Huy động nguồn lực tài chính phục vụ cơ cấu lại nền kinh tế

Cơ cấu lại tổng thể và đồng bộ nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng là chiến lược lớn của

Đảng và Nhà nước Việt Nam. Để thực hiện thành công chiến lược này, cần huy động nguồn lực tài chính

đa dạng từ nhiều lĩnh vực và liên quan đến nhiều chủ thể khác nhau trong nền kinh tế. Dựa trên việc

phân tích thực trạng huy động nguồn lực tài chính trên một số phương diện khác nhau, bài viết đề xuất

một số hàm ý chính sách nhằm phát huy nguồn lực tài chính phục vụ cho chiến lược trên

pdf 4 trang phuongnguyen 260
Bạn đang xem tài liệu "Huy động nguồn lực tài chính phục vụ cơ cấu lại nền kinh tế", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Huy động nguồn lực tài chính phục vụ cơ cấu lại nền kinh tế

Huy động nguồn lực tài chính phục vụ cơ cấu lại nền kinh tế
6CƠ CẤU LẠI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC, BẢO ĐẢM NỀN TÀI CHÍNH QUỐC GIA AN TOÀN, BỀN VỮNG
Giai đoạn 2011 – 2016, quy mô thu ngân sách có 
sự tăng mạnh gấp khoảng 2 lần so với giai đoạn 2006 
– 2010, bình quân đạt xấp xỉ 23,4% GDP. Cơ cấu huy 
động cho NSNN từ thị trường nội địa gia tăng từ 
mức 58,9% giai đoạn 2006 – 2010 lên 67,8% giai đoạn 
2011 – 2016 và riêng năm 2016 đạt 79,8% (vượt mục 
tiêu 70% của giai đoạn 2011 – 2015). Bên cạnh đó, 
tính đến tháng 12/2016, tổng số tiền thu được từ bán 
tài sản trên đất, chuyển nhượng quyền sử dụng đất 
và chuyển mục đích sử dụng đất của các bộ, ngành, 
tập đoàn, tổng công ty nhà nước và các địa phương 
trên phạm vi cả nước là trên 50 nghìn tỷ đồng.
Đến cuối năm 2016, so với GDP, nợ công là 63,7%, 
trong đó nợ Chính phủ là 52,6% và nợ nước ngoài 
của quốc gia là 43,1%. Cơ cấu nợ công đến cuối năm 
2015 bao gồm nợ Chính phủ chiếm 80,8%, nợ được 
Chính phủ bảo lãnh chiếm 17,8% và nợ chính quyền 
địa phương chiếm 1,4%. Trong cơ cấu nợ Chính phủ, 
tỷ trọng nợ trong nước tăng từ 39% năm 2011 lên 
57% năm 2015 và nợ nước ngoài giảm từ 61% năm 
2011 xuống 43% năm 2015. 
Thứ hai, huy động nguồn tài chính thông qua cổ phần 
hóa và thoái vốn từ doanh nghiệp nhà nước (DNNN) đạt 
được nhiều kết quả khích lệ.
Trong giai đoạn 2011 – 2015, cả nước đã cổ phần 
hóa (CPH) 508 DNNN với tổng giá trị thực tế DN là 
760.774 tỷ đồng, trong đó giá trị thực tế phần vốn nhà 
nước là 188.274 tỷ đồng. Trong năm 2016 đã có 56 DN 
được cấp có thẩm quyền phê duyệt phương án CPH. 
Tổng giá trị thực tế của 56 DN đã được phê duyệt 
phương án CPH là 34.017 tỷ đồng, trong đó giá trị 
thực tế phần vốn nhà nước tại DN là 24.390 tỷ đồng.
Các tập đoàn, tổng công ty nhà nước đã thực hiện 
thoái vốn đầu tư vào 5 lĩnh vực nhạ̣y cảm được 11.036 
tỷ đồng, thu về 10.742 tỷ đồng. Tổng công ty Đầu tư và 
Một số kết quả nổi bật trong huy động 
nguồn lực tài chính phục vụ cơ cấu lại nền kinh tế
Cơ cấu lại tổng thể và đồng bộ nền kinh tế gắn 
với đổi mới mô hình tăng trưởng ở Việt Nam là một 
quá trình phức tạp, lâu dài và có nhiều nội dung gắn 
bó mật thiết với nhau. Để thực hiện chiến lược tái 
cơ cấu tổng thể và đồng bộ nền kinh tế gắn với đổi 
mới mô hình tăng trưởng, nguồn lực tài chính được 
huy động từ nhiều nguồn khác nhau và đã đạt được 
nhiều kết quả tích cực.
Thứ nhất, huy động thông qua ngân sách nhà nước 
(NSNN) đã phục vụ trực tiếp cho cơ cấu lại nền kinh tế 
gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng.
HUY ĐỘNG NGUỒN LỰC TÀI CHÍNH 
PHỤC VỤ CƠ CẤU LẠI NỀN KINH TẾ
PGS,. TS. BÙI VĂN HUYỀN, TS. ĐỖ TẤT CƯỜNG - Viện Kinh tế (Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh); Email: dotatcuong@gmail.com
Cơ cấu lại tổng thể và đồng bộ nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng là chiến lược lớn của 
Đảng và Nhà nước Việt Nam. Để thực hiện thành công chiến lược này, cần huy động nguồn lực tài chính 
đa dạng từ nhiều lĩnh vực và liên quan đến nhiều chủ thể khác nhau trong nền kinh tế. Dựa trên việc 
phân tích thực trạng huy động nguồn lực tài chính trên một số phương diện khác nhau, bài viết đề xuất 
một số hàm ý chính sách nhằm phát huy nguồn lực tài chính phục vụ cho chiến lược trên.
Từ khóa: Tài chính, kinh tế, tăng trưởng, ngân sách nhà nước, mô hình tăng trưởng
Comprehensive and consistent restructure 
of national economy in association with 
renovation of growth model is the most 
strategic development content of National 
Party and State of Vietnam. To ensure success, 
it is vital to mobilize effectively the diversified 
financial resources from different entities. On 
the basis of financial mobilization practices, 
the paper recommends policy implications to 
enhance the efficiency of this process.
Keywords: Finance, economics, growth, state budget, 
growth model
Ngày nhận bài: 6/9/2017
Ngày hoàn thiện biên tập: 27/9/2017 
Ngày duyệt đăng: 29/9/2017
TÀI CHÍNH - Tháng 10/2017
7
Kinh doanh vốn nhà nước (SCIC) đã bán vốn tại 411 
DN, với doanh thu bán vốn đạt 8.726 tỷ đồng, giá vốn 
3.595 tỷ đồng, thặng dư bán vốn hơn 5.130 tỷ đồng, 
gấp 2,4 lần giá trị sổ sách. Trong năm 2016, các đơn 
vị đã thoái được 5.149 tỷ đồng, thu về 18.832 tỷ đồng. 
Tính đến tháng 6/2017, cả nước đã thực hiện bán phần 
vốn nhà nước không cần nắm giữ tại 22 DN với tổng 
giá trị theo sổ sách là 666,8 tỷ đồng (bằng 76,5% so 
với cùng kỳ năm 2016), thu về 11.589,3 tỷ đồng (bằng 
314,11% so với cùng kỳ năm 2016). 
Thứ ba, huy động nguồn tài chính thông qua đa dạng 
hóa các kênh tài chính khác nhau để phục vụ cho hoạt động 
đầu tư công.
Giai đoạn 2011- 2015, thị trường vốn đã huy động 
được hơn 1.211 nghìn tỷ đồng, gấp gần 4 lần giai 
đoạn 2006 - 2010, đóng góp bình quân 23% vào tổng 
đầu tư toàn xã hội. Khối lượng vốn huy động được 
cho NSNN thông qua phát hành trái phiếu chính 
phủ tăng mạnh, đạt khoảng một triệu tỷ đồng (gấp 
13 lần so với giai đoạn 2005- 2010). Thị trường trái 
phiếu DN huy động được hơn 211 nghìn tỷ đồng 
thông qua công tác CPH. Theo báo cáo của Uỷ ban 
Chứng khoán Nhà nước, mức vốn hóa thị trường 
cổ phiếu tích điểm đến tháng 3/2017 tương đương 
57,4% GDP. 
Trong cơ cấu vốn đầu tư công giai đoạn 2011 – 
2016, vốn đầu tư từ NSNN vẫn chiếm tỷ trọng cao 
nhất (46,3%), tiếp đến là vốn vay (từ trái phiếu và 
nguồn khác) đạt 38,03%, còn nguồn vốn từ DNNN 
và nguồn khác đạt 15,61%. 
Thứ tư, huy động nguồn tài chính thông qua các 
thành phần kinh tế.
Tổng số vốn đầu tư huy động được trong giai 
đoạn 2011 – 2016 là 5.601,9 tỷ đồng, trong đó vốn từ 
kinh tế nhà nước là 2.171,4 tỷ đồng (chiếm 38,8%), 
vốn từ kinh tế ngoài nhà nước nội địa là 2.152,6 tỷ 
đồng (chiếm 38,4%), vốn từ khu vực có vốn đầu tư 
nước ngoài là 1.277,9 tỷ đồng (chiếm 22,8%).
Tốc độ tăng trưởng huy động vốn bình quân từ 
khu vực có vốn đầu tư nước ngoài thấp nhất trong 
giai đoạn 2011 – 2016 ở mức 3,75%/năm, trong khi 
tốc độ tăng trưởng huy động vốn bình quân của kinh 
tế nhà nước là 5,26%/năm và khu vực kinh tế ngoài 
nhà nước nội địa là 6,89%/năm. Vào năm 2011, khu 
vực có vốn đầu tư nước ngoài rút vốn đầu tư ra khỏi 
Việt Nam khá mạnh nên tốc độ tăng trưởng vốn của 
khu vực này trong hai năm 2011 và 2012 đều âm. 
Điều này cho thấy, những rủi ro khi lệ thuộc vào 
nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
Những hạn chế và nguyên nhân 
Bên cạnh những kết quả đạt được trên, vấn đề 
huy động nguồn lực tài chính phục vụ cơ cấu lại nền 
kinh tế cũng còn những hạn chế:
Thứ nhất, tốc độ tái cơ cấu thị trường tài chính (TTTC) 
chưa được như mong muốn.
Khả năng huy động nguồn lực tài chính phụ 
thuộc rất lớn tới mức độ trưởng thành và linh hoạt 
của TTTC. Quá trình tái cơ cấu TTTC của Việt Nam 
trong giai đoạn vừa qua còn nhiều tồn tại như sự 
thay đổi về cơ cấu thị trường diễn ra chậm chạp, 
vai trò của thị trường vốn chưa đủ lớn, nhiều yếu 
kém có tính hệ thống và dài hạn của các tổ chức 
tín dụng (TCTD) chưa được giải quyết cơ bản, đặc 
biệt là vấn đề nợ xấu, sở hữu chéo và quản trị ngân 
hàng nhiều rủi ro; chưa xử lý dứt điểm một số ngân 
hàng thương mại (NHTM) rất yếu kém, đã có dấu 
hiệu phá sản.
Thứ hai, vai trò của thị trường vốn như là một kênh 
huy động nguồn lực tài chính chưa thực sự rõ nét.
Quy mô thị trường chứng khoán tuy đã có sự 
tăng trưởng nhanh nhưng vẫn chưa tương xứng 
tiềm năng và chưa trở thành kênh cấp vốn quan 
trọng nhất cho khu vực DN. Về quy mô thị trường, 
đến cuối năm 2015, dư nợ tín dụng thị trường trái 
phiếu đạt khoảng 24,1% GDP, quy mô vốn hóa thị 
trường chứng khoán đạt khoảng 35% GDP (thấp 
hơn so với mục tiêu 50% đặt ra tại Chiến lược phát 
triển thị trường vốn). 
Thứ ba, những tồn tại trong hệ thống ngân hàng hiện 
vẫn đang là lực cản đến việc huy động nguồn lực tài chính.
Nợ xấu trong hệ thống ngân hàng vẫn còn cao, 
chưa được xử lý dứt điểm làm cho lãi suất cho vay 
vẫn cao và tiềm ẩn nhiều rủi ro đối với an toàn, hiệu 
quả hoạt động của các TCTD. Các NHTM gặp khó 
khăn trong việc tăng vốn điều lệ, nâng cao năng lực 
tài chính do việc tăng vốn của các ngân hàng chủ 
yếu từ nguồn cổ tức. Lãi suất cho vay trong thời 
gian từ 2012 đến nay có xu hướng giảm nhưng vẫn 
ở mức cao so với lạm phát và mức lãi suất của nhóm 
nước ASEAN-4. 
Thứ tư, năng lực của các TCTD mặc dù đã được chú 
trọng nhưng chưa được thực sự nâng cao rõ rệt.
Theo số liệu của Tạp chí The Banker, mức tăng 
Giai đoạn 2011- 2015, thị trường vốn huy 
động được hơn 1.211 nghìn tỷ đồng, gấp gần 
4 lần giai đoạn 2006 - 2010, đóng góp bình 
quân 23% vào tổng đầu tư toàn xã hội. Khối 
lượng vốn huy động cho NSNN thông qua 
phát hành trái phiếu chính phủ tăng mạnh, 
đạt khoảng một triệu tỷ đồng (gấp 13 lần so 
với giai đoạn 2005- 2010). 
8CƠ CẤU LẠI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC, BẢO ĐẢM NỀN TÀI CHÍNH QUỐC GIA AN TOÀN, BỀN VỮNG
vốn cấp 1 của các ngân hàng Việt Nam chỉ đạt 
mức 4,54% trong năm 2016, thấp nhất trong các 
quốc gia Đông Nam Á. Nguyên nhân chính của 
tình trạng này là do: (i) Thiếu những chỉ số và lộ 
trình cụ thể cho việc định hướng giảm số lượng 
ngân hàng và nâng cao năng lực tài chính của hệ 
thống này; (ii) Áp lực tăng vốn của hệ thống các 
NHTM chưa cao; (iii) Khả năng tăng vốn của các 
NHTM thông qua các nhà đầu tư chưa cao; (iv) 
Các chỉ tiêu tối thiểu về an toàn vốn chưa nhiều; 
(v) Các nhà đầu tư nước ngoài còn dè dặt khi cân 
nhắc việc đặt chân vào miền đất của các ngân 
hàng thương mại nhà nước. Năng lực của các 
TCTD chưa được nâng cao rõ rệt đã ảnh hưởng 
tới việc huy động vốn cho cơ cấu lại nền kinh tế 
gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng.
Thứ năm, huy động nguồn lực tài chính thông qua 
NSNN còn chưa bền vững.
Cơ sở của nguồn thu cho NSNN phụ thuộc vào 
mức độ phát triển của nền kinh tế và việc mở rộng 
cơ sở thuế, các khoản phí, lệ phí một cách hợp lý. 
Việc xác định cơ sở thuế đối với từng sắc thuế rất 
quan trọng vì cơ sở thuế ảnh hưởng tới sự bền vững 
của các sắc thuế. 
Có thể chỉ ra các nguyên nhân dẫn đến những 
hạn chế, tồn tại nêu trên gồm:
Một là, thể chế pháp lý để tái cơ cấu TTTC chưa 
được xây dựng kịp thời đã hạn chế tốc độ tái cơ 
cấu TTTC và ảnh hưởng đến việc huy động nguồn 
lực tài chính.
Đối với một thị trường quan trọng như TTTC 
trong nền kinh tế thị trường thì việc tái cơ cấu TTTC 
cần được thể chế hóa một cách hoàn chỉnh nhằm có 
căn cứ pháp lý để triển khai các công việc trong thực 
tế. TTTC nói riêng và các cơ chế huy động nguồn lực 
tài chính cũng cần được quản lý chặt chẽ bởi mức 
độ nhạy cảm và vai trò của nó đối với nền kinh tế. 
Trong điều kiện một TTTC mới được hình thành và 
phát triển như ở nước ta thì việc thận trọng trong thể 
chế hóa việc tái cơ cấu TTTC và cơ chế huy động vốn 
là điều rất cần thiết.
Hai là, thị trường vốn của nước ta vẫn dựa 
chủ yếu vào hệ thống NHTM mà chưa phát triển 
nhiều và đồng bộ các kênh huy động nguồn lực 
tài chính khác.
Sự tham gia của các định chế tài chính phi ngân 
hàng còn tương đối hạn chế. Việc phân bổ vốn theo 
ngành và theo thành phần kinh tế còn chậm thay 
đổi, chưa đáp ứng được mục tiêu đặt ra. Thị trường 
chứng khoán, thị trường trái phiếu chính phủ, thị 
trường trái phiếu DN và thị trường bảo hiểm còn 
chưa được phát triển toàn diện và đồng bộ; Thị 
trường chứng khoán phái sinh mới được hình thành 
và đưa vào hoạt động chưa lâu.
Ba là, việc xử lý nợ xấu, các biện pháp phòng 
ngừa nợ xấu phát sinh chưa được triển khai toàn 
diện và đồng bộ.
Hai nguyên nhân chính mà giới chuyên gia tài 
chính nước ta xác định cho vấn đề nợ xấu của hệ 
thống ngân hàng bao gồm: (i) Các TCTD không 
thể chủ động xử lý tài sản đảm bảo khi vay vốn; 
(ii) Việt Nam chưa có thị trường mua bán nợ đúng 
nghĩa. Bên cạnh đó, sự bấp bênh của tăng trưởng 
kinh tế và thị trường bất động sản bị đóng băng 
trong thời gian qua làm cho nhiệm vụ xử lý nợ 
xấu tiếp tục là nhiệm vụ khó khăn nhất trong tái 
cơ cấu ngân hàng.
Bốn là, việc nâng cao năng lực tài chính của các 
TCTD bị hạn chế bởi khả năng huy động vốn cho các 
TCTD từ các tổ chức trong và ngoài nước.
Trong điều kiện nền kinh tế còn gặp nhiều khó 
khăn thì việc huy động từ các tổ chức kinh tế trong 
nền kinh tế thị trường với tư cách là trung tâm thanh 
toán cũng bị hạn chế. Chức năng thanh toán trong 
nền kinh tế của các TCTD sẽ bị ảnh hưởng khi các 
quan hệ kinh tế giữa các tổ chức kinh tế nội địa và 
giữa nội địa với quốc tế bị giảm đi. Bên cạnh đó, các 
quan hệ thương mại nếu bị giảm đi thì các khoản 
thanh toán giữa các bên như các khoản phải thu, 
phải trả qua ngân hàng cũng giảm theo. Điều đó dẫn 
tới khả năng huy động vốn cho ngân hàng cũng bị 
ảnh hưởng.
Năm là, việc duy trì và mở rộng cơ sở cho nguồn 
thu của NSNN bị hạn chế bởi tốc độ tăng trưởng của 
nền kinh tế.
Cơ sở thu của NSNN ảnh hưởng lớn tới nguồn 
thu của NSNN. Số lượng các DN đóng thuế cho 
NSNN giảm đi sẽ ảnh hưởng tới nguồn thu từ 
cơ sở này. Số lượng hàng hóa tiêu thụ trên thị 
trường giảm đi do sức mua của người dân giảm 
đi cũng ảnh hưởng tới tổng số thuế thu được từ 
thuế giá trị gia tăng. Số lượng phương tiện vận tải 
lưu thông trên đường giảm đi sẽ ảnh hưởng tới 
các khoản lệ phí thu được. Nguồn thu của chính 
quyền trung ương và địa phương cũng bị suy 
giảm bởi các hoạt động kinh tế ở cấp Trung ương 
và địa phương bị suy giảm. 
Một số hàm ý chính sách đối với việc 
huy động nguồn lực tài chính ở Việt Nam hiện nay
Để phát huy các kết quả đạt được, vượt qua các 
khó khăn nhằm tăng cường huy động nguồn lực tài 
chính phục vụ cho chiến lược tái cơ cấu tổng thể và 
đồng bộ nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng 
TÀI CHÍNH - Tháng 10/2017
9
trưởng ở Việt Nam hiện nay, các giải pháp cần tập 
trung thực hiện bao gồm: 
Thứ nhất, hoàn thiện thể chế pháp lý nhằm gia tăng 
tốc độ tái cơ cấu TTTC.
Chính phủ cần tiếp tục nghiên cứu và xây dựng 
các thể chế pháp lý hoặc các định chế để hỗ trợ quá 
trình tái cơ cấu TTTC, trong đó đặc biệt chú trọng 
đến quyền sở hữu tài sản. Việc quy định rõ quyền 
sở hữu tài sản cũng là một trong những giải pháp 
cơ bản để thúc đẩy quá trình tái cơ cấu TTTC do các 
nhà đầu tư nước ngoài hoặc khu vực tư nhân trong 
nước có thể sẽ yên tâm hơn trong việc bỏ vốn vào 
lĩnh vực tài chính. 
Thứ hai, mở rộng khả năng huy động vốn thông qua 
thị trường vốn.
Thị trường vốn không nên chỉ dựa vào hệ thống 
NHTM mà nên được hình thành đồng bộ. Thị trường 
trái phiếu DN và chính phủ, thị trường chứng khoán 
phái sinh, thị trường mua bán nợ, thị trường bất động 
sản là những kênh huy động nguồn lực tài chính 
khác nhau. Hiện nay, thị trường tài nguyên và đất 
đai cần được hoàn thiện để gia tăng khả năng thu 
hút nguồn lực tài chính thông qua thị trường này. 
Trong một nền kinh tế đa dạng như nước ta hiện 
nay, Chính phủ nên tạo dựng cơ chế để việc huy 
động nguồn lực tài chính được đa dạng hóa từ nhiều 
nguồn khác nhau (Budish, Che, Kojima, & Milgrom, 
2013; Hurwicz, 1973). 
Thứ ba, tiếp tục đẩy mạnh việc xử lý nợ xấu trong hệ 
thống NHTM và tăng cường các biện pháp phòng ngừa 
nợ xấu phát sinh.
Cần nghiên cứu và xây dựng khuôn khổ pháp 
lý cho hoạt động chứng khoán hóa các khoản nợ 
để góp phần tạo dựng cơ sở pháp lý cho việc thực 
hiện các giao dịch trên thị trường chứng khoán và 
chuyển đổi các khoản nợ xấu thành chứng khoán để 
giao dịch công khai, minh bạch vào những thời điểm 
thích hợp. Bên cạnh đó, Chính phủ cần có những chỉ 
đạo, hướng dẫn và hỗ trợ Công ty Quản lý tài sản 
của các TCTD Việt Nam (VAMC) và các TCTD trong 
quá trình thi hành bản án, quyết định của Tòa án về 
xử lý tài sản bảo đảm. 
Thứ tư, nâng cao năng lực tài chính của các TCTD.
Nâng cao năng lực tài chính của các TCTD là một 
yêu cầu bắt buộc khi Việt Nam phải triển khai thực 
hiện theo Basel II trong năm 2017. Trong điều kiện 
hiện nay, khả năng huy động vốn sẽ phụ thuộc vào 
năng lực tài chính của các TCTD nên hàm ý chính 
sách là tập trung nâng cao năng lực tài chính của các 
TCTD trước. Các cơ quan nhà nước có liên quan cần 
tập trung triển khai mạnh mẽ và triệt để Đề án “Cơ 
cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai 
đoạn 2016 – 2020” theo Quyết định số 1058/QĐ-TTg 
ngày 19/7/2017 của Thủ tướng Chính phủ.
Thứ năm, duy trì và mở rộng cơ sở cho nguồn thu của 
NSNN thông qua thực hiện các giải pháp gia tăng tốc độ 
tăng trưởng của nền kinh tế.
Ở Việt Nam, thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt 
còn tương đối thấp đối với một số mặt hàng không 
khuyến khích tiêu dùng như thuốc lá, rượu, bia... 
Việc từng bước mở rộng phạm vi áp dụng và tăng 
thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt đối với một số mặt 
hàng lựa chọn sẽ đem lại tác động tích cực đối với 
ngân sách, thay đổi thói quen của người tiêu dùng 
theo hướng giảm tiêu dùng các mặt hàng không có 
lợi cho sức khỏe và môi trường.
Chính phủ cần mở rộng cơ sở thu thuế thu nhập 
DN và rà soát các hình thức ưu đãi thuế để điều chỉnh 
hợp lý các quy định ưu đãi thuế, tránh ưu đãi không 
phù hợp, dàn trải, gây lãng phí nguồn lực Cần xây 
dựng chính sách thuế tài sản thống nhất, từng bước 
đưa thuế tài sản trở thành một trong những nguồn 
thu quan trọng và ổn định cho NSNN và nâng cao 
động lực sử dụng đất đai và tài sản hiệu quả hơn.
Cùng với đó, tiếp tục triển khai các hoạt động quản 
lý thuế dựa trên thông tin minh bạch và áp dụng kiểm 
tra dựa trên rủi ro. Các biện pháp này không chỉ giúp 
tăng cường hiệu suất và hiệu quả quản lý thuế để tối 
đa hóa số thu mà còn giảm được chi phí tuân thủ cho 
người nộp thuế và cải thiện môi trường kinh doanh 
một cách căn bản. Báo cáo “Chẩn đoán tăng trưởng 
kinh tế Việt Nam” của Ban Kinh tế Trung ương và 
Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID) cũng 
khuyến nghị, cần tiếp tục cải cách các quy định chính 
sách, pháp luật thuế theo hướng ổn định, có tính dự 
đoán cao, minh bạch, rõ ràng và dễ thực hiện. 
Tài liệu tham khảo:
1. Ban Kinh tế Trung ương, & USAID (2017). Chẩn đoán tăng trưởng kinh tế Việt 
Nam. Retrieved from Hà Nội; 
2. Linh, Lan (2016). Soi sức khỏe 10 ngân hàng áp dụng Basel II. http://
vietnambiz.vn/soi-suc-khoe-10-ngan-hang-ap-dung-basel-ii-8891.html; 
3. Bankers, The (2017). Top 1000 World Banks 2016. 
com/Top-1000-World-Banks/The-Banker-Top-1000-World-Banks-2016-
ranking-WORLD-Press-IMMEDIATE-REALEASE; 
4. Budish, Eric, Che, Yeon-Koo, Kojima, Fuhito, & Milgrom, Paul (2013). 
Designing random allocation mechanisms: Theory and applications. The 
American Economic Review, 103(2), 585-623;
5. Hurwicz, Leonid (1973). The design of mechanisms for resource allocation. 
The American Economic Review, 63(2), 1-30;
6. Pagano, Marco (1993). Financial markets and growth: an overview. European 
economic review, 37(2-3), 613-622; 
7. Rousseau, Peter L, & Wachtel, Paul (2017). Financial Systems and Economic 
Growth: Cambridge University Press.

File đính kèm:

  • pdfhuy_dong_nguon_luc_tai_chinh_phuc_vu_co_cau_lai_nen_kinh_te.pdf