Hướng dẫn thực hành: Sử dụng thuốc kháng thụ thể leukotriene trong kiểm soát hen phế quản

Leukotriene và cysteinyl leukotriene là những chất có vai trò quan trọng trong sinh bệnh học của hen

phế quản. Nhóm thuốc LTRA là nhóm kháng viêm không steroid được sử dụng chủ yếu trong kiểm

soát hen bởi hiệu quả tác dụng, khả năng dung nạp tốt và an toàn cho người bệnh. Tuy nhiên, thuốc

kém hiệu quả so với ICS nên được chỉ định là chọn lựa thứ hai nhằm đạt kiểm soát hen. Trong một

số trường hợp đặc biệt, đơn trị liệu thuốc LTRA chỉ dành cho những bệnh nhân không hiệu quả hoặc

không thể dùng được ICS.

pdf 6 trang phuongnguyen 180
Bạn đang xem tài liệu "Hướng dẫn thực hành: Sử dụng thuốc kháng thụ thể leukotriene trong kiểm soát hen phế quản", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Hướng dẫn thực hành: Sử dụng thuốc kháng thụ thể leukotriene trong kiểm soát hen phế quản

Hướng dẫn thực hành: Sử dụng thuốc kháng thụ thể leukotriene trong kiểm soát hen phế quản
 Hướng dẫn tHực HànH
50
Hô hấp số 16/2018
Leukotriene (LT) và cysteinyl leukotriene (cysLT) 
là các chất trung gian chuyển hoá của lipid, có vai 
trò quan trọng trong sinh bệnh học của hen phế 
quản, viêm mũi dị ứng và các bệnh dị ứng khác. 
Các chất này có tác dụng gây co thắt phế quản, 
phù nề niêm mạc đường hô hấp và tăng tiết đàm 
ở các bệnh nhân hen phế quản, viêm mũi dị ứng...
SỰ HÌNH THÀNH VÀ TÁC ĐỘNG 
CỦA LEUKOTRIENE VÀ CYSTEINYL 
LEUKOTRIENE 
Leukotriene và cysteinyl leukotriene: 
Năm 1960, Brocklehurst đã ghi nhận thuật ngữ 
“chất phản ứng chậm trong phản ứng phản 
vệ” (slow-reactomg substance of anaphylaxis: 
SRS-A). Từ những năm 1940, người ta tìm thấy 
sự liên hệ giữa các chất này với sự co thắt phế 
quản ở bệnh nhân hen phế quản. Đến năm 1979, 
Samuelsson và cộng sự đã phát hiện đây là một 
nhóm các chất acid béo hoạt hoá được tạo ra từ sự 
chuyển hoá của arachinonic acid trong các tế bào 
eosinophil, tế bào mast và lymphocyte (1). Tên gọi 
LT là vì chất này được sản xuất bởi các leukocyte 
(hay leucocyte, bạch cầu) và trong phân tử của 
chúng có cấu trúc triene gồm 3 nối đôi của mạch 
carbon. Ngoài ba nối đôi trong cấu trúc triene, các 
LT và cysLT có thêm một nối đôi nữa trong cấu 
trúc phân tử, tổng cộng là 4 nối đôi. Vì thế, tên 
của chúng có thêm số “4” để chỉ 4 nối đôi này.
Nguồn gốc của LT và cysLT được sản xuất 
từ tế bào bạch cầu và tế bào hạt trong hệ miễn 
dịch tự nhiên như tế bào mast, bạch cầu ái toan 
(eosinophil), bạch cầu ái kiềm (basophil), bạch 
cầu đa nhân trung tính (neutrophil) và đại thực 
bào (macrophage). Khi các tế bào này bị kích 
thích bởi các dị ứng nguyên hay các cytokine, hệ 
thống các men phospholipase A2 được hoạt hoá 
và giải phóng arachidonic acid từ phospholipid 
của màng tế bào. Arachidonic acid sau đó được 
oxy hoá bởi men 5’-lipoxygenase (5-LO) và 
chuyển hoá thành LT A4. Leukotriene A4 được 
chuyển hoá thành LT B4 nhờ vào men LT A4-
hydrolase hoặc được gắn thêm gốc cysteinyl và 
chuyển hoá thành các cysLTs, bắt đầu là LT C4 
bởi men LT C4 synthase. LT C4 được chuyển hoá 
thành LT D4 bởi men g-glutamyl leukotrienase. 
LT D4 được chuyển hoá thành LT E4 bởi men LT 
D4 dipeptidase. LT C4 và LT D4 không ổn định 
vì được chuyển hoá thành sản phẩm cuối cùng là 
LT4 và được bài tiết ra nước tiểu.
SỬ DỤNG THUỐC KHÁNG THỤ THỂ LEUKOTRIENE 
TRONG KIỂM SOÁT HEN PHẾ QUẢN
 TS.BS. VÕ PHẠM MINH THƯ
 Bộ môn Nội, Đại học Y Dược Cần Thơ
Tóm tắt
Leukotriene và cysteinyl leukotriene là những chất có vai trò quan trọng trong sinh bệnh học của hen 
phế quản. Nhóm thuốc LTRA là nhóm kháng viêm không steroid được sử dụng chủ yếu trong kiểm 
soát hen bởi hiệu quả tác dụng, khả năng dung nạp tốt và an toàn cho người bệnh. Tuy nhiên, thuốc 
kém hiệu quả so với ICS nên được chỉ định là chọn lựa thứ hai nhằm đạt kiểm soát hen. Trong một 
số trường hợp đặc biệt, đơn trị liệu thuốc LTRA chỉ dành cho những bệnh nhân không hiệu quả hoặc 
không thể dùng được ICS.
Hướng dẫn tHực HànH
51
Hô hấp số 16/2018
Hình 1. Sơ đồ con đường chuyển hoá của các leukotriene 
và cysteinyl leukotriene
Thụ thể của cys LT:
Thụ thể của cys LT (cys LTR) được phát hiện 
sớm và được nghiên cứu nhiều nhất là cys LTR1 
và cys LTR2. Cys LTR1 là thụ thể gắn với LT 
D4 với ái lực cao, được biểu hiện trên các tế bào 
cơ trơn phế quản và các tế bào dòng tủy như tế 
bào mast, macrophage, eosinophil, dendritic cell 
và neutrophil. Các cys LTs sẽ gắn lên các thụ thể 
của chúng (cys LTRs) nằm trên các tế bào đích và 
sinh ra các phản ứng sinh – hoá học. Đây là một 
chất sinh học quan trọng trong hen phế quản, gắn 
kết với những thụ thể đặc hiệu tại phổi gây ra các 
tác động sinh học bao gồm: (1) co thắt phế quản 
(100 – 10.000 lần so với histamin); (2) tăng phản 
ứng của cơ trơn phế quản, đặc biệt do dị ứng; (3) 
huy động các tế bào viêm (eosinophil); (4) tăng 
tính thấm thành mạch gây phù nề và tắc nghẽn 
đường thở; (5) tăng tiết đàm. Cys LTR2 gắn với 
LTC4 với ái lực cao hơn LTD4 nhưng thấp hơn 
10 lần so với ái lực của cys LTR1 đối với LTD4. 
Do đó, để kích hoạt cys LTR2 cần lượng LTD4 
nhiều gấp 10 lần lượng LTD4 cần để kích hoạt 
cys LTR1.
CƠ CHẾ TÁC ĐỘNG CỦA THUỐC KHÁNG 
THỤ THỂ LEUKOTRIENE (LTRA)
Thuốc LTRA làm giảm hoạt tính của các 
leukotriene theo 2 cách:
- Ức chế tổng hợp leukotriene bằng nhóm 
thuốc ức chế enzyme 5-lipoxygenase gắn vào vị trí 
hoạt động của enzyme này hoặc nhóm thuốc gây 
bất hoạt protein hoạt hoá enzyme 5-lipoxygenase. 
Cơ chế này gây ức chế được sự tổng hợp của 4 
loại LT B4, C4, D4 và E4. Thuốc được nghiên 
cứu rộng rãi và được đưa ra thị trường là Zileuton.
- Cạnh tranh thụ thể với LT bằng nhóm thuốc 
ức chế chủ yếu thụ thể Cys LTR của LT D4 và cả 
LT C4, E4 do cùng gắn cùng thụ thể. Nhiều thuốc 
trong nhóm này đã được nghiên cứu và sử dụng 
rộng rãi như Montelukast, Pranlukast, Zafirlukast.
VAI TRÒ CỦA THUỐC KHÁNG THỤ THỂ 
LEUKOTRIENE TRONG KIỂM SOÁT HEN 
PHẾ QUẢN
Nhiều nghiên cứu trên lâm sàng đã chứng minh 
vai trò của thuốc LTRA đối với tình trạng co thắt 
phế quản, phản ứng viêm và triệu chứng ho ở 
người bệnh hen. Ý nghĩa điều trị của thuốc LTRA 
trong hen phế quản thể hiện ở hiệu quả dãn phế 
quản và kháng viêm. Tác động dãn phế quản nhờ 
sự ức chế hoạt tính của LTs, các thuốc LTRA có 
tác dụng trên cả trương lực đường thở và quá 
trình viêm mạn tính tại đường thở. Hiệu quả dãn 
phế quản của thuốc LTRA dù không cao như các 
thuốc β2 agonist nhưng sự phối hợp của 2 nhóm 
thuốc này mang lại hiệu quả tốt hơn khi dùng đơn 
trị liệu. Hơn nữa, đối với những trường hợp co 
thắt phế quản không đáp ứng với thuốc β2 agonist 
vẫn đáp ứng tốt với thuốc LTRA. Điều này cho 
thấy, thuốc LTRA có hiệu quả dãn phế quản độc 
lập với thuốc β2 agonist (2). Đối với hoạt động 
kháng viêm, khi so sánh hiệu quả kháng viêm 
của thuốc LTRA với thuốc điều trị hen khác cho 
thấy (1) sử dụng Pranlukast 300 – 450 mg dùng 
2 lần mỗi ngày có hiệu quả kiểm soát hen tương 
đương Beclomethasone 84 µg 4 lần mỗi ngày; (2) 
sử dụng phối hợp Zileuton hoặc Montelukast với 
ICS liều thấp có hiệu quả tương đương sử dụng 
liều cao ICS (3). Cho đến nay, đã có nhiều nghiên 
cứu về chỉ định điều trị thuốc LTRA trong kiểm 
soát hen phế quản. Ghi nhận từ các nghiên cứu và 
các khuyến cáo như sau.
 Hướng dẫn tHực HànH
52
Hô hấp số 16/2018
- Điều trị kiểm soát lựa chọn đầu tiên (first-
line controller therapy): Đơn trị liệu ở bệnh nhân 
hen phế quản có thể sử dụng hai nhóm thuốc là 
ICS và LTRA. Tuy nhiên ICS vẫn được chứng 
minh có hiệu quả tốt nhất nhằm giảm triệu chứng 
và các dấu ấn viêm. 
Trong các nghiên cứu so sánh với giả dược, 
LTRA đơn trị liệu có thể hiệu quả ở bệnh nhân 
hen dai dẳng mức độ từ nhẹ đến trung bình. 
Khi phân tích gộp, LTRA cho thấy có thể làm 
giảm nguy cơ đợt cấp ở bệnh nhân hen nhẹ 
(risk ratio [RR] 0.60, 95% CI 0.44-0.81) (4). Tuy 
nhiên, trong phân tích này có nguy cơ bị nhiễu 
từ một số nghiên cứu và không thể đánh giá sự 
ảnh hưởng của mức độ nặng của hen trên kết 
quả nghiên cứu. Các nghiên cứu ngẫu nhiên cho 
thấy sử dụng thuốc kiểm soát đơn trị liệu đầu 
tiên bằng Zafirlukast, Montelukast và Zileuton 
được xem xét ở bệnh nhân hen dai dẳng mức độ 
nhẹ đến trung bình khi ổn định dựa trên các kết 
quả nghiên cứu bao gồm cải thiện chức năng hô 
hấp (hồi phục 10 – 15% FEV
1
), triệu chứng hen 
ngày – đêm, nhu cầu sử dụng thuốc β2 agonist 
và tần suất cơn hen cấp (5). Các nghiên cứu mù 
đôi có đối chứng cho thấy Zileuton dùng trong 
dự phòng hen giúp giảm số đợt cấp khoảng 50% 
so với giả dược trong 13 tuần điều trị. Bên cạnh 
đó, cả Zafirlukast và Zileuton đều có thể giảm 
được số lần thức giấc về đêm, giảm nhu cầu sử 
dụng thuốc cắt cơn và các triệu chứng hen so với 
giả dược (6) và sử dụng dài hạn thuốc LTRA sẽ 
giúp cải thiện bền vững chỉ số FEV
1
. 
Trong các nghiên cứu so sánh với ICS, tác 
dụng kháng viêm của LTRA kém hơn ICS mặc dù 
các hiệu quả giảm tế bào ái toan trong máu và đàm, 
giảm nồng độ NO trong khí thở ra và tình trạng 
tăng phản ứng phế quản không đặc hiệu được ghi 
nhận (7). Một kết luận đáng lưu ý ở nhóm bệnh nhân 
sử dụng ICS có sự cải thiện chức năng hô hấp đáng 
kể hơn so với sự kiểm soát về mặt triệu chứng hen 
hoặc tình trạng viêm đường thở (8).
Tóm lại, theo khuyến cáo của GINA (2017), 
thuốc LTRA được lựa chọn kiểm soát thay thế 
trong điều trị kiểm soát hen ở những bệnh nhân 
bậc 2, tuy nhiên, hiệu quả không tương đương với 
sử dụng ICS. Thuốc LTRA có thể phù hợp để khởi 
trị bằng thuốc kiểm soát đối với một số bệnh nhân 
không thể sử dụng ICS do không muốn hoặc bị 
tác dụng phụ do thuốc, bệnh nhân hen mắc viêm 
mũi dị ứng. 
- Thuốc LTRA có thể là chọn lựa thay thế 
mang lại hiệu quả nhất định trong điều trị phối 
hợp với ICS ở bệnh nhân hen dai dẳng từ mức độ 
trung bình đến nặng chưa kiểm soát tốt bằng ICS 
(9). Điều này có thể được lý giải bởi glucocorticoids 
tác động một phần vào sự chuyển hoá của các LTs 
và sự sản xuất quá mức LTs một cách trường diễn 
khi tăng liều ICS (10). 
Hiệu quả của điều trị bổ sung thuốc LTRA 
ở bệnh nhân chưa kiểm soát tốt khi dùng ICS đã 
được ghi nhận trong một số nghiên cứu. Nhóm 
bệnh nhân dùng ICS có phối hợp thuốc LTRA 
so với giả dược có khả năng giảm tương đối tần 
suất đợt cấp (RR 0.8, 95% CI 0.60 – 1.07) (4), (RR 
0.50, 95% CI 0.29 – 0.86) (11). Khi so sánh giữa 
nhóm bệnh nhân phối hợp thuốc LTRA với ICS 
liều đang điều trị và nhóm tăng liều ICS trong 
kiểm soát hen, không có sự khác biệt về sự hồi 
phục chức năng hô hấp và số cơn hen cấp cần sử 
dụng glucocorticoids đường uống (11). Cũng trong 
nghiên cứu này, lợi ích của việc phối hợp ICS 
và thuốc LTRA khi bệnh nhân đã đạt kiểm soát 
không giúp giảm liều ICS thành công. Do đó, việc 
sử dụng thuốc LTRA trong liệu trình giảm liều 
ICS chưa thể đánh giá được.
Như vậy, theo GINA (2017), bệnh nhân hen 
bậc 3-4 chưa đạt kiểm soát với lựa chọn ưu tiên, 
một trong các lựa chọn thay thế có thể được chỉ 
định là tăng ICS liều trung bình/cao phối hợp với 
thuốc LTRA.
- LABA là một chọn lựa khác nhóm so với 
thuốc LTRA ở những bệnh nhân chưa kiểm soát 
triệu chứng khi dùng ICS. Một số nghiên cứu đã so 
sánh giữa sử dụng montelukast với LABA trong 
chọn lựa phối hợp ICS nhằm mong muốn đánh 
giá hiệu quả giảm các tế bào viêm (eosinophilia) 
Hướng dẫn tHực HànH
53
Hô hấp số 16/2018
của montelukast và sự cải thiện chức năng phổi 
của salmeterol. Một phân tích gộp đã ghi nhận sử 
dụng LABA mang lại kiểm soát và giảm nguy cơ 
đợt cấp tốt hơn thuốc LTRA (RR 0.87, 95% CL 
0.76 – 0.99) (12). Theo GINA (2017), bệnh nhân 
hen bậc 3-4 chưa đạt kiểm soát với lựa chọn ưu 
tiên, một trong các lựa chọn thay thế có thể được 
chỉ định là tăng ICS liều trung bình/cao phối hợp 
với thuốc LTRA hoặc Theophylline liều thấp, 
phóng thích chậm. Tuy nhiên, qua nhiều nghiên 
cứu, đây là chọn lựa kém hữu hiệu so với bổ sung 
LABA và tăng liều ICS.
Ở các nhóm dân số đặc biệt, thuốc LTRA 
cũng được xem xét sử dụng khi:
- Bệnh nhân có tình trạng co thắt phế quản 
do vận động (EIB): Nếu các triệu chứng của bệnh 
nhân chỉ có trong hoặc sau lúc vận động và không 
có yếu tố nguy cơ gây cơn cấp, sử dụng SABA 
hít trước vận động được chỉ định nhằm giảm triệu 
chứng sau vận động. Trong trường hợp SABA 
giảm hiệu quả, thuốc LTRA là chọn lựa khác 
trước khi vận động. Khi bệnh nhân có triệu chứng 
không liên quan đến vận động hoặc không liên 
quan đến bất kỳ yếu tố nguy cơ cơn cấp, điều trị 
kiểm soát hàng ngày với ICS hoặc LTRA trong 
4 – 8 tuần được khuyến cáo (13,14).
- Bệnh hô hấp do aspirin (AERD): Bệnh 
nhân xuất hiện cơn hen cấp trong vòng 1 – 2 
giờ sau uống aspirin hoặc thuốc kháng viêm 
không steroid. Tùy theo mức độ nặng, điều 
trị corticosteroid toàn thân với liều 1mg/kg/
ngày được chỉ định điều trị trong các đợt cấp 
của bệnh từ 1 đến 2 tuần (15). ICS là điều trị 
quan trọng ở bệnh nhân hen trên AERD có hay 
không kết hợp với OCS hoặc LTRA. Zileuton 
và Montelukast đã được chứng minh có hiệu 
quả đối với bệnh nhân AERD bằng các nghiên 
cứu thử nghiệm mù đôi có đối chứng. Tuy 
nhiên, chưa có nghiên cứu đánh giá hiệu quả 
điều trị phối hợp Zileuton và Montelukast trong 
bệnh cảnh lâm sàng này. 
- Các triệu chứng do nhiễm siêu vi đường 
hô hấp trên: Do leukotrienes được kích hoạt ở 
những bệnh nhân nhiễm siêu vi đường hô hấp, 
montelukast làm giảm tần suất cơn cấp kích phát 
từ nhiễm trùng và cải thiện triệu chứng của cơn 
cấp do nhiễm RSV. Tuy nhiên, việc sử dụng ở trẻ 
em không mắc hen mà có triệu chứng khò khè 
từng đợt do nhiễm siêu vi thì không có sự khác 
biệt rõ rệt (16). 
- Các triệu chứng do tiếp xúc khói bụi ô nhiễm: 
Leukotrienes được sản xuất quá mức ở đường thở 
khi tiếp xúc với chất ô nhiễm như sulfur dioxide 
và bụi. Thuốc đối kháng thụ thể cysLT1 làm giảm 
tình trạng viêm và đáp ứng co thắt phế quản trong 
thực nghiệm. Tuy nhiên, những chỉ định đặc biệt 
sử dụng thuốc LTRA nhằm làm giảm triệu chứng 
hoặc phòng ngừa khởi phát cơn hen do khói bụi 
chưa được nghiên cứu. 
- Viêm mũi dị ứng: Do viêm mũi dị ứng là 
bệnh đồng mắc phổ biến ở bệnh nhân hen phế 
quản nên chỉ định thuốc LTRA làm giảm nhẹ triệu 
chứng cả đường hô hấp trên và dưới. Bệnh nhân 
giảm phù nề niêm mạc mũi (84%), cơn khó thở 
hàng ngày giảm từ 48% trước điều trị xuống còn 
32% sau 3 tháng, còn 10% sau 6 tháng và chỉ còn 
2% sau 12 tháng (17). 
TÍNH AN TOÀN VÀ LIỀU LƯỢNG CỦA 
THUỐC KHÁNG LEUKOTRIENE
Các trường hợp cần thận trọng khi sử dụng:
- Zileuton chống chỉ định ở bệnh nhân có 
bệnh gan tiến triển hoặc ALT tăng dai dẳng gấp 3 
lần ngưỡng giới hạn trên.
- Các rối loạn tâm thần kinh được ghi 
nhận ở một số bệnh nhân sử dụng montelukast, 
zafirlukast và zileuton như kích thích, lo lắng, 
mất ngủ, run cơ...
- Một số bệnh nhân hen điều trị bằng 
montelukast có thể biểu hiện bệnh eosinophila hệ 
thống, thỉnh thoảng ghi nhận sự xuất hiện của hội 
chứng Churg – Strauss (bệnh viêm mạch hệ thống 
biểu hiện sốt, đau cơ, đau đầu...)
- Tương tác thuốc: 
 Hướng dẫn tHực HànH
54
Hô hấp số 16/2018
Bảng 1. Tương tác thuốc LTRA
Thuốc Aspirin
Enzyme 
cảm ứng 
Cytochrome 
P-450
Erythromycin Propranolon Theophyllime Warfarin
Montelukast --
Giảm nồng độ 
Montelukast
-- -- -- --
Zafirlukast
↑ nồng độ 
Zafirlukast 45% --
↓ nồng độ 
Zafirlukast 40% --
↓ nồng độ 
Zafirlukast 30%
↑ T1/2 của 
warfarin và TP 
35%
Zileuton -- -- --
↑ nồng độ 
propranolon
↑ nồng độ 
theophyl l ine , 
giảm ½ liều 
theophylline 
↓ INR
- Các dạng chế phẩm và liều lượng:
Bảng 2. Chế phẩm và liều lượng thuốc LTRA
Thuốc Chế phẩm Liều lượng theo độ tuổi
Montelukast Dạng bột: gói 4mg
Viên nhai: 4mg, 5mg
Viên nén: 10mg
- Từ 12 tháng đến 5 tuổi: gói hoặc viên nhai 4mg 1 lần vào 
buổi tối
- Từ 6 đến 14 tuổi: viên nhai 5mg 1 lần vào buổi tối
- Từ 15 tuổi trở lên: viên 10 mg uống 1 lần vào buổi tối
Zafirlukast Viên nén: 10mg, 20mg - Từ 5 đến 11 tuổi: viên 10mg 2 lần mỗi ngày
- Từ 12 tuổi trở lên: viên 20mg 2 lần mỗi ngày
Zileuton Viên phóng thích nhanh: 600mg
Viên phóng thích kéo dài: 600mg
Từ 12 tuổi trở lên:
- Viên phóng thích nhanh: 600mg 4 lần mỗi ngày
- Viên phóng thích kéo dài: 1200mg 2 lần mỗi ngày
Pranlukast Viên nhộng: 112.5mg, 225mg
Dạng bột: gói 50mg, 70mg, 100mg
Từ 12 tuổi trở lên: 225mg 2 lần mỗi ngày
KẾT LUẬN
Nhóm thuốc LTRA là nhóm kháng viêm không steroid được sử dụng chủ yếu trong kiểm soát hen bởi 
hiệu quả tác dụng, khả năng dung nạp tốt và an toàn cho người bệnh. Tuy nhiên, thuốc kém hiệu quả so 
với ICS nên chỉ định đơn trị liệu chỉ dành cho những bệnh nhân không hiệu quả hoặc không thể dùng 
được ICS.
Từ viết tắt:
AERD Aspirin Exacerbated Respiratory Disease
cysLT Cysteinyl leukotriene
cysLTR cysLT receptor (Thụ thể của cysLT)
EIB Exercise-induced bronchospasm
LT Leukotriene
LTRA Leukotriene receptor antagonist (Chất ức chế thụ thể của cysLT)
RSV Respiratory syncytial virus 
SABA Short acting β
2
 agonist (đồng vận β
2
 tác dụng ngắn)
Hướng dẫn tHực HànH
55
Hô hấp số 16/2018
1. Dempsey O.J. Leukotriene receptor antagonist 
therapy. Postgrad Med J 2000; 76:767-773.
2. OhnishiH. et al. The role of Leukotriene B4 in 
Allergic Diseases. Allergology International 2008, 
57, pp 291-298
3. O’Byrne P.M et al. Efficacy of leukotriene receptor 
antagonists and synthesis inhibitor in asthma. J 
Allergy Clin Immunol 2009, 124, pp 397-403
4. Miligkos M, Bannuru RR, Alkofide H, et al. 
Leukotriene-receptor antagonists versus 
placebo in the treatment of asthma in adults 
and adolescents: a systematic review and meta-
analysis. Ann Intern Med 2015; 163:756.
5. Marc P.G. Antileukotriene agents in the 
management of asthma. Uptodate 2017
6. Hallstranda T.S, Henderson W.R. An update on the 
role of leukotrienes in asthma. Curr Opin Allergy 
Clin Immunol 2010,10:pp 60-66.
7. Chauhan BF, Ducharme FM. Anti-leukotriene 
agents compared to inhaled corticosteroids in the 
management of recurrent and/or chronic asthma 
in adults and children. Cochrane Database Syst 
Rev 2012; :CD002314.
8. Israel E, Chervinsky PS, Friedman B, et al. 
Effects of montelukast and beclomethasone on 
airway function and asthma control. J Allergy Clin 
Immunol 2002; 110:847.
9. Scottish Intercollegiate Guidelines Network 
(SIGN). British guideline on the management 
of asthma (2016). 
SIGN153.pdf
10. Gyllfors P, Dahlén SE, Kumlin M, et al. Bronchial 
responsiveness to leukotriene D4 is resistant 
to inhaled fluticasone propionate. J Allergy Clin 
Immunol 2006; 118:78.
11. Chauhan BF, Jeyaraman MM, Singh Mann A, et 
al. Addition of anti-leukotriene agents to inhaled 
corticosteroids for adults and adolescents with 
persistent asthma. Cochrane Database Syst Rev 
2017; 3:CD010347.
12. Chauhan BF, Ducharme FM. Addition to inhaled 
corticosteroids of long-acting beta2-agonists 
versus anti-leukotrienes for chronic asthma. 
Cochrane Database Syst Rev 2014; :CD003137
13. Edelman J.M et al. Oral Montelukast compared 
with inhaled salmeterol to prevent exercise-
induced brochoconstriction: a randomized, double-
blind trial. Ann Intern Med 2000;132:97-104
14. Jacob P. S. Antileukotriene agents for the treatment 
of lung disease. Am J Respir Crit Care Med 2013; 
188:538 – 544
15. Abdrew S. et al. Aspirin- induced asthma: Advances 
in pathogeneris, diagnosis, and management. J 
Allergy Clin immunol 2003; 111(5):913-21
16. Brodlie M, Gupta A, Rodriguez-Martinez CE, et al. 
Leukotriene receptor antagonists as maintenance 
and intermittent therapy for episodic viral wheeze 
in children. Cochrane Database Syst Rev 2015; 
:CD008202.
17. Trần Hải Yến và cs. Đánh giá hiệu quả điều trị của 
Montelukast kết hợp Seretide ở bệnh nhân viêm 
mũi dị ứng có hen phế quản. Y học TP. Hồ Chí 
Minh, 2014, tập 18, phụ bản số 1, 33 – 38.
Tài liệu tham khảo 

File đính kèm:

  • pdfhuong_dan_thuc_hanh_su_dung_thuoc_khang_thu_the_leukotriene.pdf