mô được giải phóng qua trung gian thông qua các thụ thể muscarinic có thể bị ức chế bởi tiotropium (5). Glycopyrronium bromide đã được chứng minh là làm giảm sự biểu hiện của các chất trung gian gây viêm trong dung dịch rửa phế quản (BALF) trên đối tượng bệnh nhân hút thuốc lá (6). Xơ hoá quanh phế quản có thể là yếu tố quan trọng trong sự suy giảm FEV1 trong COPD. Gần đây, aclidinium đã được chứng minh là ức chế sự chuyển đổi nguyên bào sợi sang nguyên bào sợi cơ, làm giảm sự tái cấu trúc cơ trơn (7). Do vậy, đã có bằng chứng cho rằng thuốc kháng cholinergic có thể ngăn ngừa sự co thắt và tăng sinh của các tế bào cơ trơn và nguyên bào sợi trong quá trình tái cấu trúc đường dẫn khí. Qua đó cũng cho thấy LAMA có thể có lợi ích khi sử dụng điều trị duy trì trong hen phế quản và COPD, đặc biệt ở những người không đạt được sự kiểm soát với phối hợp ICS hoặc ở những người thường xuyên có cơn kịch phát (8). 4. ĐIỀu TRỊ PHỐI HỢP HAI LOẠI THuỐC GIÃN PHẾ QuẢN Sự kết hợp của thuốc đồng vận beta 2-adrenergic với kháng cholinergic trong điều trị các bệnh đường hô hấp tắc nghẽn dựa trên một số yếu tố. Ở mức độ cơ chế tác dụng, sự kết hợp 2 nhóm thuốc có tác dụng bổ sung cho nhau. Sự phân bố chủ yếu của các thụ thể cholinergic tạo điều kiện cho sự giãn phế quản vùng trung tâm của thuốc kháng cholinergic và tác dụng của beta 2-agonist ở ngoại vi nơi thụ thể beta 2 tập trung nhiều nhất. Đây là một cơ chế trong đó một thuốc giãn phế quản này tạo điều kiện tiếp cận và tác dụng cho thuốc giãn phế quản khác. Một sai lầm phổ biến hiện nay khi cho rằng anticholinergics và beta 2-adrenergics có tác dụng cộng hợp. Sự cộng hợp chỉ xảy ra khi hai loại thuốc hoạt động trên cùng một thụ thể và kết quả của sự phối hợp này đơn giản là tổng tuyến tính của hai loại thuốc này, để đạt được hiệu quả tối đa. Tác dụng của sự ức chế của nó trên myosin-ATPase (thể hoạt động myosin ATPase gây co cơ) (hình 3). Tất cả các kháng cholinergic khống chế thụ thể cholinergic, ngăn chặn các quá trình co cơ mô tả ở trên và do đó đươc xem là chất đối kháng (2). Hình 3. Cơ chế co cơ trơn cholinergic (Alvarado A. Clin Res Trials, 2017) Tổng quan 28 Hô hấp số 17/2018 2 nhóm thuốc giãn phế quản trên 2 thụ thể khác nhau có hiệu quả hỗ trợ khi tác động trên cùng một mô đích (cơ trơn) và hiệu quả phối hợp này lớn hơn tổng của hiệu quả từng thuốc riêng lẻ, trong trường hợp này là hiệu quả giãn phế quản. Ví dụ, beta 2-adrenergic khi hình thành cAMP và nó kích hoạt PKA (phosphorylates IP3R) ức chế sự giải phóng canxi từ ER. Đồng thời, các kháng cholinergic, bằng cách ngăn chặn sự hình thành của PLCβ (và ức chế sự hình thành của IP3 là chất dẫn truyền thứ cấp kích thích IP3R) ngăn chặn việc phóng thích canxi từ ER. Rõ ràng là hoạt động thông qua các con đường chuyển hóa khác nhau của mỗi thụ thể, kết quả cuối cùng là giảm sự nồng độ của canxi trong cytosol, đó là nền tảng cho các hoạt động phối hợp của actin và myosin trong quá trình của sự co cơ. Một ví dụ khác là hoạt động của cả hai thuốc giãn phế quản trên calponin, trong khi kích thích beta 2- adrenergic làm tăng nồng độ của caponin trong cytosol và thuốc kháng cholinergic ngăn chặn calponin bằng cách bất hoạt nó bằng PKC. Kết quả cuối cùng là tăng giải phóng của enzyme ức chế myosin ATPase và do đó làm giãn cơ. Ngoài ra hoạt động giao cảm xảy ra chủ yếu vào ban ngày, trong khi hệ thống đối giao cảm là hoạt động vào ban đêm, do đó phối hợp cả hai nhóm có thể cung cấp nhiều lợi ích hơn so với 1 nhóm riêng lẻ (9). Trong điều trị cơn kịch phát COPD, cũng giống như trong cơn kịch phát hen, việc sử dụng SAMA là một lựa chọn và không bắt buộc. Việc sử dụng SABA có hoặc không có kháng cholinergic là thuốc giãn phế quản ban đầu để điều trị (10). Khuyến cáo bệnh nhân tiếp tục điều trị duy trì với LABA và / hoặc LAMA, hoặc kết hợp và có hoặc không có ICS, hoặc nếu không có điều trị trước đó, nên áp dụng trước khi xuất viện. Thuốc giãn phế quản tác dụng ngắn sử dụng khi cần, chỉ được chỉ định trong nhóm A trong phân loại của (GOLD). Từ nhóm B đến D, khuyến cáo sử dụng các thuốc giãn phế quản tác dụng kéo dài có hiệu quả hơn so với các thuốc giãn phế quản tác dụng ngắn được sử dụng khi cần thiết (11). 5. PHỐI HỢP LAMA/LABA TRONG COPD Ngoài hiệu quả các thuốc giãn phế quản có thể thu được từ sự phối hợp LABA / LAMA, sự ra đời của các dụng cụ mới cho phép phối hợp cả hai loại thuốc, do vậy thuốc có thể được sử dụng một lần trong ngày, tạo điều kiện cho việc tuân thủ điều trị, làm giảm liều mỗi loại thuốc và do vậy sẽ giảm tác dụng phụ của thuốc khi sử dụng thuốc đơn trị liều cao. Trong một thập kỷ vừa qua, chỉ có LAMA, tiotropium bromide, được sử dụng trên lâm sàng. Các nghiên cứu lớn như UPFLIT, TIOSPIR đã chứng minh vai trò của tiotropium trong cải thiện chức năng phổi trong giai đoạn sớm COPD. Từ năm 2012, việc điều trị COPD có bước ngoặt mới khi có thuốc LAMA mới là glycopyrronium bromide và aclidinium bromide và umeclidinium. Ba loại thuốc này được coi là lựa chọn điều trị trong bản cập nhật GOLD gần đây. Glycoyrronium bromide là một hợp chất tổng hợp amonium bậc bốn, gần đây được cải tiến thành dạng bột khô để sử dụng đường hít một lần một ngày. Các nghiên cứu tiền lâm sàng hiệu quả của glycopyrronium bromide trong COPD (GLOW) đã được tiến hành. Các nghiên cứu cho thấy 50 μg hít một lần mỗi ngày cải thiện FEV1, khó thở và tình trạng sức khỏe (12,13) cũng như sự giảm số lượng AECOPD cũng được ghi nhận (14). Glycopyrronium có tính an toàn chấp nhận được, nhất là tỷ lệ thấp của về tác dụng phụ trên hệ tim mạch. Aclidinium bromide đã được chấp thuận tại Liên minh châu Âu (EU) và ở Mỹ trong điều trị duy trì COPD. Trong các nghiên cứu pha III, aclidinium bromide (so với giả dược) cải thiện chức năng phổi, khó thở và tình trạng sức khỏe trong 24 tuần điều trị đầu tiên và cải thiện này được duy trì trong 52 tuần trong các nghiên cứu tiếp theo. Tần suất xuất hiện của AECOPD giảm đáng kể so với giả dược, và có tính an toàn cao về tác dụng trên hệ tim mạch. Aclidinium (400 μg DPI, 400 μg pMDI) được dùng hai lần mỗi ngày trong khi umeclidinium (62,5 μg DPI) được dùng mỗi ngày một lần. Tổng quan 29 Hô hấp số 17/2018 LABA, salmeterol (25-50 μg MDI và DPI) và formoterol (4,5-9 μg DPI) được sử dụng 12 giờ một lần, dùng trong như một loại thuốc duy nhất trong một thiết bị hoặc phối hợp với steroid hoặc LAMA. ULTRA-LABA (indacaterol, olodaterol và vilanterol) có thể dùng riêng lẻ hay được phối hợp với LAMA trong một thiết bị duy nhất sử dụng trong 24 giờ. Indacaterol là ULTRA-LABA đầu tiên được phê duyệt để được kê đơn một lần mỗi ngày trong COPD. Thuốc đã được chứng minh là có tác dụng giãn phế quản hơn LABA, formoterol (12 μg hai lần mỗi ngày), và hiệu quả tương tự như tiotropium (15). Ủy ban châu Âu cũng như FDA đã công nhận, Olodaterol, thuốc giãn phế quản tác dụng kéo dài (2,5-5 μg SMI = dạng hít sương mù), là thuốc để điều trị COPD nhẹ đến nặng, cũng như Vilanterol (25 μg) mỗi ngày một lần (16). Phối hợp một thuốc giãn phế quản thứ hai cho bệnh nhân có triệu chứng không được kiểm soát với đơn trị liệu giúp cải thiện chức năng phổi, triệu chứng và tình trạng sức khỏe, mà không làm tăng nguy cơ tác dụng phụ. Cách kết hợp này được chứng minh trong nghiên cứu INTRUST-1 và INTRUST-2 (indacaterol cộng với tiotropium so với tiotropium đơn trị) và trong GLOW6 (Indacaterol cộng với glycoyrronium so với indacaterol). Nghiên cứu SPARK đã đánh giá hiệu quả điều trị bằng kết hợp 2 loại thuốc giãn phế quản dạng hít tác dụng kéo dài ở COPD trung bình đến nặng. Các bệnh nhân đang điều trị được chia ngẫu nhiên thành 3 nhóm, nhóm điều trị kết hợp của 110 μg indacaterol cộng với 50 μg glycopyrronium, nhóm sử dụng glycopyrronium 50 μg đơn trị và nhóm tiotropium 18 μg (không mù). Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng nhóm sử dụng giãn phế quản kép là vượt trội trong việc ngăn ngừa AECOPD từ vừa đến nặng so với nhóm LAMA đơn trị (17). GOLD khuyến cáo sử dụng kết hợp LABA / LAMA từ nhóm B của phân loại COPD trong một số trường hợp nhất định. Nếu bệnh nhân vẫn còn khó thở khi sử dụng đơn trị liệu, việc sử dụng hai thuốc giãn phế quản được khuyến cáo. Có thể sử dụng liệu pháp thuốc giãn phế quản kép nếu bệnh nhân khó thở nhiều ngay từ đầu, và hạ bậc dùng đơn trị liệu nếu các triệu chứng không cải thiện với sự kết hợp thuốc. Nhóm C, thậm chí trong nhóm D với nhiều cơn kịch phát thì sử dụng thuốc kết hợp kép như là một thay thế cho liệu pháp LABA / ICS, đặc biệt là kể từ khi có nhiều bằng chứng cho thấy ICS làm tăng nguy cơ viêm phổi (11). Trong việc chuyển đổi từ các liệu pháp điều trị khác sang dạng phối hợp LAMA/LABA, qua các nghiên cứu như nghiên cứu CRYSTAL, FLASH (18) cho thấy tính hiệu quả của liệu pháp sử dụng kép thuốc giãn phế quản trong cải thiện chức năng phổi và triệu chứng khó thở tốt hơn khi được chuyển đổi từ nhóm LABA, LAMA, ICS/LABA. Trong nghiên cứu DACCORD, việc chuyển đổi liệu pháp ICS/ LABA hay ICS/LABA/LAMA sang LABA/ LAMA cũng cho kết quả khả quan. Sau 1 năm theo dõi thì nhóm LABA/LAMA chuyển từ ICS/LABA có tần suất cơn kịch phát thấp hơn liệu pháp điều trị ban đầu (14% so với 32%), nhóm LABA/ LAMA chuyển từ ICS/LABA/LAMA thì tần suất cơn kịch phát không thay đổi so với liệu pháp ban đầu (19). KẾT LuẬN Thuốc giãn phế quản kháng muscarinic và cường b 2 adrenergic tác dụng kéo dài (LAMA LABA), được sử dụng phối hợp, có tác dụng bổ sung cho nhau để có thể tối ưu hóa giãn phế quản của đường hô hấp, phòng ngừa cơn kịch phát. Sự phối hợp có thể được sử dụng trong đợt cấp của các bệnh lý tắc nghẽn và như là liệu pháp hỗ trợ các thuốc giãn phế quản tác dụng ngắn (SABA / SAMA). Các thuốc giãn phế quản tác dụng kéo dài (LABA, ULTRA- LABA và LAMA) được sử dụng trong các thiết bị riêng biệt hoặc trong cùng một thiết bị đều hiệu quả và là một liệu pháp được chấp nhận trong điều trị duy trì trong COPD. LAMA/ LABA là liệu pháp chọn lựa trong phương thức hạ bậc điều trị COPD. Tổng quan 30 Hô hấp số 17/2018 1. Johnson M. Beta2-adrenoceptors: mechanisms of action of beta2-agonists. Paediatr Respir Rev 2001. 2: 57-62 2. Barnes PJ. Biochemical basis of asthma therapy. J Biol Chem 2011. 286: 32899-32905 3. Howarth PH, Beckett P, Dahl R. The effect of long-acting beta2-agonists on airway inflammation in asthmatic patients. Respir Med 2000. 94 Suppl F: S22-25. 4. Schmid CL, Bohn LM. Physiological and pharmacological implications of beta- arrestin regulation. Pharmacol Ther 2009. 121: 285-293 5. Bos IS, Gosens R, Zuidhof AB, Schaafsma D, Halayko AJ, et al. Inhibition of allergen-induced airway remodelling by tiotropium and budesonide: a comparison. Eur Respir J 2007. 30: 653-661 6. Shen LL, Liu YN, Shen HJ, Wen C, Jia YL, et al. Inhalation of glycopyrronium inhibits cigarette smoke-induced acute lung in ammation in a murine model of COPD. Int Immunopharmacol 2014. 18: 358-364. 7. Milara J, Serrano A, Peiró T, Gavaldà A, Miralpeix M, et al. Aclidinium inhibits human lung fibroblast to myofibroblast transition. Thorax. 2012 Mar; 67(3): 229–237 8. Price D, Fromer L, Kaplan A, van der Molen T, Román- Rodríguez M (2014) Is there a rationale and role for long-acting anticholinergic bronchodilators in asthma? Prim Care Respir Med 24: 1-9 9. Alvarado-Gonzalez A, Arce I. Tiotropium Bromide in Chronic Obstructive Pulmonary Disease and Bronchial Asthma. J Clin Med Res. 2015 Nov; 7(11): 831–839 10.. National Institute for Health and Care Excellence. Chronic obstructive pulmonary disease in over 16s: diagnosis and management. 2010 11. Global strategy for the diagnosis, management, and prevention of chronic obstructive pulmonary disease. Global Initiative for Chronic Obstructive Lung Disease. 2017 12. D’Urzo A, Ferguson GT, van Noord JA, Hirata K, Martin C, et al. E cacy and safety of once-daily NVA237 in patients with moderate-to-severe COPD: the GLOW1 trial. Respir Res 2011. 12: 156 13. Beeh KM, Singh D, Di Scala L, Drollmann A. Once- daily NVA237 improves exercise tolerance from the rst dose in patients with COPD: the GLOW 3 trial: 2012. International Journal of COPD 2012:7 503–513 14. Kerwin E, Hébert J, Gallagher N, Martin C, Overend T, et al. E cacy and safety of NVA237 versus placebo and tiotropium in patients with COPD: the GLOW2 study. Eur Respir J 2012. 40: 1106-1114 15. Dhal R, Chung KF, Buhl HR, Magnussen H, Nonikov V, et al. E cacy of a new once-daily long-acting inhaled beta2-agonist indacaterol versus twice-daily formoterol in COPD. Thorax 2010. 65: 473-478 16. Koch A, Pizzichini E, Hamilton A, Hart L, Korducki L, et al. (2014) Lung function e cacy and symptomatic bene t of olodaterol once daily delivered via Respimat® versus placebo and formoterol twice daily in patients with GOLD 2-4 COPD: results from two replicates 48-week studies. Int J Chron Obstruct Pulmon Dis 9: 697-714. 17. Wedzicha JA, Decramer M, Ficker JH; Niewoehner DE, Sandstrom T, et al. Analysis of chronic obstructive pulmonary disease exacerbations with the dual bronchodilator QVA149 compared with glycopyrronium and tiotropium (SPARK). A randomized, double-blind, parallel-group study. Lancet Respir Med 2013. 1: 199- 209. 18. Ref 21. Peter Frith et al. THE FLASH STUDY, Congress of the Asian Pacific Society of Respirology, Volume 22, Issue S3 November 2017 19. Worth H, Buhl R, Criee CP, Kardos P, et al. GOLD 2017 treatment pathways in ‘real life’: an analysis of the DACCORD observational study. Respir Med. 2017;131:77-84 Tài liệu tham khảo
File đính kèm:
ket_hop_thuoc_gian_phe_quan_trong_dieu_tri_copd.pdf

