Kế toán đầu tư chứng khoán kinh doanh tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

Bên cạnh hoạt động chính là cấp tín dụng cho các tổ chức và cá nhân, các ngân hàng thương mại còn đầu tư vào chứng khoán như một kênh để tìm kiếm lợi nhuận, quản trị dòng tiền và quản trị thanh khoản. Để tìm kiếm lợi nhuận, các ngân hàng có thể mua và bán chứng khoán trong ngắn hạn hưởng chênh lệch giá. Những chứng khoán đầu tư với mục đích như

vậy được gọi là chứng khoán kinh doanh. Để xác định kết quả lợi nhuận tạo ra từ hoạt động kinh doanh

chứng khoán này cần kế toán các chứng khoán kinh doanh một cách phù hợp. Bài viết này sẽ làm rõ việc

kế toán chứng khoán kinh doanh tại các ngân hàng thương mại hiện nay từ quy định pháp lý hiện hành

đến thực tế áp dụng của các ngân hàng, từ đó đưa ra các khuyến nghị để hoàn thiện và nâng cao chất lượng

thông tin về việc đầu tư vào chứng khoán kinh doanh

pdf 6 trang phuongnguyen 400
Bạn đang xem tài liệu "Kế toán đầu tư chứng khoán kinh doanh tại các ngân hàng thương mại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Kế toán đầu tư chứng khoán kinh doanh tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

Kế toán đầu tư chứng khoán kinh doanh tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅI
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN64 Số 143 - tháng 9/2019
KEÁ TOAÙN ÑAÀU TÖ CHÖÙNG KHOAÙN KINH DOANH
TAÏI CAÙC NGAÂN HAØNG THÖÔNG MAÏI VIEÄT NAM
ThS. NGUYỄN THị QUỳNH HOA*
*Học viện Ngân hàng
Bên cạnh hoạt động chính là cấp tín dụng cho các tổ chức và cá nhân, các ngân hàng thương mại còn đầu tư vào chứng khoán như một kênh để tìm kiếm lợi nhuận, quản trị dòng tiền và quản trị thanh khoản. Để tìm kiếm lợi nhuận, các ngân hàng có thể mua và bán chứng khoán trong ngắn hạn hưởng chênh lệch giá. Những chứng khoán đầu tư với mục đích như 
vậy được gọi là chứng khoán kinh doanh. Để xác định kết quả lợi nhuận tạo ra từ hoạt động kinh doanh 
chứng khoán này cần kế toán các chứng khoán kinh doanh một cách phù hợp. Bài viết này sẽ làm rõ việc 
kế toán chứng khoán kinh doanh tại các ngân hàng thương mại hiện nay từ quy định pháp lý hiện hành 
đến thực tế áp dụng của các ngân hàng, từ đó đưa ra các khuyến nghị để hoàn thiện và nâng cao chất lượng 
thông tin về việc đầu tư vào chứng khoán kinh doanh.
Từ khóa: Chứng khoán kinh doanh, suy giảm giá trị, trích lập dự phòng.
Accounting for investment in trading securities at Vietnamese commercial banks
Apart from primary operation of providing loans to orgnizations and individuals, commercial banks 
also invest in securitites to earn profit, cash and liquidity management. To earn profit, banks could buy 
and sell securities in short term and call those trading securities. Proper accounting trading securities 
contributes to determination of profit earned from trading securities. This paper is to study the accounting 
of trading securities at commercial banks, including from statutory framework to banks’actual application 
and recommendations to improve the accounting and information quality of trading security. 
key words: Trading securities, devaluation, provisioning.
Theo các quy định hiện hành của Việt Nam, 
Chứng khoán kinh doanh là:
- Là chứng khoán nợ, chứng khoán vốn hoặc 
chứng khoán khác;
- Tổ chức tín dụng mua với chiến lược kinh 
doanh, mua để bán trong thời gian không quá 1 
năm nhằm hưởng chênh lệch giá;
- Tổ chức tín dụng không có mục đích kiểm soát 
doanh nghiệp.
1. Các quy định pháp lý hiện hành của Việt 
Nam về kế toán chứng khoán kinh doanh
Do Việt Nam chưa ban hành được hệ thống 
chuẩn mực kế toán về tài sản tài chính nên việc 
kế toán tài sản tài chính tại các ngân hàng thương 
mại Việt Nam hiện chịu sự điều chỉnh của các văn 
bản chế độ kế toán và các quy định pháp lý có liên 
quan như Thông tư 200/2014/TT-BTC về chế độ kế 
toán doanh nghiệp, Thông tư 228/2009/TT-BTC và 
Thông tư 89/2013/TT-BTC về trích lập dự phòng, 
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 65Số 143 - tháng 9/2019
công văn 7459/NHNN-KTTC về hướng dẫn hạch 
toán nghiệp vụ kinh doanh, đầu tư chứng khoán. 
Trong đó, việc kế toán chứng khoán kinh doanh 
được thực hiện như sau:
Ghi nhận ban đầu
- Chứng khoán kinh doanh được ghi nhận ban 
đầu theo giá gốc (bao gồm giá mua cộng (+) các chi 
phí mua trực tiếp (nếu có)).
Nợ: Tài khoản chứng khoán kinh doanh thích 
hợp
Có: Tài khoản thích hợp (tiền mặt, tiền gửi, 
trung gian...)
Trong thời gian nắm giữ
- Trong thời gian nắm giữ, giá trị ghi sổ được 
ghi nhận theo giá gốc mua chứng khoán trừ khi có 
sự suy giảm giá trị tài sản. 
- Chứng khoán nợ: Tiền lãi thu được trong thời 
gian nắm giữ chứng khoán nợ kinh doanh được 
hạch toán vào tài khoản thu lãi đầu tư chứng khoán 
nợ tại thời điểm nhận được lãi (thực thu):
Nợ: Tài khoản thích hợp (tiền mặt, tiền gửi, 
trung gian)
Có: Tài khoản thu lãi đầu tư chứng khoán nợ
- Chứng khoán vốn: Cổ tức trong thời gian 
nắm giữ chứng khoán vốn hạch toán vào tài khoản 
thu lãi đầu tư chứng khoán vốn tại thời điểm nhận 
được khoản thanh toán từ doanh nghiệp phát 
hành cổ phiếu hoặc có quyết định pháp lý về cổ 
tức được hưởng:
Nợ: Tài khoản thích hợp (tiền mặt, tiền gửi, 
trung gian...)
Có: Tài khoản thu lãi đầu tư chứng khoán vốn
Dự phòng giảm giá trị: Theo quy định hiện 
hành tại Thông tư 228/TT-BTC ngày 7/12/2009 
của Bộ Tài chính và Thông tư 89/TT-BTC ngày 
28/6/2013, việc trích lập dự phòng tổn thất đối với 
các khoản chứng khoán kinh doanh phải tuân thủ 
các điều kiện sau:
- Đối tượng: Là các chứng khoán có đủ các điều 
kiện sau:
+ Là các loại chứng khoán được doanh nghiệp 
đầu tư theo đúng quy định của pháp luật.
+ Được tự do mua bán trên thị trường mà tại thời 
điểm kiểm kê, lập báo cáo tài chính có giá thị trường 
giảm so với giá đang hạch toán trên sổ kế toán.
Những chứng khoán không được phép mua 
bán tự do trên thị trường như các chứng khoán bị 
NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅI
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN66 Số 143 - tháng 9/2019
hạn chế chuyển nhượng theo quy định của pháp 
luật; cổ phiếu quỹ thì không được lập dự phòng 
giảm giá.
Các tổ chức đăng ký hoạt động kinh doanh 
chứng khoán như các công ty chứng khoán, công 
ty quản lý quỹ được thành lập và hoạt động theo 
quy định của Luật Chứng khoán, việc trích lập dự 
phòng giảm giá chứng khoán thực hiện theo quy 
định riêng.
- Mức trích lập dự phòng giảm giá đầu tư chứng 
khoán được xác định dựa vào giá thị trường của 
chứng khoán và tính theo công thức sau:
Mức dự phòng 
giảm giá đầu tư 
chứng khoán
=
Số lượng chứng khoán bị 
giảm giá tại thời điểm lập 
báo cáo tài chính
X
Giá chứng khoán 
hạch toán trên sổ 
kế toán
-
Giá chứng 
khoán thực tế 
trên thị trường
Giá thị trường của chứng khoán được xác định 
trong các trường hợp như sau:
+ Đối với chứng khoán đã niêm yết: Giá chứng 
khoán thực tế trên thị trường được tính theo giá 
thực tế trên các Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội 
(HNX) là giá giao dịch bình quân tại ngày trích lập 
dự phòng; Sở Giao dịch Chứng khoán Thành phố 
Hồ Chí Minh (HOSE) là giá đóng cửa tại ngày trích 
lập dự phòng.
+ Đối với các loại chứng khoán chưa niêm yết 
trên thị trường chứng khoán, giá chứng khoán thực 
tế trên thị trường được xác định như sau:
> Đối với các Công ty đã đăng ký giao dịch trên 
thị trường giao dịch của các công ty đại chúng chưa 
niêm yết (UPCom) thì giá chứng khoán thực tế 
trên thị trường được xác định là giá giao dịch bình 
quân trên hệ thống tại ngày lập dự phòng. 
> Đối với các Công ty chưa đăng ký giao dịch ở 
thị trường giao dịch của các công ty đại chúng thì 
giá chứng khoán thực tế trên thị trường được xác 
định là giá trung bình trên cơ sở giá giao dịch được 
cung cấp tối thiểu bởi ba (03) công ty chứng khoán 
tại thời điểm lập dự phòng.
Trường hợp không thể xác định được giá 
trị thị trường của chứng khoán thì các doanh 
nghiệp không được trích lập dự phòng giảm giá 
chứng khoán.
+ Đối với những chứng khoán niêm yết bị hủy 
giao dịch, ngừng giao dịch kể từ ngày giao dịch thứ 
sáu trở đi là giá trị sổ sách tại ngày lập bảng cân đối 
kế toán gần nhất.
Hạch toán dự phòng:
Trường hợp phải trích lập thêm:
Nợ Tài khoản chi dự phòng giảm giá chứng khoán
Có Tài khoản dự phòng giảm giá chứng khoán 
Trường hợp hoàn nhập dự phòng:
Nợ Tài khoản dự phòng giảm giả chứng khoán
Có Tài khoản chi dự phòng giảm giá chứng khoán 
Dừng ghi nhận: Nếu IAS 39 có những quy định 
tương đối chi tiết về việc dừng ghi nhận thì các 
hướng dẫn hiện hành của Việt Nam hầu như chỉ 
đề cập đến việc dừng ghi nhận khi thanh lý hoặc 
nhượng bán. Trong đó, chênh lệch giữa số tiền thực 
thu (giá bán trừ chi phí giao dịch, nếu có) với giá trị 
ghi sổ được hạch toán:
Trường hợp chênh lệch dương (có lãi):
Nợ: Tài khoản thích hợp (tiền mặt, tiền gửi, 
trung gian...): Số tiền thực thu 
Có: Tài khoản thu về kinh doanh chứng khoán: 
Số chênh lệch thừa
Có: Tài khoản chứng khoán kinh doanh: Giá 
ghi sổ (giá gốc)
Trường hợp chênh lệch âm (bị lỗ):
Nợ: Tài khoản thích hợp (tiền mặt, tiền gửi, 
trung gian...): Số tiền thực thu 
Nợ: Tài khoản chi về kinh doanh chứng khoán: 
Số chênh lệch thiếu
Có: Tài khoản Chứng khoán kinh doanh: Giá 
ghi sổ (giá gốc)
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 67Số 143 - tháng 9/2019
2. Thực tế kế toán chứng khoán kinh doanh 
tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
Liên quan đến thực tế áp dụng tại các ngân hàng 
hiện nay, thông qua khảo sát các Báo cáo tài chính 
hợp nhất đã kiểm toán của các ngân hàng để nghiên 
cứu các chính sách kế toán ngân hàng công bố về 
việc ghi nhận chứng khoán kinh doanh. Việc khảo 
sát được thực hiện trên 31 ngân hàng thương mại 
trong tổng số 35 ngân hàng thương mại của Việt 
Nam (loại trừ 3 ngân hàng là Ngân hàng thương 
mại cổ phần Đại Dương, Ngân hàng thương mại 
cổ phần Xây dựng, Ngân hàng thương mại cổ phần 
Dầu khí Toàn cầu được Ngân hàng Nhà nước mua 
lại với giá 0 đồng và Ngân hàng thương mại cổ 
phần Đông á hiện đang vướng vào các vụ bê bối 
đang được đưa ra xét xử, không công bố báo cáo tài 
chính trong vài năm trở lại đây). Trong tổng số 31 
ngân hàng khảo sát có 9 ngân hàng không có các 
khoản đầu tư vào chứng khoán kinh doanh, 1 ngân 
hàng là Ngân hàng Nam á chỉ công bố Bảng cân 
đối kế toán, Báo cáo kết quả kinh doanh và Báo cáo 
Lưu chuyển tiền tệ mà không công bố Thuyết minh 
Báo cáo tài chính. Như vậy, qua khảo sát chính 
sách kế toán đối với chứng khoán kinh doanh tại 
21 ngân hàng tác giả tóm tắt được các chính sách 
ghi nhận như sau: 
Ghi nhận ban đầu
21/21 ngân hàng (100%) ghi nhận ban đầu các 
khoản chứng khoán kinh doanh theo giá gốc.
Trong quá trình nắm giữ
21/21 ngân hàng (100%) ghi nhận các khoản 
chứng khoán kinh doanh theo giá gốc trừ trường 
hợp có suy giảm giá trị tài sản.
Ghi nhận lãi từ chứng khoán nợ phân loại vào 
nhóm chứng khoán kinh doanh:
+ 4/21 (19%) ngân hàng không công bố chính 
sách ghi nhận lãi phát sinh từ chứng khoán nợ 
thuộc nhóm chứng khoán kinh doanh.
+ 16/21 (76%) ngân hàng ghi nhận lãi phát sinh 
từ chứng khoán nợ thuộc nhóm chứng khoán kinh 
doanh khi thu được tiền (thực thu).
+ 1/21 (5%) ngân hàng ghi nhận lãi phát sinh 
từ chứng khoán nợ thuộc nhóm chứng khoán kinh 
doanh theo dự thu.
Ghi nhận cổ tức từ chứng khoán vốn phân loại 
vào nhóm chứng khoán kinh doanh:
+12/21 (57%) ngân hàng ghi nhận cổ tức phát 
sinh từ chứng khoán vốn theo thực thu.
+ 6/21 (28%) ngân hàng không công bố chính 
sách ghi nhận cổ tức phát sinh từ chứng khoán vốn 
thuộc nhóm chứng khoán kinh doanh.
+ 2/21 (10%) ngân hàng không có chứng khoán 
vốn thuộc chứng khoán kinh doanh.
+ 1/21 (5%) ngân hàng ghi nhận cổ tức từ 
chứng khoán vốn thuộc chứng khoán kinh doanh 
theo dự thu.
Giảm giá trị:
Đối với chứng khoán nợ: 21/21 (100%) ngân 
hàng công bố rằng căn cứ trích lập đầu tiên là dựa 
vào giá thị trường của chứng khoán, trong đó 15/21 
(71%) ngân hàng công bố nếu không xác định được 
giá thị trường (tức là chứng khoán không niêm yết) 
thì sẽ lập dự phòng rủi ro tín dụng được quy định 
bởi Thông tư 02 và 09, 3/21 ngân hàng công bố nếu 
không xác định được giá thị trường thì không trích 
lập dự phòng và khoản đầu tư được trình bày theo 
giá gốc, còn lại 3/21 ngân hàng thì không nói rõ 
nếu không xác định được giá thị trường thì có trích 
lập dự phòng không, nếu có thì căn cứ vào tiêu chí 
nào để trích. 
Đối với chứng khoán vốn: 
+ 2/21 (10%) ngân hàng không có chứng khoán 
vốn thuộc chứng khoán kinh doanh.
+ 4/21 (20%) ngân hàng không công bố nếu 
không xác định được giá thị trường thì có trích lập 
dự phòng hay không
+ 15/21 (70%) ngân hàng công bố rõ nếu không 
xác định được giá thị trường thì không trích lập 
dự phòng.
NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅI
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN68 Số 143 - tháng 9/2019
3. Tồn tại và kiến nghị
Như vậy, có thể nhận thấy kế toán chứng khoán 
kinh doanh tại các Ngân hàng thương mại tồn tại 
một số vấn đề sau:
- Việc ghi nhận lãi và cổ tức phát sinh từ chứng 
khoán nợ và chứng khoán vốn đang được phân loại 
vào mục chứng khoán kinh doanh còn nhiều sai 
sót. Một số ngân hàng công bố rằng ghi nhận lãi 
phát sinh từ chứng khoán nợ theo dự thu. Điều này 
đi ngược lại các quy định hiện hành về ghi nhận lãi 
phát sinh từ chứng khoán nợ thuộc nhóm chứng 
khoán kinh doanh. Một số khác lại ghi nhận cả lãi 
và cổ tức phát sinh từ chứng khoán nợ và chứng 
khoán vốn theo thực thu. Điều này cũng không 
đúng vì cả IFRS và Việt Nam đều quy định cổ tức 
được ghi nhận khi quyền pháp lý về cổ tức được 
thiết lập. Một số Ngân hàng khác thậm chí không 
công bố chính sách ghi nhận lãi và cổ tức từ chứng 
khoán kinh doanh. 
- Giảm giá trị chứng khoán kinh doanh và lập 
dự phòng: Qua khảo sát chúng ta có thể nhận thấy 
việc xác định và trích lập dự phòng đối với chứng 
khoán kinh doanh còn chưa có sự nhất quán: 
+ Đối với chứng khoán nợ, một số ngân hàng 
coi giá thị trường là căn cứ đầu tiên, nếu không xác 
định được giá thị trường (trái phiếu chưa niêm yết) 
thì sẽ coi đây là một khoản cho vay và trích lập dự 
phòng rủi ro tín dụng theo quy định của Thông tư 
02 và Thông tư 09; một số ngân hàng khác công bố 
không trích lập dự phòng nếu không xác định được 
giá thị trường, còn một số khác không công bố rõ 
có trích lập dự phòng hay không và nếu có thì cơ 
sở trích lập là gì. 
+ Đối với chứng khoán vốn: một số ngân 
hàng công bố nếu không xác định được giá thị 
trường thì sẽ không trích lập dự phòng và một 
số ngân hàng khác thì không công bố rõ có trích 
lập dự phòng hay không và nếu có thì cơ sở trích 
lập là gì.
Từ các tồn tại như trên, tác giả xin đưa ra một 
số kiến nghị như sau:
Đối với việc ghi nhận lãi và cổ tức phát sinh từ 
chứng khoán nợ và chứng khoán vốn 
Đề nghị các ngân hàng thương mại nhất quán 
ghi nhận lãi phát sinh từ chứng khoán nợ khi thu 
được tiền (nguyên tắc thực thu) và ghi nhận cổ tức 
từ chứng khoán vốn khi thu tiền hoặc khi quyền 
pháp lý đối với cổ tức được xác nhận (nguyên tắc 
cơ sở dồn tích) theo đúng quy định hiện hành của 
cả Việt Nam và quốc tế. Lý do của việc ghi nhận 
trên là vì đối với chứng khoán nợ, ghi nhận thu 
nhập bằng cách dự thu đối với lãi phát sinh mà 
chưa thu được là không cần thiết vì đây là chứng 
khoán kinh doanh, mua vào với mục đích bán ra 
trong ngắn hạn nên rất có thể chứng khoán sẽ được 
bán trước khi đến kỳ thu lãi, do vậy có thể không 
thu được lãi đã dự thu. Còn đối với chứng khoán 
vốn, khi quyền pháp lý về nhận cổ tức đã được xác 
lập thì dù chủ sở hữu có bán cổ phiếu đi thì vẫn 
có quyền nhận cổ tức. Do vậy, ghi nhận khoản thu 
nhập tương ứng với phải thu khi quyền nhận cổ tức 
được xác lập là hoàn toàn hợp lý.
Tuy nhiên, nếu chỉ ghi nhận lãi của chứng 
khoán nợ theo thực thu mà vẫn giữ nguyên các quy 
định khác như ghi nhận các khoản chứng khoán 
kinh doanh theo giá gốc kèm theo trích lập dự 
phòng khi giá thị trường thấp hơn giá trị ghi sổ 
thì việc ghi nhận thu nhập lãi phát sinh từ chứng 
khoán nợ thuộc nhóm chứng khoán kinh doanh 
theo thực thu như hiện nay lại trở nên không hợp 
lý. Bởi thoạt nhìn thì việc ghi nhận này khá tương 
đồng với IFRS vì IFRS cũng áp dụng nguyên tắc 
thực thu để ghi nhận thu nhập lãi từ chứng khoán 
nợ thuộc nhóm chứng khoán kinh doanh. Tuy 
nhiên, nếu phân tích kỹ hơn sẽ nhận thấy sự khác 
biệt giữa Việt Nam và IFRS dù cùng áp dụng thực 
thu. IFRS chỉ ghi nhận thu nhập lãi khi đã thu được 
bằng tiền chứ không ghi nhận thu nhập lãi dự thu 
khi đến kỳ là bởi: Chứng khoán kinh doanh là loại 
nắm giữ để bán trong ngắn hạn nên có thể chứng 
khoán này sẽ được bán trước khi kỳ thu lãi, vậy 
nên việc ghi nhận một khoản dự thu là không cần 
thiết. Và việc không ghi nhận lãi dự thu như vậy sẽ 
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 69Số 143 - tháng 9/2019
không làm phản ánh thiếu một khoản thu nhập từ 
chứng khoán kinh doanh vì đến cuối kỳ khi lập báo 
cáo tài chính, chứng khoán kinh doanh được đánh 
giá theo giá trị hợp lý, số lãi phát sinh nhưng chưa 
thu được sẽ tác động tới giá trị hợp lý của chứng 
khoán và được ghi nhận vào thu nhập khi đánh giá 
chứng khoán theo giá trị hợp lý. Việt Nam không 
dự thu trong khi không điều chỉnh theo giá trị hợp 
lý trong trường hợp chứng khoán tăng giá thì tại 
thời điểm lập báo cáo tài chính không phản ánh hết 
lợi ích (thu nhập) của người nắm giữ chứng khoán 
cũng như giá trị của chứng khoán.
Vì thế, Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước 
nên tiến tới áp dụng nguyên tắc hạch toán theo giá 
trị hợp lý thay vì giá gốc đối với chứng khoán kinh 
doanh, đặc biệt là đối với các chứng khoán đã niêm 
yết. Lý do là vì việc chỉ thực hiện ghi nhận khi giảm 
giá trị đối với chứng khoán kinh doanh mà không 
điều chỉnh khi chứng khoán tăng giá là quá thận 
trọng, chưa phản ánh đúng giá trị thực của công 
cụ này. Nhất là trong lộ trình bắt buộc các ngân 
hàng thương mại áp dụng Chuẩn mực quốc tế để 
lập và trình bày báo cáo tài chính trong 5-7 năm tới 
đây thì việc áp dụng sớm quy định điều chỉnh các 
chứng khoán nắm giữ để bán theo giá trị hợp lý là 
việc nên làm. Khi đó, những thay đổi về giá trị hợp 
lý được ghi nhận là lãi hay lỗ trên báo cáo kết quả 
kinh doanh:
Nợ/Có: Tài khoản Chứng khoán kinh doanh
Nợ/Có: Tài khoản Thu/Chi về kinh doanh 
chứng khoán 
Đối với việc giảm giá trị và lập dự phòng chứng 
khoán kinh doanh 
Việc áp dụng một cách thiếu nhất quán các quy 
định về xác định giảm giá trị và lập dự phòng đối với 
chứng khoán kinh doanh tại các ngân hàng thương 
mại Việt Nam hiện nay như đã chỉ ra ở phần 2 một 
phần xuất phát từ việc thiếu các hướng dẫn đồng 
bộ và logic của các quy định pháp lý hiện hành. 
Một trong số đó là Việt Nam hiện tại vẫn chưa ban 
hành chuẩn mực kế toán về suy giảm giá trị dẫn tới 
thiếu đi một định nghĩa thế nào là suy giảm giá trị. 
Các văn bản pháp quy về trích lập dự phòng hiện 
tại là thông tư 228 và 89 hầu như chỉ đề cập đến 
căn cứ để trích lập dự phòng theo giá thị trường. 
Như vậy, đây thực chất là dự phòng giảm giá chứ 
chưa đúng nghĩa là giảm giá trị. Bởi giá thị trường, 
theo quy định của thông tư 228, được xác định chủ 
yếu thông qua giá niêm yết trên thị trường chứng 
khoán hay sàn UpCom hoặc được cung cấp bởi 3 
công ty chứng khoán và trong nhiều trường hợp 
giá này không phản ánh một cách đầy đủ và hợp lý 
giá trị của chứng khoán. Điều này một phần cũng 
bởi Việt Nam chưa ban hành chuẩn mực kế toán về 
giá trị hợp lý. Chính những bất cập và thiếu đồng 
bộ trong quy định hiện hành đã dẫn tới việc mỗi 
ngân hàng lại có một cách làm khác nhau theo cách 
hiểu của riêng mình. Vì vậy, Việt Nam cần sớm bán 
hành các chuẩn mực về suy giảm giá trị hay tổn 
thất tài sản, chuẩn mực giá trị hợp lý và các chuẩn 
mực về công cụ tài chính. Từ đó, việc hạch toán 
các chứng khoán nắm giữ để bán hay chứng khoán 
kinh doanh sẽ được thực hiện theo xu thế chung 
của quốc tế là theo giá trị hợp lý. IFRS không đưa ra 
khái niệm giảm giá trị riêng cho chứng khoán kinh 
doanh. Bất kỳ sự suy giảm giá trị nào đều được thể 
hiện vào giá trị hợp lý của chứng khoán, và do đó 
đã được phản ánh vào các báo cáo tài chính thông 
qua việc phản ánh các chứng khoán theo giá trị 
hợp lý.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Thông tư 200/2014/TT-BTC về chế độ kế 
toán doanh nghiệp;
2. Thông tư 228/2009/TT-BTC và Thông tư 
89/2013/TT-BTC về trích lập dự phòng;
3. Công văn 7459/NHNN-KTTC về hướng 
dẫn hạch toán nghiệp vụ kinh doanh, đầu 
tư chứng khoán;
4. IAS 39: Công cụ tài chính - Ghi nhận và Đo 
lường;
5. IFRS9: Công cụ tài chính.

File đính kèm:

  • pdfke_toan_dau_tu_chung_khoan_kinh_doanh_tai_cac_ngan_hang_thuo.pdf