Hướng dẫn thực hành: Phân biệt hen và COPD

Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính và hen phế quản là hai căn bệnh mạn tính đường thở thường gặp nhất. Các biểu hiện lâm sàng của hai căn bệnh thường bao gồm các dấu hiệu: ho, khó thở, đôi lúc có thể nghe thấy tiếng cò cứ rõ. Các dấu hiệu bệnh thường xuất hiện, tăng nặng khi người bệnh tiếp xúc với các yếu tố kích phát như: khói thuốc lá, thuốc lào, bụi nghề nghiệp Các điều trị thường bao gồm thuốc giãn phế quản, corticoid dạng phun hít

pdf 7 trang phuongnguyen 120
Bạn đang xem tài liệu "Hướng dẫn thực hành: Phân biệt hen và COPD", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Hướng dẫn thực hành: Phân biệt hen và COPD

Hướng dẫn thực hành: Phân biệt hen và COPD
 HƯỚNG DẪN THỰC HÀNH
48
Hô hấp số 14/2018
Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính và hen phế 
quản là hai căn bệnh mạn tính đường thở 
thường gặp nhất. Các biểu hiện lâm sàng của 
hai căn bệnh thường bao gồm các dấu hiệu: 
ho, khó thở, đôi lúc có thể nghe thấy tiếng cò 
cứ rõ. Các dấu hiệu bệnh thường xuất hiện, 
tăng nặng khi người bệnh tiếp xúc với các yếu 
tố kích phát như: khói thuốc lá, thuốc lào, bụi 
nghề nghiệp Các điều trị thường bao gồm 
thuốc giãn phế quản, corticoid dạng phun 
hít
Mặc dù có nhiều điểm chung, tuy nhiên, 
giữa hai bệnh có rất nhiều điểm khác biệt từ 
định nghĩa, cơ chế bệnh sinh, tổn thương mô 
bệnh học, các đặc điểm lâm sàng, cận lâm 
sàng và điều trị.
1. NHỮNG KHÁC BIỆT TRONG ĐỊNH 
NGHĨA 
Theo GINA 2017, hen phế quản (HPQ) là 
bệnh không đồng nhất, đặc trưng bởi tình 
trạng viêm niêm mạc đường thở mạn tính. 
Bệnh được xác định bởi tiền sử có các triệu 
chứng hô hấp như khò khè, khó thở, nặng 
ngực và ho; tần suất và mức độ nặng của các 
triệu chứng thay đổi theo thời gian, do sự biến 
đổi mức độ tắc nghẽn đường thở.
Theo GOLD 2017: Bệnh phổi tắc nghẽn 
mạn tính (COPD) là bệnh thường gặp, có thể 
dự phòng và điều trị được, đặc trưng bởi các 
triệu chứng hô hấp dai dẳng, rối loạn thông 
khí tắc nghẽn do các bất thường đường thở 
và/ hoặc phế nang, gây ra do tiếp xúc nhiều 
với các phần tử hoặc khí độc hại.
Như vậy có thể thấy:
- HPQ là bệnh không đồng nhất, diễn biến 
thay đổi và lặp lại, thay đổi theo thời gian, 
trong khi đó COPD là bệnh với các triệu 
chứng dai dẳng, tiến triển nặng dần.
- Viêm niêm mạc đường thở mạn tính là 
yếu tố chính, quan trọng và được đề cập ngay 
từ định nghĩa COPD, tuy nhiên, từ năm 2017, 
viêm niêm mạc đường thở mạn tính không 
còn được GOLD xem là đặc điểm quan trọng, 
mà thay vào đó là các triệu chứng lâm sàng 
với diễn biến dai dẳng mới là yếu tố được 
quan tâm hàng đầu trong COPD.
2. NHỮNG KHÁC BIỆT VỀ SINH BỆNH 
HỌC
Cả COPD và HPQ đều có điểm chung trong 
cơ chế bệnh sinh là tình trạng viêm niêm mạc 
đường thở mạn tính. Tuy nhiên, cơ chế viêm 
trong sinh bệnh học khác nhau nhiều điểm 
quan trọng:
- Khởi phát tình trạng viêm niêm mạc 
đường thở mạn tính trong COPD chủ yếu là 
do khói thuốc lá, khói thuốc lào, bụi nghề 
nghiệp trong khi yếu tố khởi phát tình trạng 
viêm trong HPQ là các dị nguyên.
- Trong COPD, khói thuốc, bụi thường tác 
động đầu tiên tới các tế bào biểu mô, đại thực 
bào phế nang, sau đó kích thích các bạch cầu 
đa nhân trung tính, bạch cầu lympho T CD8, 
các bạch cầu đơn nhân, các tế bào sợi non 
các tế bào này đều có khả năng sản xuất ra 
nhiều chemokin, cytokin, proteinase từ đó 
PHÂN BIỆT HEN VÀ COPD 
PGS.TS.BS NGUYỄN THANH HỒI 
HƯỚNG DẪN THỰC HÀNH
49
Hô hấp số 14/2018
gây tác động phá hủy trên các thành phần cấu 
trúc của phế nang, niêm mạc, cơ trơn, các sợi 
fibroblast của đường thở, gây hậu quả phá vỡ 
nhu mô phổi, tái cấu trúc sớm đường thở. Bên 
cạnh đó, các chemokin, cytokin gây tác động 
ngược trở lại các tế bào viêm, từ đó tạo ra vòng 
lặp, khuếch đại viêm tăng dần.
- Trong HPQ, viêm niêm mạc đường thở 
là trung tâm trong cơ chế bệnh sinh. Trên nền 
các bệnh nhân có cơ địa dị ứng, việc tiếp xúc 
kéo dài với các dị nguyên gây tình trạng viêm 
niêm mạc đường thở mạn tính, tăng dần. Các 
dị nguyên tiếp xúc với các tế bào biểu mô 
đường thở, các dưỡng bào. Các tế bào này 
tiếp tục tiết ra nhiều cytokin và chemokin, sau 
đó tác động trên các tế bào bạch cầu ái toan, 
lympho T CD4. Từ đó tiếp tục tiết ra nhiều 
hóa chất trung gian, phù nề niêm mạc, tăng 
tiết dịch nhầy và co thắt cơn trơn phế quản.
Hậu quả sau cùng của các tổn thương trên 
các bệnh nhân có thể thấy:
- Trong HPQ, bệnh chủ yếu khu trú ở 
đường thở (niêm mạc phế quản phù nề, các 
tế bào biểu mô tăng chế nhầy, co thắt cơ trơn 
phế quản). Có thể thấy tình trạng tái cấu trúc 
đường thở ở một số ít các bệnh nhân có tiếp 
xúc thường xuyên với các dị nguyên, khói, 
bụi, tình trạng viêm niêm mạc đường thở 
nặng, các triệu chứng khó kiểm soát. HPQ hầu 
như không có tổn thương phế nang.
- Trong COPD, luôn có tổn thương cùng 
lúc ở cả đường thở (chủ yếu là đường thở 
nhỏ), và phế nang. Bên cạnh các tổn thương 
có thể thấy gần tương tự như bệnh nhân HPQ 
(niêm mạc phế quản phù nề, tăng tiết dịch 
nhầy, co thắt cơ trơn) còn thấy tình trạng tái 
cấu trúc đường thở xuất hiện sớm, và đặc biệt 
luôn có tình trạng phá hủy các vách phế nang, 
tổ chức liên kết giữa các phế nang, các tổn 
thương này gây xẹp đường thở nhỏ, và là căn 
nguyên của tình trạng khí cạm, giãn phế nang.
Có thể tóm tắt những khác biệt về bệnh 
sinh của hai bệnh trong bảng sau (bảng 1):
Bảng 1. Khác biệt bệnh học giữa COPD và hen
Yếu tố COPD Hen phế quản
Yếu tố khởi phát Khói thuốc lá, thuốc lào, bụi nghề 
nghiệp, các phần tử và khói độc hại
Dị nguyên
Các tế bào đầu tiên chịu tác 
động
Tế bào biểu mô đường thở, đại 
thực bào phế nang
Tế bào biểu mô đường thở, dưỡng 
bào
Các tế bào trung tâm của viêm Bạch cầu đa nhân trung tính, bạch 
cầu lympho T CD8
Bạch cầu ái toan, bạch cầu lympho 
T CD4
Đích tác động Tiểu phế quản; luôn có tổn thương 
các phế nang
Toàn bộ đường thở, hầu như không 
tổn thương phế nang
Hậu quả chính Hẹp các tiểu phế quản, phá hủy các 
vách phế nang
Co thắt cơ trơn, tăng nhạy cảm 
đường thở
3. NHỮNG KHÁC BIỆT TRIỆU CHỨNG 
VÀ CHẨN ĐOÁN 
Mặc dù có nhiều triệu chứng giống nhau giữa 
HPQ và COPD, tuy nhiên, khi xem xét kỹ 
đều có thể nhận thấy những đặc điểm khác 
biệt để có thể phân biệt được HPQ và COPD. 
Với những trường hợp khó khăn có thể cần 
làm thêm một số thăm dò như chụp X quang 
 HƯỚNG DẪN THỰC HÀNH
50
Hô hấp số 14/2018
ngực, đo chức năng thông khí (CNTK) phổi, 
DLCO
- Tuổi khởi phát bệnh: HPQ thường có 
khởi phát bệnh sớm, khi còn nhỏ. Đến khi 
trưởng thành bệnh thường ổn định và sau 
đó có thể tái phát khi lớn tuổi. Trong khi 
đó COPD thường khởi phát bệnh sau tuổi 
40. Có thể gặp COPD ở tuổi từ 35 – 40 tuổi 
khi bệnh nhân có tiếp xúc rất nhiều với các 
yếu tố nguy cơ, hoặc có thiếu hụt alpha
1
antitrypsin.
- Cơ địa dị ứng: Bệnh nhân HPQ thường 
có cơ địa dị ứng, hoặc trong gia đình có người 
HPQ, cơ địa dị ứng. Trong khi bệnh nhân 
COPD thường ít liên quan cơ địa dị ứng, mà 
chủ yếu liên quan tiền sử tiếp xúc các yếu tố 
nguy cơ như khói thuốc lá, thuốc lào, khói, 
bụi nghề nghiệp.
- Diễn biến các triệu chứng:
+ Trong HPQ: Các triệu chứng ho, khó 
thở cò cứ, nặng ngực diễn biến lặp lại trong 
những điều kiện giống nhau như thay đổi thời 
tiết, tiếp xúc dị nguyên, tiếp xúc khói, bụi  
Xen lẫn giữa các đợt có triệu chứng là thời 
điểm bệnh nhân HPQ có cảm giác hoàn toàn 
bình thường. 
+ Trong COPD: Các triệu chứng xuất hiện 
và tiến triển nặng dần, liên tục theo thời gian. 
Đây là điểm rất quan trọng giúp phân biệt 
COPD với các bệnh nhân HPQ. 
- Triệu chứng thực thể:
+ Trên bệnh nhân HPQ: Thường thấy ran 
rít, ngáy rất rõ trong cơn HPQ và được xem 
là triệu chứng nổ trội. Tuy nhiên, hầu hết các 
bệnh nhân HPQ đi khám vào ban ngày, khi 
triệu chứng HPQ đã ổn định, do vậy nghe 
phổi ở những thời điểm này thường không 
thấy triệu chứng.
+ Trên bệnh nhân COPD: Luôn có triệu 
chứng tồn tại. Biểu hiện thường gặp nhất 
khi khám phổi ở bệnh nhân COPD là tiếng rì 
rào phế nang giảm. Trường hợp bệnh COPD 
nặng, đã có bệnh nhiều năm, khám thấy lồng 
ngực hình thùng. Các biểu hiện ran rít, ngáy 
cũng thường gặp, nhưng ít và không rõ như 
trong bệnh nhân HPQ.
- Những dấu hiệu ban đầu nghĩ tới HPQ:
+ Khởi phát bệnh trước tuổi 20;
+ Các triệu chứng thay đổi theo thời gian;
+ Có tắc nghẽn đường thở biến đổi (thể 
hiện trên đo CNTK phổi hoặc lưu lượng 
đỉnh);
+ Tiền sử gia đình có HPQ, hoặc các bệnh 
lý dị ứng khác;
+ CNTK phổi thường bình thường giữa 
các lần có triệu chứng;
+ Các triệu chứng biến đổi theo mùa, hoặc 
theo từng năm;
+ Các triệu chứng cải thiện tự nhiên, hoặc 
ngay khi dùng thuốc giãn phế quản, hoặc sau 
1 tuần dùng corticoid phun hít;
+ X quang phổi: bình thường.
- Những dấu hiệu ban đầu hướng tới 
COPD:
+ Bệnh khởi phát từ khi bệnh nhân được 
40 tuổi trở đi;
+ Các triệu chứng dai dẳng bất chấp điều 
trị đầy đủ;
+ CNTK phổi luôn có rối loạn thông khí 
tắc nghẽn;
+ Tiền sử hút thuốc lá, thuốc lào; tiếp xúc 
khói, bụi thường xuyên;
+ Các triệu chứng luôn xấu dần đi theo 
thời gian;
HƯỚNG DẪN THỰC HÀNH
51
Hô hấp số 14/2018
+ Đáp ứng kém với thuốc giãn phế quản 
tác dụng nhanh, ngắn;
+ Có giãn phế nang trên chụp X quang.
Cần lưu ý các triệu chứng của COPD ban 
đầu khá mờ nhạt, nhiều bệnh nhân không hề 
biết mình có bệnh cho đến khi bệnh đã ở giai 
đoạn nặng. Nhiều bệnh nhân COPD chỉ có 
cảm giác nhanh mệt khi làm việc nặng, gắng 
sức, hoặc đi lại, do vậy, rất nhiều bệnh nhân 
vẫn trả lời thở bình thường cho đến khi có các 
biểu hiện của đợt cấp.
- Diễn biến về chức năng thông khí phổi: 
+ Ở bệnh nhân COPD luôn tồn tại rối loạn 
thông khí (RLTK) tắc nghẽn. Đáp ứng với 
thuốc giãn phế quản thường kém hơn. Bên 
cạnh đó, CNTK liên tục giảm dần theo thời 
gian. Khi bệnh nhân có đợt cấp COPD, CNTK 
giảm nhanh và nhiều hơn. Sau khi điều trị hết 
đợt cấp, CNTK phổi thường không phục hồi 
về giá trị CNTK phổi trước khi có đợt cấp. 
Chức năng phổi đáp ứng kém với điều trị 
corticoid.
+ Trên bệnh nhân HPQ chỉ có rối loạn 
thông khí tắc nghẽn khi bệnh nhân có triệu 
chứng, HPQ đang trong đợt cấp. Khi điều trị, 
hết cơn hen CNTK phổi trở về bình thường. 
CNTK phổi đáp ứng khá tốt với điều trị 
corticoid (bằng đường toàn thân hay phun 
hít).
- Đặc điểm X-quang ngực: Bệnh nhân 
HPQ thường không có bất thường trên 
X-quang phổi. Có thể gặp hình ảnh phổi ứ 
khí khi bệnh nhân đang trong đợt cấp. Ngược 
lại, bệnh nhân COPD có thể có X-quang phổi 
bình thường trong trường hợp bệnh nhẹ, khi 
bệnh nhân đã có triệu chứng khó thở, thường 
luôn thấy hình ảnh giãn phế nang, hình đậm 
các nhánh phế quản.
- Điện tim: Hầu hết các bệnh nhân HPQ, 
và những trường hợp COPD nhóm A, nhóm 
B: hình ảnh điện tim bình thường. Với bệnh 
nhân COPD nặng, rất nặng: thường thấy hình 
ảnh P phế. Tâm phế mạn luôn là diễn biến tất 
yếu của các bệnh nhân COPD, trong khi điều 
này hiếm gặp ở bệnh nhân HPQ.
- Khí máu động mạch: Thường thấy tăng 
CO
2
 ở bệnh nhân COPD có suy hô hấp mạn 
tính. Tuy nhiên, ở bệnh nhân HPQ, tình trạng 
tăng CO
2
 có thể chỉ gặp ở những trường hợp 
có tắc nghẽn đường thở rất nặng. Khi hết cơn 
hen phế quản, CO
2
 trở về bình thường.
- Bệnh đồng mắc: Cả HPQ và COPD đều 
có thể có bệnh đồng mắc. Tuy nhiên, bệnh 
nhân COPD có tần xuất mắc bệnh đồng mắc 
cao hơn. Các bệnh đồng mắc của COPD bao 
gồm tăng huyết áp, nhồi máu cơ tim, loãng 
xương, trầm cảm, đái tháo đường, ung thư. 
Tần suất bệnh đồng mắc trong HPQ thấp 
hơn, và thường liên quan tới các bệnh lý mũi 
xoang, dị ứng như viêm mũi dị ứng, viêm 
xoang, polyp mũi, viêm da cơ địa 
4. NHỮNG KHÁC BIỆT TRONG ĐIỀU 
TRỊ 
Theo dõi: 
COPD là bệnh xấu đi liên tục theo thời gian, 
do vậy, bệnh nhân cần được theo dõi liên tục, 
hàng tháng bệnh nhân cần được khám lại, 
đánh giá bằng bộ câu hỏi CAT, đo CNTK 
phổi mỗi 3 đến 6 tháng, đánh giá các triệu 
chứng lâm sàng (ho, khạc đờm, khó thở, các 
hạn chế hoạt động thể lực, rối loạn giấc ngủ, 
bệnh đồng mắc).
HPQ là bệnh có biểu hiện biến đổi theo 
thời gian, bệnh nhân thường có triệu chứng 
khi còn trẻ, ổn định ở tuổi trưởng thành và sau 
đó có thể có triệu chứng trở lại khi lớn tuổi. 
Khi bệnh nhân ở các bậc 2-5 (theo GINA 
2018), có triệu chứng thường xuyên cần được 
 HƯỚNG DẪN THỰC HÀNH
52
Hô hấp số 14/2018
theo dõi và quản lý hàng tháng. Khi bệnh đã 
đạt được kiểm soát tốt, triệu chứng đã thoái 
lui hoàn toàn, không cần khám lại thường 
xuyên nhưng cần tư vấn cho bệnh nhân cách 
dùng thuốc dạng phun hít để cắt cơn và khám 
lại ngay khi xuất hiện triệu chứng. Cần lưu ý 
ngay cả khi tình trạng HPQ ở mức kiểm soát 
tốt thì bệnh nhân vẫn có thể xuất hiện cơn khó 
thở cấp nặng khi tiếp xúc các dị nguyên, các 
yếu tố nguy cơ gây cơn hen.
Đánh giá mức độ nặng của bệnh:
Cả COPD và HPQ đều cần được đánh giá 
mức độ nặng trước khi điều trị. Tuy nhiên, có 
một số điểm khác biệt trong đánh giá mức độ 
nặng của HPQ và COPD:
- Mức độ nặng của COPD được chia thành 
các giai đoạn. Từ GOLD 2001 đến GOLD 
2009, mức độ nặng của COPD được chia 
thành 3, 4 giai đoạn. Việc chia giai đoạn dựa 
chủ yếu vào CNTK phổi. Từ GOLD 2010, 
COPD được chia thành 4 nhóm A, B, C, D. 
Từ GOLD 2017, CNTK phổi được tách ra 
khỏi bảng đánh giá mức độ nặng COPD. Việc 
chia mức độ nặng COPD theo mức độ giảm 
CNTK và sau đó là theo nhóm là hướng điều 
trị tới giảm triệu chứng và tốc độ thoái giảm 
CNTK hơn là để cải thiện CNTK. Việc đánh 
giá giai đoạn COPD được thực hiện trước khi 
chỉ định thuốc cho điều trị bệnh nhân.
- Chia mức độ nặng của HPQ thành bậc là 
do tiến triển của HPQ khá thay đổi, và có thể 
có sự thay đổi từ bậc này sang bậc khác theo 
thời gian. Các bậc của HPQ của người lớn 
và trẻ em >5 tuổi được chia theo bậc từ bậc 
1 đến bậc 5. Mức độ nặng HPQ của trẻ em 
< 6 tuổi được xếp thành 4 bậc từ bậc 1 đến 
bậc 4. Cần lưu ý trong đánh giá mức độ nặng 
của HPQ theo bậc có yếu tố “triệu chứng 
được kiểm soát”. Điều này chỉ có được sau 
khi bệnh nhân đã điều trị và đáp ứng với điều 
trị tương ứng. Như vậy, trên thực tế, bậc của 
HPQ được xác lập sau khi đã điều trị với một 
bậc HPQ cụ thể. Khi bệnh nhân đáp ứng với 
bậc điều trị đó thì mới được xếp đúng vào bậc 
đó, trường hợp chưa đạt được kiểm soát HPQ 
thì tiến hành tăng bậc điều trị tiếp theo.
Điều trị bệnh giai đoạn ổn định: 
Điều trị nền tảng trong điều trị COPD là thuốc 
giãn phế quản tác dụng kéo dài. Trong số các 
thuốc giãn phế quản, thuốc giãn phế quản 
tác dụng kéo dài nhóm kháng cholinergic 
(LAMA) được ưu tiên dùng hơn thuốc giãn 
phế quản tác dụng kéo dài nhóm cường beta 
2 adrenergic (LABA). Kết hợp LAMA và 
LABA cho hiệu quả điều trị tốt hơn đơn trị 
liệu. Corticoid đường phun hít (ICS) chủ yếu 
được chỉ định cho những bệnh nhân COPD 
phenotype nhiều đợt cấp (từ 2 đợt cấp trở lên 
trong 12 tháng vừa qua), hoặc những bệnh 
nhân nhóm C, D có các triệu chứng ít cải thiện 
mặc dù đã điều trị với LAMA và LABA. ICS 
luôn được dùng ở dạng kết hợp LABA mà 
không dùng dạng ICS đơn thuần.
Với bệnh nhân HPQ, ICS được chỉ định 
càng sớm càng tốt, và được xem là nền tảng 
trong điều trị và áp dụng với hầu hết các bệnh 
nhân HPQ. ICS được chỉ định ngay từ bậc 2 
với ICS đơn thuần, liều thấp, và sau đó tăng 
dần liều. Trong điều trị HPQ, LABA không 
được chỉ định ở dạng đơn thuần, mà luôn 
được kê đơn ở dạng kết hợp ICS. 
Tăng giảm thuốc trong điều trị:
Do tiến triển của COPD luôn nặng dần theo 
thời gian, chức năng phổi có xu hướng giảm 
liên tục, do vậy các điều trị COPD thường 
cần duy trì, hoặc tăng thêm các thuốc phù hợp 
mức độ nặng của bệnh theo từng thời điểm 
cụ thể. Có thể nói trong COPD thuốc điều trị 
thường có xu hướng tăng dần.
HƯỚNG DẪN THỰC HÀNH
53
Hô hấp số 14/2018
Trong khi đó diễn biến của HPQ thay đổi, 
sau khi được điều trị, tình trạng viêm được 
kiểm soát, bệnh nhân hết triệu chứng. Ở những 
thời điểm khi bệnh được kiểm soát hoàn toàn 
có thể giảm hoặc thậm chí ngưng dùng thuốc 
dự phòng chỉ dùng thuốc cắt cơn khi cần. Tóm 
tắt những khác biệt trong chẩn đoán và điều trị 
giữa HPQ và COPD trong bảng 2.
Bảng 2. Khác biệt lâm sàng và điều trị giữa COPD và hen
Đặc điểm COPD Hen phế quản
Đặc điểm chung
Tuổi khởi phát bệnh ≥ 40 tuổi Khi còn nhỏ. Bệnh ổn định ở tuổi trưởng 
thành và sau đó tái phát khi lớn tuổi
Cơ địa dị ứng Thường không có Thường có
Triệu chứng và chẩn đoán
Diễn biến triệu chứng Nặng dần liên tục theo thời gian
Triệu chứng luôn có
Thay đổi, hết triệu chứng khi bệnh ổn 
định, được kiểm soát tốt.
Triệu chứng xuất hiện theo mùa
Ngoài cơn Triệu chứng luôn có Không có triệu chứng
Thời điểm xuất hiện 
triệu chứng
Ít liên quan tới thời điểm trong ngày Thường xuất hiện lúc nửa đêm về sáng
Triệu chứng thực thể Rì rào phế nang giảm là biểu hiện quan 
trọng, ran rít ngáy không nhiều. Trường 
hợp nặng có lồng ngực hình thùng
Triệu chứng thay đổi. Khám ngoài cơn 
không có triệu chứng. Khi có triệu 
chứng ran rít, ngáy thường nghe rõ
Tần suất đợt cấp Bệnh càng nặng, tần suất càng nhiều Đợt cấp có thể xuất hiện ở mọi bậc HPQ
 Phổi Luôn có RLTK tắc nghẽn, FEV
1
, FVC 
liên tục giảm dần theo thời gian
RLTK tắc nghẽn trong cơn hen. Ngoài 
cơn CNTK phổi bình thường.
Khí máu động mạch Tăng CO
2
 khi có suy hô hấp mạn tính Ngoài cơn khó thở bình thường
X quang phổi Giai đoạn nặng thấy hình ảnh giãn phế 
nang
Hầu hết bình thường
Điện tim Thấy p phế ở giai đoạn muộn, khi có 
tâm phế mạn
Bình thường
Bệnh đồng mắc Thường có Thường không
Mức độ năng Phân theo giai đoạn Phân theo bậc
Điều trị
Nền tảng điều trị Thuốc giãn phế quản
Không dùng ICS đơn thuần
ICS 
Không dùng LABA đơn thuần
Tiếp cận điều trị Tăng dần thuốc theo thời gian Giảm dần thuốc. Khi bệnh hoàn toàn 
kiểm soát chỉ dùng thuốc cắt cơn khi cần
Đáp ứng điều trị Đáp ứng kém với corticoid, các triệu 
chứng luôn tồn tại, luôn có RLTK tắc 
nghẽn
Đáp ứng tốt với corticoid. Sau điều trị 
thường hết triệu chứng, CNTK phổi 
phục hồi về bình thường
 HƯỚNG DẪN THỰC HÀNH
54
Hô hấp số 14/2018
Vai trò của Vaccine trong điều trị:
Vai trò của vaccine phòng cúm và phế cầu 
trong điều trị COPD đã được khẳng rõ trong 
các khuyến cáo điều trị của GOLD, cũng như 
các khuyến cáo của hầu hết các hội hô hấp của 
các quốc gia. Tuy nhiên, vai trò của vaccine 
phòng cúm và phế cầu hầu như chưa được 
nhắc tới trong các khuyến cáo điều trị HPQ.
1. Global Initiative for Asthma (GINA). Pocket guide 
for asthma management and prevention - 2017 
update.
2. Global Initiative for Chronic Obstructive Lung 
Disease (GOLD). Global Strategy for the 
Diagnosis, Management, and Prevention of COPD 
– Update 2017.
3. Yawn B.P. “Differential Assessment and Management 
of Asthma vs Chronic Obstructive Pulmonary 
Disease”. Medscape J Med. 2009; 11(1): 20.
4. Buttery P, Higenbottam T. “The differential 
diagnosis of COPD and asthma”. Asthma in Gen 
Pract 1997; 5(2): 20-2.
5. Celli BR, Thomas NE, Anderson JA, et al. Effect 
of pharmacotherapy on rate of decline of lung 
function in chronic obstructive pulmonary disease: 
results from TORCH study. Am J Respir Crit Care 
Med 2008; 178(4): 332-8.
6. O’Donnell DE, Fluge T, Gerken F, et al. Effects 
of tiotropium on lung hyperinflation, dyspnea and 
exercise tolerance in COPD, Eur Respir J 2004; 
23(6):832-40.
7. Donohue JF, Kalberg C, Shah P, et al. Dose 
respond of umeclidium administerd once or twice 
daily in patients with COPD: a pooled analysis of 
two randomized, double-blind, placebo-controlled 
studies. J Clin Pharmacol 2014; 54(11): 1214-20.
8. Baishnab E, Karner C. Primary care based clinics 
for asthma. Cochrane Database of Systematic 
Reviews 2012, Issue 4.
9. McCoy K, Shade DM, Irvin CG, Mastronarde JG, 
Hanania NA, Castro M, et al. Predicting episodes 
of poor asthma control in treated patients with 
asthma. J Allergy Clin Immunol 2006;118(6):1226-
33.
10. Prieto Centurion V, Huang F, Naureckas ET, 
Camargo CA, Charbeneau J, Joo MJ, et al. 
Confirmatory spirometry for adults hospitalized 
with a diagnosis of asthma or chronic obstructive 
pulmonary disease exacerbation. BMC Pulm Med 
2012;12:73.
Tài liệu tham khảo

File đính kèm:

  • pdfhuong_dan_thuc_hanh_phan_biet_hen_va_copd.pdf