Hướng tới nền kinh tế xanh ở Việt Nam-cơ hội và thách thức

TÓM TẮT

Kinh tế xanh là “nền kinh tế nâng cao đ̀i

sống c̉a con ngừi và cải thiện công bằng

xã hội, đ̀ng th̀i giảm thỉu những r̉i ro môi

trừng và những thiếu hụt sinh thái” [6]. Chuỷn

đổi phương thức phát trỉn – Hứng t́i phát

trỉn “Kinh tế xanh” ở Việt Nam là hứng tiếp

cận ḿi, có nhiều khó khăn, thách thức song xét

về dài hạn đây là hứng tiếp cận phù hợp v́i xu

thế phát trỉn chung c̉a nền kinh tế toàn cầu

pdf 8 trang phuongnguyen 6980
Bạn đang xem tài liệu "Hướng tới nền kinh tế xanh ở Việt Nam-cơ hội và thách thức", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Hướng tới nền kinh tế xanh ở Việt Nam-cơ hội và thách thức

Hướng tới nền kinh tế xanh ở Việt Nam-cơ hội và thách thức
87
Hướng tới nền kinh tế xanh . . .
HƯỚNG TỚI NỀN KINH TẾ XANH Ở VIỆT NAM 
– CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC
TOWARDS A GREEN ECONOMY IN VIETNAM 
- OPPORTUNITY AND CHALLENGE
Đỗ Thị Hoa Liên(*) 
TÓM TẮT
Kinh tế xanh là “nền kinh tế nâng cao đ̀i 
sống c̉a con ngừi và cải thiện công bằng 
xã hội, đ̀ng th̀i giảm thỉu những r̉i ro môi 
trừng và những thiếu hụt sinh thái” [6]. Chuỷn 
đổi phương thức phát trỉn – Hứng t́i phát 
trỉn “Kinh tế xanh” ở Việt Nam là hứng tiếp 
cận ḿi, có nhiều khó khĕn, thách thức song xét 
về dài hạn đây là hứng tiếp cận phù hợp v́i xu 
thế phát trỉn chung c̉a nền kinh tế toàn cầu.
Từ khóa: Kinh tế xanh, kinh tế xanh ở Việt 
Nam, hướng tới nền kinh tế xanh.
ABSTRACT
The green economy as “one that results in 
improved human well being and social equity, 
while signiicantly reducing environmental risks 
and ecological scarcities”. The newapproach 
for the economy development based on “Green 
economy” in Vietnam is deinitely neccessary for 
the time being and the future. However, this new 
kind of model faces dificulties and challenges, 
yet it is suitable for the global development.
Keywords: Green economy, green economy 
in Vietnam, towards a green economy. 
1. KINH TẾ XANH VÀ SỰ CẦN THIẾT 
PHÁT TRIỂN 
Việt Nam đang xây dựng nền kinh tế theo 
hướng thúc đẩy phát triển kinh tế xanh cùng với 
các nước trong khu vực và trên thế giới. Ngày 
25 tháng 09 nĕm 2013, Chính phủ đã thông qua 
Quyết định số 1393/QĐ-TTg phê duyệt Chiến 
lược quốc gia về Tĕng trưởng xanh. Đồng thời, 
trong thời gian qua các hoạt động nội hàm có 
liên quan đến kinh tế xanh đã và đang được 
triển khai ở Việt Nam cũng như các nước trên 
thế giới như “kinh tế Cac bon thấp”, “giảm thiểu 
và thích ứng với biến đổi khí hậu”, “tĕng trưởng 
xanh”, “công nghệ xanh”, “việc làm xanh”. 
Định hướng chuyển đổi sang nền kinh tế xanh ở 
nước ta được đặt trong bối cảnh quốc tế có nhiều 
diễn biến phức tạp: Khủng hoảng tài chính; nợ 
công châu Âu; biến đổi khí hậu toàn cầu... Tuy 
nhiên, không chỉ do tác động của bối cảnh quốc 
tế mà do nội tại nền kinh tế Việt Nam đòi hỏi 
phải chuyển đổi mô hình tĕng trưởng. Nền kinh 
tế Việt Nam thời gian qua tĕng trưởng chủ yếu 
dựa vào khai thác tài nguyên với hiệu quả sử 
dụng thấp, phát thải lớn, do đó, phát triển kinh 
tế xanh sẽ là phương án lựa chọn tối ưu cho sự 
phát triển bền vững và xóa đói, giảm nghèo ở 
Việt Nam. 
Theo Chương trình Môi trường của Liên hợp 
quốc, nền kinh tế xanh là “nền kinh tế nâng cao 
đ̀i sống c̉a con ngừi và cải thiện công bằng 
xã hội, đ̀ng th̀i giảm thỉu những r̉i ro môi 
trừng và những thiếu hụt sinh thái” [6]. Như 
vây, kinh tế xanh là nền kinh tế (i) thân thiện với 
môi trường, giảm phát thải khí nhà kính; (ii) tĕng 
trưởng theo chiều sâu, tiêu hao ít tài nguyên, tĕng 
cường sử dụng tài nguyên tái tạo, tĕng cường các 
ngành công nghiệp sinh thái, và đổi mới công 
nghệ; (iii) tĕng trưởng bền vững, xóa đói giảm 
nghèo và phát triển công bằng [1]. Kinh tế xanh 
không chỉ là sự lồng ghép vấn đề môi trường 
trong phát triển kinh tế, mà nó đề cập đến cả phát 
triển cân bằng, hài hòa giữa các mục tiêu. 
(*) TS. GV. Khoa Quản trị kinh doanh, trừng Đại ḥc Lao động - Xã hội
88
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
2. KHẢ NĔNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ 
XANH CỦA VIỆT NAM
Dưới đây sẽ phân tích môi trường kinh tế 
- xã hội của Việt Nam (những thuận lợi, khó 
khĕn, cơ hội và thách thức) để nhận định khả 
nĕng thành công của Việt Nam trong quá trình 
chuyển đổi sang nền kinh tế xanh: 
2.1. Thuận lợi
- Bước đầu đã hình thành khung thể chế 
cho phát triển kinh tế xanh: Aghion, Hemous 
& Veugelers (2009) cho rằng không thể có tĕng 
trưởng xanh nếu không có cải tiến và sự can 
thiệp của Chính phủ [4]. Nhà nước và khung 
khổ pháp luật có thể tạo ra sự thúc đẩy hoặc kìm 
hãm quá trình phát triển nền kinh tế xanh. Trong 
thực tiễn, một sự phân bổ hiệu quả các nguồn 
lực và kết quả đầu ra sẽ khó đạt được nếu không 
có sự can thiệp của Chính phủ. Chất lượng tĕng 
trưởng của ngành kinh tế sẽ được duy trì trong 
dài hạn ở một quốc gia hay địa phương có thể 
chế và quy định minh bạch, rõ ràng, tính thực thi 
của hệ thống pháp luật cao. Chính phủ Việt Nam 
thể hiện rõ quan điểm và cam kết của mình trong 
việc thực hiện chuyển đổi mô hình tĕng trưởng 
theo hướng tĕng trưởng xanh. Khung thể chế 
cho phát triển kinh tế xanh đã bước đầu được 
hình thành từ việc ban hành Luật đến các Chiến 
lược và Chương trình hành động cụ thể: Tiếp 
tục định hướng phát triển bền vững; Chiến lược 
Tĕng trưởng xanh; Luật Sử dụng nĕng lượng 
tiết kiệm và hiệu quả; Chiến lược quốc gia về 
sản xuất sạch hơn trong công nghiệp; Chương 
trình phát triển nhiên liệu sinh học; Nội dung 
các hoạt động thuộc kế hoạch hành động tĕng 
trưởng xanh; Đề án tổng thể tái cơ cấu kinh tế 
gắn với chuyển đổi mô hình tĕng trưởng theo 
hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả. 
- Nền kinh tế với tốc độ tĕng trưởng khá 
trong nhiều nĕm qua: Việt Nam đã trải qua 
nhiều nĕm đổi mới, thu được những thành tựu 
kinh tế - xã hội quan trọng. Đặc biệt, sự tĕng 
trưởng công nghiệp liên tục trong những nĕm 
qua tạo ra nội lực bên trong cho một xu thế phát 
triển mới của nền kinh tế.
Hình 01: Tĕng trưởng c̉a nền kinh tế
Nguồn: Tổng Cục thống kê Việt Nam 2005- 2014
Công nghiệp là ngành phát thải nhiều nhất 
trong các ngành kinh tế, tuy nhiên những nĕm 
gần đây, ngành đã phát triển theo chiều hướng 
công nghiệp khai khoáng tĕng thấp hoặc giảm 
để tiết kiệm tài nguyên, nĕng lượng. Ngành 
công nghiệp chế biến, chế tạo và công nghiệp 
sản xuất, phân phối điện, khí đốt tĕng nhanh 
hơn, cùng với việc ngành công nghiệp xử lý 
nước thải, rác thải và tái chế phế liệu tĕng với 
tốc độ cao (hình 02), phản ánh xu hướng tiến 
đến một nền công nghiệp sạch hơn và một nền 
kinh tế xanh trong tương lai.
Hình 02: Chỉ số phát trỉn các ngành công nghiệp
Nguồn: Tổng Cục Thống kê 2005-2014
Đã tiếp nhận chuyển giao và phát triển 
khoa học, công nghệ: Những tiến bộ nhanh 
chóng vượt bậc của khoa học công nghệ cho 
phép khai thác và sử dụng tiết kiệm, hợp lý hơn 
89
Hướng tới nền kinh tế xanh . . .
các nguồn tài nguyên. Đồng thời, công nghệ 
hiện đại giúp tận dụng nhiều loại tài nguyên 
trước đây còn bỏ phí trong hoạt động sản xuất 
công nghiệp, giảm mức tiêu dùng nguyên vật 
liệu, giảm lượng chất thải vào môi trường. Do 
đó, khai thác những mặt tích cực của khoa học 
công nghệ là hướng lựa chọn quan trọng trong 
phát triển kinh tế xanh.
Hội nhập sâu, rộng vào nền kinh tế thế giới, 
Việt Nam sẽ có cơ hội thuận lợi trong tiếp nhận 
chuyển giao và phát triển nĕng lực khoa học và 
công nghệ để phát huy các lợi thế của đất nước 
nhằm phát triển nền kinh tế xanh. Nhiều doanh 
nghiệp FDI đã mang công nghệ hiện đại vào Việt 
Nam và nếu Việt Nam có chính sách phù hợp sẽ 
khiến các tập đoàn này đầu tư công nghệ cao và 
góp phần nâng cao nĕng lực công nghệ của đất 
nước, kết nối với mạng sản xuất toàn cầu. Mặt 
khác, trình độ công nghệ của Việt Nam đang có 
sự cải thiện đáng kể nhờ lợi thế của nước đi sau, 
có thể tiếp thu chọn lọc những thành tựu khoa 
học và các quy trình công nghệ phù hợp trên thế 
giới về phát triển kinh tế xanh, tránh lặp lại kịch 
bản của nhiều nước đi trước.
Nguồn nhân lực đã qua đào tạo chiếm tỷ 
lệ cao: George, Paschalis & Sotiris (2007) cho 
rằng chất lượng nguồn nhân lực tác động đến 
tĕng trưởng kinh tế và nguồn nhân lực có chất 
lượng cao có vai trò quan trọng hơn cả [5]. 
Hình 03: Tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên 
đang làm việc trong nền kinh tế đã qua đào tạo 
phân theo tr̀nh độ chuyên môn kỹ thuật
Nguồn: Tổng Cục thống kê Việt Nam 2009-2014
Ở Việt Nam giai đoạn (2009 - 2014), tỷ lệ 
lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong 
nền kinh tế đã qua đào tạo chiếm tỷ lệ khá cao 
(hình 03), có khả nĕng tiếp thu khoa học nhanh, 
bí quyết công nghệ và kỹ nĕng quản lý để phát 
triển thành nguồn nhân lực chất lượng cao gắn 
với khoa học công nghệ hiện đại. Đây sẽ là 
nguồn nhân lực chủ yếu của phát triển kinh tế 
xanh, nếu được tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng 
và trọng dụng hiệu quả, sẽ là động lực tạo đột 
phá trong phát triển kinh tế xanh.
2.2 Khó khĕn
Hình 04: Hệ số ICOR t́nh theo vốn đầu tư 
Nguồn: T́nh toán c̉a tác giả từ ngùn số 
liệu c̉a Tổng cục Thống kê
Chất lượng tĕng trưởng kinh tế thấp: 
Những thành tựu phát triển kinh tế của đất nước 
thời gian qua chủ yếu dựa vào sự đóng góp 
của nguồn nhân lực chất lượng thấp, vốn và tài 
nguyên thiên nhiên, do đó, hiệu quả đầu tư thấp 
(hệ số ICOR rất cao – hình 04). Trong khi đó, 
Huang & Quibria (2013) cho rằng việc khai thác 
tài nguyên thiên nhiên làm chậm đáng kể quá 
trình thực hiện tĕng trưởng xanh [8].
90
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
Bảng 01: Sản lượng khai thác một số loại tài nguyên quan tṛng ở Việt Nam
Đơn vị t́nh: Ngh̀n tấn
TT Tài nguyên 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014
1 Than sạch 38.778 42.483 39.777 44.078 44.835 46.611 42.083 41.035 41.697
2 Dầu thô 16.800 15.920 14.904 16.360 15.014 15.185 16.739 16.705 17.392
3
Sắt và tinh quặng 
sắt - - 1.372 1.904,5 1.972 1.988 1.506 2.435 2.308,2
4
Đồng và tinh 
quặng đồng - - 46,07 51,741 49,04 47,55 50,86 53,35 48.072
5 Quặng Titan 437,4 574,1 681,6 631,3 586,8 760 978,3 1038,3 929,4
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Như vậy, trong giai đoạn (2006-2014), sản 
lượng khai thác một số tài nguyên quan trọng của 
đất nước không ngừng tĕng lên (bảng 01). Sự 
tĕng lên khá đều đặn này cũng phản ánh thực tế là 
tĕng trưởng kinh tế của đất nước cho đến nay còn 
dựa nhiều vào tài nguyên và gắn liền với nó là 
sức ép ngày càng tĕng đối với môi trường (lượng 
kh́ thải CO
2
 tĕng nhanh hơn nhiều so v́i tĕng 
trưởng GDP trong cùng th̀i kỳ - h̀nh 05). 
Hình 05: Tĕng trưởng GDP và các chỉ số tuyệt 
đối về ô nhiễm không kh́ (1990=1)
Nguồn: UNESCAP và CIEM, 2009
Hình 06: Cừng độ phát thải CO
2 
so v́i GDP- 
So sánh Việt Nam v́i một số nức
Nguồn: UNESCAP và CIEM, 2009
Cường độ phát thải CO2 so với GDP của Việt Nam là rất cao (hình 06 ), cao hơn mức trung 
bình của châu Á. Do đó việc khai thác và sử 
dụng có hiệu quả tài nguyên cần được đặt ra như 
một yêu cầu nghiêm ngặt ngay trong giai đoạn 
đầu của quá trình công nghiệp hóa nhằm hướng 
tới nền kinh tế xanh. Tuy nhiên, nền kinh tế Việt 
Nam đang trong quá trình phát triển nên rất khó 
cắt giảm tiêu nhiên liệu, nguyên liệu. 
Trình độ công nghệ thấp: Thực hiện 
chương trình đổi mới công nghệ quốc gia đến 
nĕm 2020 theo Quyết định số 677/QĐ-TTg 
ngày 10/5/2011 của Thủ tướng Chính phủ, các 
doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất liên tục đầu tư 
đổi mới công nghệ, sử dụng công nghệ hiện đại, 
ít gây ô nhiễm môi trường và đã đạt được những 
thành tựu nhất định, nhưng nhìn chung nĕng lực 
91
Hướng tới nền kinh tế xanh . . .
công nghệ của các ngành, nghề hiện nay ở Việt 
Nam còn lạc hậu. Theo thống kê của Bộ Khoa 
học công nghệ, hiện chỉ có khoảng 5-6% doanh 
nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài sử 
dụng công nghệ tiên tiến, 80% sử dụng công 
nghệ trung bình, còn lại là các công nghệ lạc 
hậu [11]. So với các nước khác trong khu vực, 
cơ cấu công nghiệp của Việt Nam chưa có độ 
tinh xảo về công nghệ. Tỷ trọng các ngành sử 
dụng công nghệ trung bình và cao trong tổng 
giá trị gia tĕng của hoạt động chế tạo chỉ khoảng 
trên 20% và không thay đổi trong những nĕm 
gần đây [9]. Chuyển giao công nghệ ít có những 
biến đổi về trình độ và nĕng lực công nghệ. Phần 
lớn các nhà đầu tư nước ngoài vẫn đầu tư vào 
Việt Nam ở những ngành, nghề thâm dụng lao 
động và tài nguyên.
Cơ sở hạ tầng mềm cho kinh tế xanh chưa 
phát triển: Hạ tầng kiểm soát và quản lý ô 
nhiễm với công nghệ và phương pháp lạc hậu; 
vấn đề đo lường quá trình chuyển sang nền kinh 
tế xanh cần được đổi mới; đánh giá phát thải khí 
nhà kính chưa có cơ sở. 
2.3. Cơ hội
- Xu hướng quốc tế đang chuyển đổi sang 
nền kinh tế xanh: Sau khủng hoảng tài chính 
toàn cầu nĕm 2008, tĕng trưởng xanh hay kinh 
tế xanh đang trở thành mối quan tâm hàng đầu 
của tất cả các quốc gia, như một động lực thúc 
đẩy, phục hồi kinh tế toàn cầu và là công cụ 
để phát triển bền vững. Tại Châu Á, “diễn đàn 
khí hậu Đông Á” nĕm 2009 đã trao đổi về việc 
thiết lập các chiến lược tĕng trưởng xanh của 
Đông Á; Hội nghị thượng đỉnh ASEAN – Hàn 
Quốc (2009) cũng bày tỏ sự đồng thuận cao đối 
với chính sách tĕng trưởng xanh mà chính phủ 
Hàn Quốc đưa ra; Tại Hội nghị cấp cao Á – Âu 
(ASEM), Việt Nam đã chính thức đề xuất sáng 
kiến hợp tác Á – Âu về tĕng trưởng xanh (2010); 
Diễn đàn Hợp tác Á – Âu với chủ đề “ Cùng hành 
động hướng tới các nền kinh tế xanh” (2011) để 
tìm các cơ chế hợp tác và chia sẻ kinh nghiệm 
phát triển xanh giữa các nước; Diễn đàn tĕng 
trưởng xanh toàn cầu (2011) tại Đan Mạch với 
mục tiêu thúc đẩy tĕng trưởng xanh thông qua 
cơ chế phối hợp công – tư giữa các chính phủ 
với khối doanh nghiệp. Rõ ràng, với một mức 
độ quan tâm cao thể hiện qua một loạt các hội 
nghị, diễn đàn ở các cấp độ quốc tế khác nhau 
được tổ chức trong những nĕm gần đây cho thấy 
xu hướng nhận thức chung của cộng đồng quốc 
tế trong quá trình hội nhập hiện nay đều đồng 
thuận là phải thúc đẩy tĕng trưởng xanh, kinh tế 
xanh. Do đó, Việt Nam cũng sẽ đón nhận được 
sự ủng hộ và giúp đỡ của các quốc gia và các 
tổ chức quốc tế trong nỗ lực chung nhằm giảm 
thiểu và thích ứng với biến đổi khí hậu trên cơ 
sở hướng tới nền kinh tế xanh. Hơn nữa, thực 
tế là tĕng trưởng xanh ở các quốc gia phát triển 
như Đức, Đan Mạch, Hàn Quốcđã thu được 
những kết quả rõ ràng trong tĕng trưởng kinh tế, 
bảo vệ môi trường và giảm phát thải. Đồng thời, 
các sáng kiến được các cơ quan Liên hợp quốc 
thúc đẩy hướng tới nền kinh tế xanh như: Đầu 
tư công nghệ sạch (WB); Việc làm xanh (ILO); 
Thị trường công nghệ xanh (WIPO); Tiêu chuẩn 
công nghệ thông tin xanh (ITU); Giải pháp 
nĕng lượng xanh (UN WTO); Sản xuất sạch 
hơn và hiệu quả sử dụng tài nguyên (UNEP và 
UNIDO) đang thu được nhiều kết quả tốt đẹp, 
sẽ là cơ sở, nền tảng cho nền kinh tế Việt Nam 
theo hướng xanh hóa.
- Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 
giai đoạn 2011 - 2020 đã nêu rõ “Tĕng trưởng 
kinh tế phải kết hợp hài hòa với phát triển vĕn 
hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, 
không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống. 
Phát triển kinh tế - xã hội phải luôn coi trọng 
bảo vệ và cải thiện chất lượng môi trường, chủ 
động ứng phó với biến đổi khí hậu”. Như vậy, 
phát triển kinh tế xanh là phù hợp với Chiến 
lược dài hạn của Việt Nam và định hướng phát 
triển bền vững nói chung.
- Việt Nam có tiềm nĕng to lớn về nĕng 
lượng tái tạo: Huang & Quibria (2013) cho 
rằng nĕng lượng tái tạo tác động tích cực đến 
92
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
tĕng trưởng xanh [8]. Bởi vì, sử dụng nguồn 
nĕng lượng tái tạo sẽ góp phần giảm lượng phát 
thải khí nhà kính, làm chậm lại quá trình nóng 
lên toàn cầu, giúp tĕng hiệu suất sử dụng nĕng 
lượng đồng thời mở ra cơ hội phát triển mới cho 
nhiều địa phương. Do đó, việc xem xét, khai 
thác nguồn nĕng lượng tái tạo trong giai đoạn 
tới sẽ có ý nghĩa hết sức quan trọng cả về kinh 
tế, xã hội, an ninh nĕng lượng và bảo vệ môi 
trường trong bối cảnh nhu cầu nĕng lượng của 
Việt Nam ngày một gia tĕng, trong khi khả nĕng 
cung cấp các nguồn nĕng lượng truyền thống 
hạn chế. Việt Nam là quốc gia có tiềm nĕng to 
lớn về nĕng lượng tái tạo:
+ Nĕng lượng gió: Theo Đề án “ Quy hoạch 
tiềm nĕng nĕng lượng gió để phát điện” của Tập 
đoàn Điện lực Việt Nam, tổng tiềm nĕng kỹ 
thuật nĕng lượng gió của Việt Nam vào khoảng 
1.785 MW [3].
+ Nĕng lượng mặt trời: Việt Nam nằm trong 
vùng nhiệt đới gió mùa, do đó có nguồn nĕng 
lượng mặt trời khá dồi dào và thuận tiện cho 
việc ứng dụng, cường độ bức xạ bình quân nĕm 
là 1346,8 – 2153,5 kWh/m2/nĕm [3].
2.4. Thách thức 
- Nhận thức về kinh tế xanh: Nhận thức về 
kinh tế xanh là gì và nội hàm của nó bao gồm 
những nội dung nào còn là vấn đề tranh cãi. Bởi 
vì, thực tế, các ngành dường như đã đi ngược 
với những tuyên bố về tĕng trưởng xanh, khi mà 
trong quy hoạch, trong phát triển dựa vào sử dụng 
nĕng lượng, nguyên liệu hóa thạch còn nhiều.
Sản xuất sạch hơn chưa thực sự thành 
công: Kết quả khảo sát về sản xuất sạch hơn ở 
Việt Nam của Hợp phần sản xuất sạch hơn trong 
Công nghiệp (CPI) nĕm 2015 với 63 sở công 
thương và 9012 doanh nghiệp sản xuất công 
nghiệp trên toàn quốc thì tỷ lệ doanh nghiệp áp 
dụng sản xuất sạch hơn giảm được tiêu thụ nĕng 
lượng, nguyên nhiên liệu trên một đơn vị sản 
phẩm mới chỉ là 24%, số này chủ yếu do sự hỗ 
trợ của dự án, đây là con số quá nhỏ so với số 
lượng doanh nghiệp hiện có ở Việt Nam. Nĕng 
lực quản trị doanh nghiệp về môi trường thể 
hiện qua số lượng các công ty được nhận chứng 
chỉ ISO 14001 còn quá ít [10]. 
Huy động vốn cho nền kinh tế xanh gặp 
nhiều khó khĕn: Mặc dù Việt Nam đã thoát khỏi 
ngưỡng của nước nghèo nhưng tích lũy quốc 
gia so với các nước phát triển còn quá thấp, điều 
này ảnh hưởng nhiều đến quá trình chuyển sang 
nền kinh tế xanh. Bởi vì, theo Huang & Quibria 
(2013) cho rằng đầu tư tư nhân, đầu tư chính 
phủ về khoa học, công nghệ tác động tích cực 
đến tĕng trưởng xanh [8]. Để thực hiện phát 
triển kinh tế xanh Việt Nam cần các khoản đầu 
tư lớn để đổi mới công nghệ, đầu tư để phát triển 
nĕng lượng tái tạo, đầu tư cho phát triển nguồn 
nhân lực chất lượng cao, đầu tư cho hệ thống 
xử lý chất thải còn lại. Theo kết quả của UNEP 
(2011), mô hình kịch bản đầu tư xanh với số vốn 
khoảng 2% GDP toàn cầu, nguồn vốn này, nếu 
huy động từ các nước đang phát triển như Việt 
Nam là điều không dễ dàng.
Thách thức từ sự hợp tác quốc tế kém hiệu 
quả: Để giảm phát thải khí nhà kính, bảo vệ môi 
trường, đây không phải là công việc riêng của 
một địa phương hay quốc gia nào, vì vậy, để xử 
lý vấn đề có tính thách thức toàn cầu này đòi hỏi 
sự chung tay hành động của cả thế giới, trong khi 
đó, sẽ có những quốc gia ít thiện chí khi thực hiện 
cam kết toàn cầu, nên sẽ phá vỡ mục tiêu chống 
biến đổi khí hậu và phát triển xanh.
3. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NỀN 
KINH TẾ XANH 
Qua phân tích thuận lợi, khó khĕn, điểm 
mạnh, điểm yếu đối với Việt Nam trong phát 
triển kinh tế xanh, rõ ràng Việt Nam còn nhiều 
khó khĕn và thách thức của nước đang phát triển. 
Vì vậy, việc chuyển đổi sang nền kinh tế xanh 
khó có thể tiến hành nhanh nếu Việt Nam không 
có những bước đi đúng đắn trong từng giai đoạn 
phát triển, cũng như phải có sự chuyển hướng hài 
hòa nếu không Việt Nam sẽ gặp những vấn đề xã 
hội do sự chuyển đổi này gây ra. Để chuyển đổi 
sang nền kinh tế xanh, Việt Nam cần:
93
Hướng tới nền kinh tế xanh . . .
3.1 Thiết lập khung khổ thể chế phù hợp: 
Cơ chế, chính sách được thiết kế phù hợp có thể 
xác định quyền và tạo động lực định hướng cho 
hoạt động kinh tế xanh, cũng như loại bỏ rào cản 
đối với các khoản đầu tư xanh và điều tiết những 
hành vi thiếu bền vững bằng cách tạo ra các tiêu 
chuẩn tối thiểu hoặc ngĕn cấm hoàn toàn một 
số hoạt động. Cơ chế, chính sách cần tập trung 
vào tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện “xanh 
hóa các ngành truyền thống”, mặc dù việc xanh 
hóa các ngành truyền thống có vẻ không nhanh 
chóng và mang tính cách mạng so với sự phát 
triển của những công nghệ tiên tiến nhất, nhưng 
với tiềm lực tài chính hiện tại, sự đầu tư vào việc 
sử dụng hiệu quả nĕng lượng sẽ đem lại hiệu quả 
về mặt chi phí-lợi ích. Mặt khác phát triển những 
ngành kinh tế xanh mới nổi, những ngành công 
nghệ cao, công nghệ xanh, ngành nĕng lượng 
tái tạo sẽ kích thích tạo ra nền kinh tế cacbon 
thấp, giảm sử dụng tài nguyên, tĕng sản lượng 
hàng hóa và đẩy mạnh xuất khẩu. Đặc biệt, rà 
soát, điều chỉnh quy hoạch các ngành sản xuất, 
hạn chế những ngành kinh tế phát sinh chất thải 
lớn, gây ô nhiễm, suy thoái môi trường, tạo điều 
kiện phát triển các ngành sản xuất xanh mới.
3.2. Tập trung đầu tư nghiên cứu, phát 
triển và ứng dụng công nghệ xanh, công nghệ 
hiện đại, công nghệ tiết kiệm tài nguyên:
- Thực hiện chuyển giao công nghệ một cách 
hiệu quả: Chuyển giao công nghệ theo hướng 
là các tập đoàn đa quốc gia cung cấp cho các 
doanh nghiệp trong nước những công nghệ mới 
với nỗ lực nâng cao nĕng suất trong chuỗi sản 
xuất; hỗ trợ kỹ thuật, đào tạo. 
- Tập trung đầu tư, nghiên cứu, phát triển 
và ứng dụng công nghệ hiện đại, công nghệ sử 
dụng tiết kiệm và hiệu quả nguyên vật liệu, nĕng 
lượng vào các hoạt động sản xuất thông qua: 
+ Khởi động các chương trình dự báo thực 
trạng công nghệ nhằm nâng cao nhận thức về 
những điểm yếu trong công nghệ của các ngành 
và tạo sự đồng thuận giữa các ngành, các cơ sở 
nghiên cứu và bộ máy quản lý về các giải pháp 
để khắc phục những điểm yếu đó.
+ Hình thành và phát triển hệ thống các cơ 
quan nghiên cứu, đào tạo, tư vấn, dịch vụ khoa 
học và công nghệ phục vụ phát triển theo hướng 
xanh (Nghiên cứu, ban hành hệ thống các chỉ số, 
tiêu chí, tiêu chuẩn về công nghệ xanh)
+ Khuyến khích kết nối giữa các doanh 
nghiệp và các phòng thí nghiệm R & D, các 
trường đại học, viện nghiên cứu để ứng dụng 
kết quả nghiên cứu.
+ Tĕng cường đầu tư, trợ cấp cho hoạt động 
R & D tại các doanh nghiệp
- Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ hiện đại, 
công nghệ xanh nhằm tạo sự đột phá về công 
nghệ trong sản xuất đối với những ngành chủ 
lực, mũi nhọn của quốc gia.
3.3. Tĕng cường áp dụng các công cụ 
tài chính: để tĕng nguồn tài chính cho thực 
hiện các mục tiêu phát triển kinh tế xanh. Các 
công cụ kinh tế như thuế tài nguyên; thuế 
môi trường; ký quỹ môi trường; phí phát thải 
ô nhiễm. So với công cụ quản lý môi trường 
truyền thống kiểu mệnh lệnh - kiểm soát, thuế 
và phí cho phép đạt được mục tiêu giảm thiểu 
ô nhiễm đề ra một cách linh hoạt hơn và tiết 
kiệm chi phí hơn cho toàn xã hội. Thuế, lệ phí 
có thể là cơ chế hiệu quả để thúc đẩy kinh tế 
xanh phát triển, các loại thuế có thể được đặt 
ra trên đầu vào sản xuất, quy trình hoặc các 
sản phẩm để khuyến khích các nhà sản xuất và 
người tiêu dùng xem xét các chi phí môi trường 
và xã hội, và tiền thu từ thuế tài nguyên, môi 
trường này được sử dụng để thúc đẩy phát triển 
nĕng lượng tái tạo. Tuy nhiên, trên thực tế công 
cụ này đã được sử dụng song chưa hiệu quả, do 
đó để việc áp dụng thuế và phí tài nguyên, môi 
trường đạt được hiệu quả cao hơn trong điều 
kiện Việt Nam hiện nay nên đặt phí, thuế ở một 
mức thấp trong thời gian đầu, sau đó sẽ tiếp tục 
tĕng lên cho tới khi mức độ ô nhiễm giảm tới 
điểm các doanh nghiệp, các cơ sở kiểm soát 
được mức độ ô nhiễm.
Hơn nữa, trong bối cảnh toàn cầu hóa và xu 
thế hội nhập mạnh mẽ hiện nay, Việt Nam cần:
94
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
- Tĕng cường quản trị quốc tế thông qua 
việc tham gia các hiệp định đa phương về môi 
trường để thiết lập khuôn khổ pháp lý và thể chế 
giải quyết những thách thức môi trường toàn 
cầu; tham gia vào hệ thống giao dịch quốc tế, 
đàm phán quốc tế về kinh tế xanh giúp thúc đẩy 
sự gắn kết và hợp tác trong quá trình xanh hóa 
các nền kinh tế. 
- Tiếp tục nghiên cứu, học tập và hoàn thiện 
cách thức tiến hành kinh tế xanh của các quốc gia 
phát triển đã xây dựng nền kinh tế xanh như Đức, 
Đan Mạch, Hàn Quốcđể có bước đi và cách 
tiến hành phù hợp trong điều kiện của Việt Nam.
- Chú trọng tiếp cận những kiến thức xanh và 
công nghệ xanh của cộng đồng khoa học thế giới.
- Tranh thủ sự hỗ trợ về tài chính cũng như 
kỹ thuật từ cộng đồng quốc tế cho các khu vực 
kinh tế xanh. Đặc biệt, là nguồn vốn đầu tư 2% 
GDP toàn cầu cho phát triển Kinh tế xanh.
Chuyển đổi sang nền kinh tế xanh là sự 
khẳng định thực hiện chiến lược kinh tế xã hội 
của Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020. Mặc dù có 
những trở ngại nhất định, nhưng nếu có những 
giải pháp thích hợp bằng nội lực của quốc gia, 
cũng như thông qua sự chia sẻ kinh nghiệm, sự 
hỗ trợ quốc tế, Việt Nam có thể xây dựng thành 
công nền kinh tế xanh để hội nhập quốc tế.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Nguyễn Quang Thuấn, Nguyễn Xuân 
Trung (2012), Kinh tế xanh trong đổi ḿi mô 
h̀nh tĕng trưởng và tái cấu trúc nền kinh tế 
Việt Nam giai đoạn t́i, tham luận tại hội thảo 
diễn đàn kinh tế mùa xuân 2012, tại địa chỉ 
website:
www.na.gov.vn/htx/Vietnamese/C2136/default.
asp?Newid=59968
[2]. Thủ Tướng Chính Phủ (2012), Quyết định 
số 1393/QĐ-TTg ngày 25/09/2012 về phê 
duyệt Chiến lược quốc gia về tĕng trưởng xanh, 
Hà Nội.
[3]. Lê Thành Vĕn, Nguyễn Thị Thu Trang 
(2012), “Tổng quan ngành công nghiệp 
cacbon thấp trên thế gíi, tiềm nĕng tại Việt 
Nam” (Kỳ 1; kỳ 2), tại địa chỉ website: htp://
nangluongvietnam.vn/news/vn/an-ninh-nang-luong-va-moi-
truong/tong-quan-nganh-cong-nghiep-cacbon-thap-tren-the-
gioi-iem-nang-tai-viet-nam-%28ky-1%29.html
[4]. Aghion, Philippe and Hemous, David 
and Veugelers, Reinhilde, (2009) “No green 
growth without innovation”, Bruegel Policy 
Brief 2009/07, available at https://lirias.
kuleuven.be/bitstream/123456789/269700/2/
pb_climatervpa_231109_01.pdf
[5]. George Petrakos and Sotiris Pavleas 
(2007), Determinants of economic growth: the 
experts’ view, available at 
gr/uploads/discussion_papers/2007/uth-prd-
dp-2007-10_en.pdf .
[6]. UNEP (2011), Towards a Green Economy: 
Pathways to sustainable Development and 
Poverty Eradicaton (A Synthesis for Policy 
Makers), available at: www.ipu.org/splz-e/
rio+20/rpt-unep.pdf.
[7]. UNEP (2011b), Towards a Green Economy: 
Pathways to Sustainable Development and 
Poverty Eradication, available at:
www.unep.org/greeneconomy/2011/Green%20
EconomyReport_Final_Dec2011.pdf.
[8]. Yongfu Huang and M.G. Quibria (2013), 
“Green growth: theory and evidence”, 
Working Paper No.2013/056, available at: 
www.eadi.org/publications/_growth/_green.../
details_46265.
[9]. UNIDO (2012), Báo cáo nĕng lực cạnh 
tranh công nghiệp Việt Nam 2011
[10].htpp://sxsh.vn/vi-VN/Home/
tongquansanxuatsachhon-14/2011/San-xuat-
sach-hon-tren-toan-quoc-874.aspx
[11].htp://kinhdoanh.vnexpress.net/in-tuc/doanh-
nghiep/doanh-nghiep-cong-nghe-cao-chi-dem-tren-dau-
ngon-tay-2752206.html

File đính kèm:

  • pdfhuong_toi_nen_kinh_te_xanh_o_viet_nam_co_hoi_va_thach_thuc.pdf