Hướng dẫn thực hành: Sử dụng thuốc kháng thụ thể leukotriene trong kiểm soát hen phế quản
Leukotriene và cysteinyl leukotriene là những chất có vai trò quan trọng trong sinh bệnh học của hen
phế quản. Nhóm thuốc LTRA là nhóm kháng viêm không steroid được sử dụng chủ yếu trong kiểm
soát hen bởi hiệu quả tác dụng, khả năng dung nạp tốt và an toàn cho người bệnh. Tuy nhiên, thuốc
kém hiệu quả so với ICS nên được chỉ định là chọn lựa thứ hai nhằm đạt kiểm soát hen. Trong một
số trường hợp đặc biệt, đơn trị liệu thuốc LTRA chỉ dành cho những bệnh nhân không hiệu quả hoặc
không thể dùng được ICS.
Bạn đang xem tài liệu "Hướng dẫn thực hành: Sử dụng thuốc kháng thụ thể leukotriene trong kiểm soát hen phế quản", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Hướng dẫn thực hành: Sử dụng thuốc kháng thụ thể leukotriene trong kiểm soát hen phế quản
Hướng dẫn tHực HànH 50 Hô hấp số 16/2018 Leukotriene (LT) và cysteinyl leukotriene (cysLT) là các chất trung gian chuyển hoá của lipid, có vai trò quan trọng trong sinh bệnh học của hen phế quản, viêm mũi dị ứng và các bệnh dị ứng khác. Các chất này có tác dụng gây co thắt phế quản, phù nề niêm mạc đường hô hấp và tăng tiết đàm ở các bệnh nhân hen phế quản, viêm mũi dị ứng... SỰ HÌNH THÀNH VÀ TÁC ĐỘNG CỦA LEUKOTRIENE VÀ CYSTEINYL LEUKOTRIENE Leukotriene và cysteinyl leukotriene: Năm 1960, Brocklehurst đã ghi nhận thuật ngữ “chất phản ứng chậm trong phản ứng phản vệ” (slow-reactomg substance of anaphylaxis: SRS-A). Từ những năm 1940, người ta tìm thấy sự liên hệ giữa các chất này với sự co thắt phế quản ở bệnh nhân hen phế quản. Đến năm 1979, Samuelsson và cộng sự đã phát hiện đây là một nhóm các chất acid béo hoạt hoá được tạo ra từ sự chuyển hoá của arachinonic acid trong các tế bào eosinophil, tế bào mast và lymphocyte (1). Tên gọi LT là vì chất này được sản xuất bởi các leukocyte (hay leucocyte, bạch cầu) và trong phân tử của chúng có cấu trúc triene gồm 3 nối đôi của mạch carbon. Ngoài ba nối đôi trong cấu trúc triene, các LT và cysLT có thêm một nối đôi nữa trong cấu trúc phân tử, tổng cộng là 4 nối đôi. Vì thế, tên của chúng có thêm số “4” để chỉ 4 nối đôi này. Nguồn gốc của LT và cysLT được sản xuất từ tế bào bạch cầu và tế bào hạt trong hệ miễn dịch tự nhiên như tế bào mast, bạch cầu ái toan (eosinophil), bạch cầu ái kiềm (basophil), bạch cầu đa nhân trung tính (neutrophil) và đại thực bào (macrophage). Khi các tế bào này bị kích thích bởi các dị ứng nguyên hay các cytokine, hệ thống các men phospholipase A2 được hoạt hoá và giải phóng arachidonic acid từ phospholipid của màng tế bào. Arachidonic acid sau đó được oxy hoá bởi men 5’-lipoxygenase (5-LO) và chuyển hoá thành LT A4. Leukotriene A4 được chuyển hoá thành LT B4 nhờ vào men LT A4- hydrolase hoặc được gắn thêm gốc cysteinyl và chuyển hoá thành các cysLTs, bắt đầu là LT C4 bởi men LT C4 synthase. LT C4 được chuyển hoá thành LT D4 bởi men g-glutamyl leukotrienase. LT D4 được chuyển hoá thành LT E4 bởi men LT D4 dipeptidase. LT C4 và LT D4 không ổn định vì được chuyển hoá thành sản phẩm cuối cùng là LT4 và được bài tiết ra nước tiểu. SỬ DỤNG THUỐC KHÁNG THỤ THỂ LEUKOTRIENE TRONG KIỂM SOÁT HEN PHẾ QUẢN TS.BS. VÕ PHẠM MINH THƯ Bộ môn Nội, Đại học Y Dược Cần Thơ Tóm tắt Leukotriene và cysteinyl leukotriene là những chất có vai trò quan trọng trong sinh bệnh học của hen phế quản. Nhóm thuốc LTRA là nhóm kháng viêm không steroid được sử dụng chủ yếu trong kiểm soát hen bởi hiệu quả tác dụng, khả năng dung nạp tốt và an toàn cho người bệnh. Tuy nhiên, thuốc kém hiệu quả so với ICS nên được chỉ định là chọn lựa thứ hai nhằm đạt kiểm soát hen. Trong một số trường hợp đặc biệt, đơn trị liệu thuốc LTRA chỉ dành cho những bệnh nhân không hiệu quả hoặc không thể dùng được ICS. Hướng dẫn tHực HànH 51 Hô hấp số 16/2018 Hình 1. Sơ đồ con đường chuyển hoá của các leukotriene và cysteinyl leukotriene Thụ thể của cys LT: Thụ thể của cys LT (cys LTR) được phát hiện sớm và được nghiên cứu nhiều nhất là cys LTR1 và cys LTR2. Cys LTR1 là thụ thể gắn với LT D4 với ái lực cao, được biểu hiện trên các tế bào cơ trơn phế quản và các tế bào dòng tủy như tế bào mast, macrophage, eosinophil, dendritic cell và neutrophil. Các cys LTs sẽ gắn lên các thụ thể của chúng (cys LTRs) nằm trên các tế bào đích và sinh ra các phản ứng sinh – hoá học. Đây là một chất sinh học quan trọng trong hen phế quản, gắn kết với những thụ thể đặc hiệu tại phổi gây ra các tác động sinh học bao gồm: (1) co thắt phế quản (100 – 10.000 lần so với histamin); (2) tăng phản ứng của cơ trơn phế quản, đặc biệt do dị ứng; (3) huy động các tế bào viêm (eosinophil); (4) tăng tính thấm thành mạch gây phù nề và tắc nghẽn đường thở; (5) tăng tiết đàm. Cys LTR2 gắn với LTC4 với ái lực cao hơn LTD4 nhưng thấp hơn 10 lần so với ái lực của cys LTR1 đối với LTD4. Do đó, để kích hoạt cys LTR2 cần lượng LTD4 nhiều gấp 10 lần lượng LTD4 cần để kích hoạt cys LTR1. CƠ CHẾ TÁC ĐỘNG CỦA THUỐC KHÁNG THỤ THỂ LEUKOTRIENE (LTRA) Thuốc LTRA làm giảm hoạt tính của các leukotriene theo 2 cách: - Ức chế tổng hợp leukotriene bằng nhóm thuốc ức chế enzyme 5-lipoxygenase gắn vào vị trí hoạt động của enzyme này hoặc nhóm thuốc gây bất hoạt protein hoạt hoá enzyme 5-lipoxygenase. Cơ chế này gây ức chế được sự tổng hợp của 4 loại LT B4, C4, D4 và E4. Thuốc được nghiên cứu rộng rãi và được đưa ra thị trường là Zileuton. - Cạnh tranh thụ thể với LT bằng nhóm thuốc ức chế chủ yếu thụ thể Cys LTR của LT D4 và cả LT C4, E4 do cùng gắn cùng thụ thể. Nhiều thuốc trong nhóm này đã được nghiên cứu và sử dụng rộng rãi như Montelukast, Pranlukast, Zafirlukast. VAI TRÒ CỦA THUỐC KHÁNG THỤ THỂ LEUKOTRIENE TRONG KIỂM SOÁT HEN PHẾ QUẢN Nhiều nghiên cứu trên lâm sàng đã chứng minh vai trò của thuốc LTRA đối với tình trạng co thắt phế quản, phản ứng viêm và triệu chứng ho ở người bệnh hen. Ý nghĩa điều trị của thuốc LTRA trong hen phế quản thể hiện ở hiệu quả dãn phế quản và kháng viêm. Tác động dãn phế quản nhờ sự ức chế hoạt tính của LTs, các thuốc LTRA có tác dụng trên cả trương lực đường thở và quá trình viêm mạn tính tại đường thở. Hiệu quả dãn phế quản của thuốc LTRA dù không cao như các thuốc β2 agonist nhưng sự phối hợp của 2 nhóm thuốc này mang lại hiệu quả tốt hơn khi dùng đơn trị liệu. Hơn nữa, đối với những trường hợp co thắt phế quản không đáp ứng với thuốc β2 agonist vẫn đáp ứng tốt với thuốc LTRA. Điều này cho thấy, thuốc LTRA có hiệu quả dãn phế quản độc lập với thuốc β2 agonist (2). Đối với hoạt động kháng viêm, khi so sánh hiệu quả kháng viêm của thuốc LTRA với thuốc điều trị hen khác cho thấy (1) sử dụng Pranlukast 300 – 450 mg dùng 2 lần mỗi ngày có hiệu quả kiểm soát hen tương đương Beclomethasone 84 µg 4 lần mỗi ngày; (2) sử dụng phối hợp Zileuton hoặc Montelukast với ICS liều thấp có hiệu quả tương đương sử dụng liều cao ICS (3). Cho đến nay, đã có nhiều nghiên cứu về chỉ định điều trị thuốc LTRA trong kiểm soát hen phế quản. Ghi nhận từ các nghiên cứu và các khuyến cáo như sau. Hướng dẫn tHực HànH 52 Hô hấp số 16/2018 - Điều trị kiểm soát lựa chọn đầu tiên (first- line controller therapy): Đơn trị liệu ở bệnh nhân hen phế quản có thể sử dụng hai nhóm thuốc là ICS và LTRA. Tuy nhiên ICS vẫn được chứng minh có hiệu quả tốt nhất nhằm giảm triệu chứng và các dấu ấn viêm. Trong các nghiên cứu so sánh với giả dược, LTRA đơn trị liệu có thể hiệu quả ở bệnh nhân hen dai dẳng mức độ từ nhẹ đến trung bình. Khi phân tích gộp, LTRA cho thấy có thể làm giảm nguy cơ đợt cấp ở bệnh nhân hen nhẹ (risk ratio [RR] 0.60, 95% CI 0.44-0.81) (4). Tuy nhiên, trong phân tích này có nguy cơ bị nhiễu từ một số nghiên cứu và không thể đánh giá sự ảnh hưởng của mức độ nặng của hen trên kết quả nghiên cứu. Các nghiên cứu ngẫu nhiên cho thấy sử dụng thuốc kiểm soát đơn trị liệu đầu tiên bằng Zafirlukast, Montelukast và Zileuton được xem xét ở bệnh nhân hen dai dẳng mức độ nhẹ đến trung bình khi ổn định dựa trên các kết quả nghiên cứu bao gồm cải thiện chức năng hô hấp (hồi phục 10 – 15% FEV 1 ), triệu chứng hen ngày – đêm, nhu cầu sử dụng thuốc β2 agonist và tần suất cơn hen cấp (5). Các nghiên cứu mù đôi có đối chứng cho thấy Zileuton dùng trong dự phòng hen giúp giảm số đợt cấp khoảng 50% so với giả dược trong 13 tuần điều trị. Bên cạnh đó, cả Zafirlukast và Zileuton đều có thể giảm được số lần thức giấc về đêm, giảm nhu cầu sử dụng thuốc cắt cơn và các triệu chứng hen so với giả dược (6) và sử dụng dài hạn thuốc LTRA sẽ giúp cải thiện bền vững chỉ số FEV 1 . Trong các nghiên cứu so sánh với ICS, tác dụng kháng viêm của LTRA kém hơn ICS mặc dù các hiệu quả giảm tế bào ái toan trong máu và đàm, giảm nồng độ NO trong khí thở ra và tình trạng tăng phản ứng phế quản không đặc hiệu được ghi nhận (7). Một kết luận đáng lưu ý ở nhóm bệnh nhân sử dụng ICS có sự cải thiện chức năng hô hấp đáng kể hơn so với sự kiểm soát về mặt triệu chứng hen hoặc tình trạng viêm đường thở (8). Tóm lại, theo khuyến cáo của GINA (2017), thuốc LTRA được lựa chọn kiểm soát thay thế trong điều trị kiểm soát hen ở những bệnh nhân bậc 2, tuy nhiên, hiệu quả không tương đương với sử dụng ICS. Thuốc LTRA có thể phù hợp để khởi trị bằng thuốc kiểm soát đối với một số bệnh nhân không thể sử dụng ICS do không muốn hoặc bị tác dụng phụ do thuốc, bệnh nhân hen mắc viêm mũi dị ứng. - Thuốc LTRA có thể là chọn lựa thay thế mang lại hiệu quả nhất định trong điều trị phối hợp với ICS ở bệnh nhân hen dai dẳng từ mức độ trung bình đến nặng chưa kiểm soát tốt bằng ICS (9). Điều này có thể được lý giải bởi glucocorticoids tác động một phần vào sự chuyển hoá của các LTs và sự sản xuất quá mức LTs một cách trường diễn khi tăng liều ICS (10). Hiệu quả của điều trị bổ sung thuốc LTRA ở bệnh nhân chưa kiểm soát tốt khi dùng ICS đã được ghi nhận trong một số nghiên cứu. Nhóm bệnh nhân dùng ICS có phối hợp thuốc LTRA so với giả dược có khả năng giảm tương đối tần suất đợt cấp (RR 0.8, 95% CI 0.60 – 1.07) (4), (RR 0.50, 95% CI 0.29 – 0.86) (11). Khi so sánh giữa nhóm bệnh nhân phối hợp thuốc LTRA với ICS liều đang điều trị và nhóm tăng liều ICS trong kiểm soát hen, không có sự khác biệt về sự hồi phục chức năng hô hấp và số cơn hen cấp cần sử dụng glucocorticoids đường uống (11). Cũng trong nghiên cứu này, lợi ích của việc phối hợp ICS và thuốc LTRA khi bệnh nhân đã đạt kiểm soát không giúp giảm liều ICS thành công. Do đó, việc sử dụng thuốc LTRA trong liệu trình giảm liều ICS chưa thể đánh giá được. Như vậy, theo GINA (2017), bệnh nhân hen bậc 3-4 chưa đạt kiểm soát với lựa chọn ưu tiên, một trong các lựa chọn thay thế có thể được chỉ định là tăng ICS liều trung bình/cao phối hợp với thuốc LTRA. - LABA là một chọn lựa khác nhóm so với thuốc LTRA ở những bệnh nhân chưa kiểm soát triệu chứng khi dùng ICS. Một số nghiên cứu đã so sánh giữa sử dụng montelukast với LABA trong chọn lựa phối hợp ICS nhằm mong muốn đánh giá hiệu quả giảm các tế bào viêm (eosinophilia) Hướng dẫn tHực HànH 53 Hô hấp số 16/2018 của montelukast và sự cải thiện chức năng phổi của salmeterol. Một phân tích gộp đã ghi nhận sử dụng LABA mang lại kiểm soát và giảm nguy cơ đợt cấp tốt hơn thuốc LTRA (RR 0.87, 95% CL 0.76 – 0.99) (12). Theo GINA (2017), bệnh nhân hen bậc 3-4 chưa đạt kiểm soát với lựa chọn ưu tiên, một trong các lựa chọn thay thế có thể được chỉ định là tăng ICS liều trung bình/cao phối hợp với thuốc LTRA hoặc Theophylline liều thấp, phóng thích chậm. Tuy nhiên, qua nhiều nghiên cứu, đây là chọn lựa kém hữu hiệu so với bổ sung LABA và tăng liều ICS. Ở các nhóm dân số đặc biệt, thuốc LTRA cũng được xem xét sử dụng khi: - Bệnh nhân có tình trạng co thắt phế quản do vận động (EIB): Nếu các triệu chứng của bệnh nhân chỉ có trong hoặc sau lúc vận động và không có yếu tố nguy cơ gây cơn cấp, sử dụng SABA hít trước vận động được chỉ định nhằm giảm triệu chứng sau vận động. Trong trường hợp SABA giảm hiệu quả, thuốc LTRA là chọn lựa khác trước khi vận động. Khi bệnh nhân có triệu chứng không liên quan đến vận động hoặc không liên quan đến bất kỳ yếu tố nguy cơ cơn cấp, điều trị kiểm soát hàng ngày với ICS hoặc LTRA trong 4 – 8 tuần được khuyến cáo (13,14). - Bệnh hô hấp do aspirin (AERD): Bệnh nhân xuất hiện cơn hen cấp trong vòng 1 – 2 giờ sau uống aspirin hoặc thuốc kháng viêm không steroid. Tùy theo mức độ nặng, điều trị corticosteroid toàn thân với liều 1mg/kg/ ngày được chỉ định điều trị trong các đợt cấp của bệnh từ 1 đến 2 tuần (15). ICS là điều trị quan trọng ở bệnh nhân hen trên AERD có hay không kết hợp với OCS hoặc LTRA. Zileuton và Montelukast đã được chứng minh có hiệu quả đối với bệnh nhân AERD bằng các nghiên cứu thử nghiệm mù đôi có đối chứng. Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu đánh giá hiệu quả điều trị phối hợp Zileuton và Montelukast trong bệnh cảnh lâm sàng này. - Các triệu chứng do nhiễm siêu vi đường hô hấp trên: Do leukotrienes được kích hoạt ở những bệnh nhân nhiễm siêu vi đường hô hấp, montelukast làm giảm tần suất cơn cấp kích phát từ nhiễm trùng và cải thiện triệu chứng của cơn cấp do nhiễm RSV. Tuy nhiên, việc sử dụng ở trẻ em không mắc hen mà có triệu chứng khò khè từng đợt do nhiễm siêu vi thì không có sự khác biệt rõ rệt (16). - Các triệu chứng do tiếp xúc khói bụi ô nhiễm: Leukotrienes được sản xuất quá mức ở đường thở khi tiếp xúc với chất ô nhiễm như sulfur dioxide và bụi. Thuốc đối kháng thụ thể cysLT1 làm giảm tình trạng viêm và đáp ứng co thắt phế quản trong thực nghiệm. Tuy nhiên, những chỉ định đặc biệt sử dụng thuốc LTRA nhằm làm giảm triệu chứng hoặc phòng ngừa khởi phát cơn hen do khói bụi chưa được nghiên cứu. - Viêm mũi dị ứng: Do viêm mũi dị ứng là bệnh đồng mắc phổ biến ở bệnh nhân hen phế quản nên chỉ định thuốc LTRA làm giảm nhẹ triệu chứng cả đường hô hấp trên và dưới. Bệnh nhân giảm phù nề niêm mạc mũi (84%), cơn khó thở hàng ngày giảm từ 48% trước điều trị xuống còn 32% sau 3 tháng, còn 10% sau 6 tháng và chỉ còn 2% sau 12 tháng (17). TÍNH AN TOÀN VÀ LIỀU LƯỢNG CỦA THUỐC KHÁNG LEUKOTRIENE Các trường hợp cần thận trọng khi sử dụng: - Zileuton chống chỉ định ở bệnh nhân có bệnh gan tiến triển hoặc ALT tăng dai dẳng gấp 3 lần ngưỡng giới hạn trên. - Các rối loạn tâm thần kinh được ghi nhận ở một số bệnh nhân sử dụng montelukast, zafirlukast và zileuton như kích thích, lo lắng, mất ngủ, run cơ... - Một số bệnh nhân hen điều trị bằng montelukast có thể biểu hiện bệnh eosinophila hệ thống, thỉnh thoảng ghi nhận sự xuất hiện của hội chứng Churg – Strauss (bệnh viêm mạch hệ thống biểu hiện sốt, đau cơ, đau đầu...) - Tương tác thuốc: Hướng dẫn tHực HànH 54 Hô hấp số 16/2018 Bảng 1. Tương tác thuốc LTRA Thuốc Aspirin Enzyme cảm ứng Cytochrome P-450 Erythromycin Propranolon Theophyllime Warfarin Montelukast -- Giảm nồng độ Montelukast -- -- -- -- Zafirlukast ↑ nồng độ Zafirlukast 45% -- ↓ nồng độ Zafirlukast 40% -- ↓ nồng độ Zafirlukast 30% ↑ T1/2 của warfarin và TP 35% Zileuton -- -- -- ↑ nồng độ propranolon ↑ nồng độ theophyl l ine , giảm ½ liều theophylline ↓ INR - Các dạng chế phẩm và liều lượng: Bảng 2. Chế phẩm và liều lượng thuốc LTRA Thuốc Chế phẩm Liều lượng theo độ tuổi Montelukast Dạng bột: gói 4mg Viên nhai: 4mg, 5mg Viên nén: 10mg - Từ 12 tháng đến 5 tuổi: gói hoặc viên nhai 4mg 1 lần vào buổi tối - Từ 6 đến 14 tuổi: viên nhai 5mg 1 lần vào buổi tối - Từ 15 tuổi trở lên: viên 10 mg uống 1 lần vào buổi tối Zafirlukast Viên nén: 10mg, 20mg - Từ 5 đến 11 tuổi: viên 10mg 2 lần mỗi ngày - Từ 12 tuổi trở lên: viên 20mg 2 lần mỗi ngày Zileuton Viên phóng thích nhanh: 600mg Viên phóng thích kéo dài: 600mg Từ 12 tuổi trở lên: - Viên phóng thích nhanh: 600mg 4 lần mỗi ngày - Viên phóng thích kéo dài: 1200mg 2 lần mỗi ngày Pranlukast Viên nhộng: 112.5mg, 225mg Dạng bột: gói 50mg, 70mg, 100mg Từ 12 tuổi trở lên: 225mg 2 lần mỗi ngày KẾT LUẬN Nhóm thuốc LTRA là nhóm kháng viêm không steroid được sử dụng chủ yếu trong kiểm soát hen bởi hiệu quả tác dụng, khả năng dung nạp tốt và an toàn cho người bệnh. Tuy nhiên, thuốc kém hiệu quả so với ICS nên chỉ định đơn trị liệu chỉ dành cho những bệnh nhân không hiệu quả hoặc không thể dùng được ICS. Từ viết tắt: AERD Aspirin Exacerbated Respiratory Disease cysLT Cysteinyl leukotriene cysLTR cysLT receptor (Thụ thể của cysLT) EIB Exercise-induced bronchospasm LT Leukotriene LTRA Leukotriene receptor antagonist (Chất ức chế thụ thể của cysLT) RSV Respiratory syncytial virus SABA Short acting β 2 agonist (đồng vận β 2 tác dụng ngắn) Hướng dẫn tHực HànH 55 Hô hấp số 16/2018 1. Dempsey O.J. Leukotriene receptor antagonist therapy. Postgrad Med J 2000; 76:767-773. 2. OhnishiH. et al. The role of Leukotriene B4 in Allergic Diseases. Allergology International 2008, 57, pp 291-298 3. O’Byrne P.M et al. Efficacy of leukotriene receptor antagonists and synthesis inhibitor in asthma. J Allergy Clin Immunol 2009, 124, pp 397-403 4. Miligkos M, Bannuru RR, Alkofide H, et al. Leukotriene-receptor antagonists versus placebo in the treatment of asthma in adults and adolescents: a systematic review and meta- analysis. Ann Intern Med 2015; 163:756. 5. Marc P.G. Antileukotriene agents in the management of asthma. Uptodate 2017 6. Hallstranda T.S, Henderson W.R. An update on the role of leukotrienes in asthma. Curr Opin Allergy Clin Immunol 2010,10:pp 60-66. 7. Chauhan BF, Ducharme FM. Anti-leukotriene agents compared to inhaled corticosteroids in the management of recurrent and/or chronic asthma in adults and children. Cochrane Database Syst Rev 2012; :CD002314. 8. Israel E, Chervinsky PS, Friedman B, et al. Effects of montelukast and beclomethasone on airway function and asthma control. J Allergy Clin Immunol 2002; 110:847. 9. Scottish Intercollegiate Guidelines Network (SIGN). British guideline on the management of asthma (2016). SIGN153.pdf 10. Gyllfors P, Dahlén SE, Kumlin M, et al. Bronchial responsiveness to leukotriene D4 is resistant to inhaled fluticasone propionate. J Allergy Clin Immunol 2006; 118:78. 11. Chauhan BF, Jeyaraman MM, Singh Mann A, et al. Addition of anti-leukotriene agents to inhaled corticosteroids for adults and adolescents with persistent asthma. Cochrane Database Syst Rev 2017; 3:CD010347. 12. Chauhan BF, Ducharme FM. Addition to inhaled corticosteroids of long-acting beta2-agonists versus anti-leukotrienes for chronic asthma. Cochrane Database Syst Rev 2014; :CD003137 13. Edelman J.M et al. Oral Montelukast compared with inhaled salmeterol to prevent exercise- induced brochoconstriction: a randomized, double- blind trial. Ann Intern Med 2000;132:97-104 14. Jacob P. S. Antileukotriene agents for the treatment of lung disease. Am J Respir Crit Care Med 2013; 188:538 – 544 15. Abdrew S. et al. Aspirin- induced asthma: Advances in pathogeneris, diagnosis, and management. J Allergy Clin immunol 2003; 111(5):913-21 16. Brodlie M, Gupta A, Rodriguez-Martinez CE, et al. Leukotriene receptor antagonists as maintenance and intermittent therapy for episodic viral wheeze in children. Cochrane Database Syst Rev 2015; :CD008202. 17. Trần Hải Yến và cs. Đánh giá hiệu quả điều trị của Montelukast kết hợp Seretide ở bệnh nhân viêm mũi dị ứng có hen phế quản. Y học TP. Hồ Chí Minh, 2014, tập 18, phụ bản số 1, 33 – 38. Tài liệu tham khảo
File đính kèm:
huong_dan_thuc_hanh_su_dung_thuoc_khang_thu_the_leukotriene.pdf

