Hướng dẫn thực hành: Biện luận tính nhạy cảm kháng sinh của vi khuẩn gây bệnh trên kết quả xét nghiệm in vitro
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Kháng sinh đồ thường qui tại các phòng thí nghiệm lâm sàng tại các bệnh viện hiện nay thường được thực hiện dựa trên kỹ thuật khuếch tán kháng sinh trong thạch hay được gọi là kỹ thuật Kirby-Bauer. Nguyên tắc của kỹ thuật này là kháng sinh được tẩm lên đĩa giấy với một hàm lượng theo quy định được đặt trên bề mặt môi trường thạch dinh dưỡng đã được trải vi khuẩn. Trong quá trình ủ, kháng sinh từ đĩa giấy khuếch tán ra môi trường thạch và ức chế sự phát triển của vi khuẩn, nhờ vậy tạo thành một vòng không có vi khuẩn mọc (gọi là vòng vô khuẩn) xung quanh đĩa kháng sinh. Đo đường kính vòng vô khuẩn này và so với tiêu chuẩn đánh giá vòng vô khuẩn để biện luận là vi khuẩn kháng, nhạy hay trung gian đối với kháng sinh thử nghiệm. Kết quả kháng sinh đồ phương pháp khuếch tán kháng sinh trong thạch từ đĩa giấy tẩm kháng sinh (phương pháp khuếch tán) là một kết quả định tính cho biết vi khuẩn là kháng (R), nhạy (S), hay trung gian (I) đối với kháng sinh thử nghiệm. Các kết quả này cho biết trên lâm sàng nếu sử dụng kháng sinh với liều thông thường được khuyến cáo dành cho điều trị một nhiễm khuẩn nhất định nào đó thì vi khuẩn sẽ kháng hay nhạy với kháng sinh được sử dụng tương ứng với kết quả kháng sinh đồ, nếu kết quả kháng sinh đồ là trung gian thì nồng độ kháng sinh đạt trong máu hay mô nhiễm trùng có thể chưa vượt qua được nồng độ cần thiết để điều trị được bệnh do vi khuẩn này gây ra (1)
Tóm tắt nội dung tài liệu: Hướng dẫn thực hành: Biện luận tính nhạy cảm kháng sinh của vi khuẩn gây bệnh trên kết quả xét nghiệm in vitro
33 Hô hấp số 19/2019 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Kháng sinh đồ thường qui tại các phòng thí nghiệm lâm sàng tại các bệnh viện hiện nay thường được thực hiện dựa trên kỹ thuật khuếch tán kháng sinh trong thạch hay được gọi là kỹ thuật Kirby-Bauer. Nguyên tắc của kỹ thuật này là kháng sinh được tẩm lên đĩa giấy với một hàm lượng theo quy định được đặt trên bề mặt môi trường thạch dinh dưỡng đã được trải vi khuẩn. Trong quá trình ủ, kháng sinh từ đĩa giấy khuếch tán ra môi trường thạch và ức chế sự phát triển của vi khuẩn, nhờ vậy tạo thành một vòng không có vi khuẩn mọc (gọi là vòng vô khuẩn) xung quanh đĩa kháng sinh. Đo đường kính vòng vô khuẩn này và so với tiêu chuẩn đánh giá vòng vô khuẩn để biện luận là vi khuẩn kháng, nhạy hay trung gian đối với kháng sinh thử nghiệm. Kết quả kháng sinh đồ phương pháp khuếch tán kháng sinh trong thạch từ đĩa giấy tẩm kháng sinh (phương pháp khuếch tán) là một kết quả định tính cho biết vi khuẩn là kháng (R), nhạy (S), hay trung gian (I) đối với kháng sinh thử nghiệm. Các kết quả này cho biết trên lâm sàng nếu sử dụng kháng sinh với liều thông thường được khuyến cáo dành cho điều trị một nhiễm khuẩn nhất định nào đó thì vi khuẩn sẽ kháng hay nhạy với kháng sinh được sử dụng tương ứng với kết quả kháng sinh đồ, nếu kết quả kháng sinh đồ là trung gian thì nồng độ kháng sinh đạt trong máu hay mô nhiễm trùng có thể chưa vượt qua được nồng độ cần thiết để điều trị được bệnh do vi khuẩn này gây ra (1). Khi đọc một kết quả kháng sinh đồ, bác sĩ nên lưu ý các biện luận sau đây: Lưu ý đến kháng sinh bị đề kháng hơn là kháng sinh còn nhạy cảm: Tuy rằng kết quả kháng sinh đồ phương pháp khuếch tán cho biết vi khuẩn gây bệnh phân lập được có thể là kháng, nhạy hay trung gian với kháng sinh thử nghiệm, nhưng bác sĩ điều trị chỉ nên quan tâm đến các kháng sinh mà vi khuẩn đề kháng để tránh sử dụng kháng sinh đó trong điều trị vì xác suất để điều trị thất bại sẽ rất cao. Bác sĩ điều trị không nên quá quan tâm đến kháng sinh mà vi khuẩn nhạy cảm vì trong điều trị, các kháng sinh nhạy cảm có nên chỉ định để sử dụng hay không là tùy thuộc kháng sinh này có đáp ứng được yêu cầu dược động/dược lực (pK/pD) để đến được và cho được nồng độ tại nơi bị nhiễm trùng đủ để giết chết hay ức chế được vi khuẩn gây bệnh hay không (2). Chính vì vậy thử nghiệm kháng sinh đồ nên được xem là thử nghiệm phát hiện đề kháng kháng sinh, không nên xem là thử nghiệm phát hiện nhạy cảm kháng sinh[1]. Lưu ý đến các kháng sinh mà vi khuẩn gây bệnh thường đề kháng hay có khuynh hướng đề kháng Trước tình hình phức tạp về đề kháng và khuynh hướng đề kháng các kháng sinh của các vi khuẩn gây bệnh trong cộng đồng và trong bệnh viện hiện nay, khi đọc kết quả kháng sinh đồ thường quy từ phòng thí nghiệm lâm sàng, các bác sĩ điều trị phải ưu tiên lưu ý cho được các kết quả về đề kháng các kháng sinh đó. Cụ thể là: + Các kháng sinh cần quan tâm khi đọc kết quả kháng sinh đồ Heamophilus influenzae và Hướng dẫn thực hành: BIỆN LUẬN TÍNH NHẠy CẢM KHÁNG SINH CỦA VI KHUẨN GÂy BỆNH TRÊN KẾT QUẢ XÉT NGHIỆM IN VITRO TS.BS PHẠM HùNG VÂN E-mail: [email protected] Hướng dẫn tHực HànH 34 Hô hấp số 19/2019 Moraxella catarrhalis: Đối với H. influenzae và M. catarrhalis thì cần quan tâm trước hết là vi khuẩn có tiết b-lactamase hay không vì nếu vi khuẩn không tiết enzyme b-lactamase thì kháng sinh hữu hiệu vẫn là ampicillin hay amoxicillin. Ngược lại nếu vi khuẩn tiết b-lactamase thì các kháng sinh cephalosporin thế hệ 2, b-lactam phối hợp ức chế b-lactamase là đủ hiệu quả mà không cần thiết phải đọc kết quả kháng sinh đồ[1,3]. Chỉ cần đọc kết quả kháng sinh đồ các kháng sinh khác khi bệnh nhân có tiền sử bị quá mẫn hay dị ứng với b-lactam. + Các kháng sinh cần quan tâm khi đọc kết quả kháng sinh đồ Streptococcus pneumoniae: Hiện nay S. pneumoniae chỉ đề kháng penicillin dạng uống (penicillin V) và có tỷ lệ cao kháng các kháng sinh đầu tay sử dụng trong cộng đồng như các cephalosporin thế hệ 2, macrolide, co- trimoxazol, tetracycline, và chlroramphenicol (3); do vậy khi đọc kết quả kháng sinh đồ bác sĩ nên để ý xem vi khuẩn S. pneumoniae có đề kháng các kháng sinh này không? Nếu vi khuẩn vẫn còn nhạy cảm thì có thể sử dụng trong điều trị. Nếu vi khuẩn đề kháng thì phải xét đến các kháng sinh khác mà vi khuẩn được ghi nhận là có tỷ lệ nhạy cảm cao như penicillin, amoxicillin, ampicillin, ceftriaxone, moxifloxacin, levofloxacin và ofloxacin để có thể sử dụng kháng sinh không bị đề kháng theo đúng dược động. Tuy nhiên phải làm kháng sinh đồ tìm MIC mới có thể phát hiện các kháng sinh này kháng hay nhạy. + Các kháng sinh cần quan tâm khi đọc kết quả kháng sinh đồ streptococci: Streptococci không phải enterococci hiện nay vẫn còn nhạy cảm cao với penicillin và ampicillin, do vậy khi đọc kết quả kháng sinh thì cần phải quan tâm vi khuẩn có kháng các kháng sinh này hay không? Nếu vi khuẩn đề kháng các kháng sinh này hay bệnh nhân dị ứng b-lactam thì mới cần thiết phải quan tâm đến các kháng sinh khác như macrolide, fluoroquinolone, vancomycin Enterococci hiện đang có thêm vấn đề đề kháng vancomycin do vậy khi đọc kết quả kháng sinh đồ enterococci thì cần phải quan tâm thêm vi khuẩn có kháng vancomycin hay không. Riêng kháng sinh aminoglycoside thường không có hiệu quả trong điều trị lâm sàng với enterococci mặc dù có thể có hoạt tính trên kết quả kháng sinh đồ. Tuy nhiên kháng sinh aminoglycoside lại rất có hiệu quả trên những nhiễm khuẩn nặng do enterococci như viêm nội tâm mạc nếu vi khuẩn enterococci gây bệnh phân lập được từ bệnh nhân không đề kháng cao với aminoglycoside. Chính vì vậy bác sĩ nên chỉ định thêm kháng sinh đồ phát hiện enterococci đề kháng aminoglycoside nồng độ cao (High level aminoglycoside resistance = HLAR) (1,2), nếu không có HLAR thì có thể chỉ định phối hợp aminoglycoside với ampicillin hay vancomycin. + Các kháng sinh cần quan tâm khi đọc kết quả kháng sinh đồ staphylococci: Đối với staphylococci bao gồm S. aureus và staphylococci không phải S. aureus; (i) trước hết cần phải xem vi khuẩn có kháng penicillin hay không, nếu không kháng penicillin thì không cần phải xem các kháng sinh khác vì chỉ cần sử dụng penicillin là điều trị hiệu quả. (ii) Nếu vi khuẩn kháng penicillin thì phải xem tiếp vi khuẩn có kháng methicillin hay không, nếu vi khuẩn không kháng methicillin thì có thể điều trị dễ dàng bằng các kháng sinh bền vững với penicillinase như oxacillin, các cephalosporin thế hệ 2, các b-lactam phối hợp ức chế b-lactamase. (iii) Nếu vi khuẩn kháng methicillin và có nguồn gốc từ nhiễm khuẩn cộng đồng thì xem các kháng sinh aminoglycoside, macrolide, lincosamide (phải xem có bị đề kháng cảm ứng do macrolide hay không), cotrimoxazol, rifampicine và fluoroquinolone có kháng sinh nào nhạy cảm không để sử dụng điều trị và phải phối hợp kháng sinh. (iv) Nếu vi khuẩn kháng methicillin có nguồn gốc nhiễm khuẩn bệnh viện hay vi khuẩn có nguồn gốc nhiễm khuẩn cộng đồng và kháng các kháng sinh đã xem xét ở phần trên thì phải xem kết quả kháng sinh đồ MIC của vancomycin, nếu ≥ 2µg/ml thì không nên sử dụng vancomycin để điều trị vì nguy cơ thất bại lâm sàng và phải chuyển sang các kháng sinh đặc trị MRS khác tùy dược động của kháng sinh đó. Hướng dẫn tHực HànH 35 Hô hấp số 19/2019 Trên Staphylococci còn có một kiểu hình vi khuẩn nhạy clindamycin nhưng bác sĩ vẫn có thể thất bại điều trị với clindamycin, lý do là vi khuẩn có thể kháng clindamycin nếu bị cảm ứng bởi macrolide. Chính vì vậy nếu kết quả kháng sinh đồ cho thấy vi khuẩn nhạy clindamycin nhưng thực tế điều trị là thất bại thì chúng ta có thể nghi ngờ vi khuẩn đề kháng clindamycin do bị cảm ứng bởi macrolide và có thể yêu cầu phòng thí nghiệm xác minh lại kiểu hình đề kháng này. Cách xác minh cũng rất đơn giản, đó là đặt đĩa kháng sinh erythromycin gần đĩa kháng sinh clindamycin, nếu kết quả vòng vô khuẩn của clindamycin bị hẹp lại ở phía đặt đĩa kháng sinh erythromycin thì có thể kết luận là vi khuẩn bị kháng clindamycin do cảm ứng bởi erythromycin và như vậy thì sẽ không thể dùng clindamycin trong điều trị (1,2). + Các kháng sinh cần quan tâm khi đọc kết quả kháng sinh đồ các trực khuẩn Gram [-] thuộc họ Enterobacteriaceae: Đối với trực khuẩn Gram [-] thuộc họ Enterobacteriaceae thì quan trọng nhất là phải xem có tiết ESBL hay không vì nếu vi khuẩn tiết ESBL thì không thể sử dụng cephalosporin các thế hệ để điều trị, và nguy cơ thất bại với aminoglycoside cũng như fluoroquinolone sẽ rất cao do vi khuẩn ESBL [+] thường có tỷ lệ cao kháng hai nhóm kháng sinh này. Khi đó kháng sinh mà lâm sàng nên sử dụng là carbapenem. Nếu vi khuẩn không tiết ESBL thì có thể lựa chọn các kháng sinh cephalosporin thế hệ 3 hay 4 tùy theo kháng sinh đồ và tùy theo dược động. Hiện nay CLSI đã thay đổi tiêu chuẩn biện luận các cephalosporin thế hệ 3 bằng cách thay đổi điểm gãy đường kính vòng vô khuẩn và điểm gãy MIC[1,2], do vậy các phòng thí nghiệm lâm sàng không cần thiết phải làm xét nghiệm phát hiện ESBL và như vậy thì khi đọc kết quả kháng sinh đồ các bác sĩ điều trị nên lưu ý trước hết các cephalosporin thế hệ 3 và thế hệ 4 để tránh sử dụng các kháng sinh khi vi khuẩn đề kháng và chỉ lựa chọn các kháng sinh nhạy cảm và phù hợp dược động trong điều trị. Ngoài ra trên vi khuẩn Enterobacteriaceae còn có một đề kháng mà thường hay bị các phòng thí nghiệm bỏ sót đó là đề kháng do gene AmpC cảm ứng hay còn gọi là chromosomal AmpC. Kiểu hình của đề kháng này là kết quả kháng sinh đồ cho thấy vi khuẩn còn nhạy cảm với các cephalosporin thế hệ 3 nhưng trong điều trị vẫn có thể bị thất bại. Lý do của sự thất bại điều trị này là do vi khuẩn sẽ bị các cephalosporin thế hệ 3 mà bác sĩ đang dùng trên bệnh nhân cảm ứng để bộc lộ kiểu hình kháng cephalosporin thế hệ 3. Chính vì vậy nếu kết quả kháng sinh đồ cho thấy vi khuẩn còn nhạy với cephalosporin thế hệ 3 nhưng thực thế điều trị là thất bại thì bác sĩ phải nghi ngờ nguyên do vi khuẩn có AmpC cảm ứng và yêu cầu phòng thí nghiệm xét nghiệm thêm AmpC cảm ứng. Xét nghiệm này rất dễ thực hiện nhờ các đặt đĩa kháng sinh cefoxitin, một kháng sinh gây cảm ứng AmpC, gần các đĩa cephalosporin thế hệ 3 thì sẽ thấy vòng vô khuẩn của cephalosporin sẽ bị hẹp lại ở phía có đĩa cefoxitin (1,2). Trong trường hợp này bác sĩ không nên chỉ định hay tiếp tục điều trị bệnh nhân với các cephalosporin thế hệ 3. + Các kháng sinh cần quan tâm khi đọc kết quả kháng sinh đồ Pseudomonas aeruginosa: Pseudomonas aeruginosa đề kháng các cephalosporin không phải chủ yếu là tiết ESBL mà bằng các cơ chế khác như khép kênh porin và hình thành bơm thải chủ động (1). Do vậy trên P. aeruginosa thì không cần thiết phải đọc kết quả ESBL mà trước hết nên quan tâm đến các kháng sinh cephalosporin dành cho Pseudomonas như ceftazidim, cefoperazone, hay carbapenem (imipenem, meropenem) hoặc các phối hợp kháng sinh rất hiệu quả trên tác nhân P. aeruginosa như piperacillin/tazobactam, ticarcillin/clavulanic, hay cefoperazone/sulbactam để tránh sử dụng các kháng sinh mà vi khuẩn đề kháng. + Các kháng sinh cần quan tâm khi đọc kết quả kháng sinh đồ Acinetobacter baumannii: Cũng giống như P. aeruginosa, A. baumannii đề kháng các cephalosporin không phải chủ yếu là tiết ESBL mà bằng các cơ chế khác như khép kênh porin, hình thành bơm thải chủ động, hay sản xuất các carbapenemase[1]. Hiện nay đa số A. baumannii gây nhiễm khuẩn bệnh viện là đề kháng Hướng dẫn tHực HànH 36 Hô hấp số 19/2019 diện rộng (XDR) kể cả imipenem và meropenem. Các kháng sinh mà chúng ta nên quan tâm trên kháng sinh đồ A. baumannii là imipenem, meropenem, colistin (MIC), ripampicin, và doxycycline để có thể lựa chọn kháng sinh điều trị phù hợp. Lưu ý là vi khuẩn có thể đề kháng meropenem hay imipenem, nhưng kết hợp các carbapenem này với colistin vẫn có thể mang lại hiệu quả hiệp đồng, do vậy nếu phòng thí nghiệm có phương tiện làm phối hợp kháng sinh thì nên yêu cầu xét nghiệm phối hợp kháng sinh giữa một carbapenem với colistin để xem có hiệp đồng hay không? Các kết quả kháng sinh đồ bất thường cần phải xem lại Một số kết quả kháng sinh đồ có thể được xem là bất thường, nên yêu cầu phòng thí nghiệm kiểm tra lại định danh có đúng không và kháng sinh đồ có chính xác không (1-3), đó là: + Các vi khuẩn E. coli, K. pneumoniae, Proteus spp. hay Enterobacter spp. đề kháng hoặc trung gian với các kháng sinh carbapenem (ertapenem, imipenem, meropenem hay doripenem): Lý do là hiện nay tại Việt Nam, các vi khuẩn này vẫn được ghi nhận là nhạy cảm với carbapenem nhưng đã có thấp thoáng nguy cơ kháng carbapenem do sở hữu các gen như KPC hay NDM1 giúp vi khuẩn tiết được carbapenemase và các gene này có thể lây lan nhanh trong bệnh viện. Chính vì vậy nên việc xác định lại kết quả này là rất cần thiết để sớm phát hiện được nguy cơ hiện diện các chủng KPC hay NDM1 giúp khoa chống nhiễm khuẩn bệnh viện có biện pháp ngăn chận lây lan (1,2 ). + Các vi khuẩn C. freundii, Enterobacter, và S. marcescens nhạy với ampicillin, cephalothin, cefazolin. Vi khuẩn P. vulgaris, Providencia, và Klebsiella nhạy với ampicillin, amoxicillin. Vi khuẩn S. maltophilia nhạy với carbepenem. Vi khuẩn P. aeruginosa hay A. baumannii nhạy với ertapenem. Lý do là các vi khuẩn liệt kê trên là có đặc điểm đề kháng nội tại với các kháng sinh tương ứng kể trên. Nếu kết quả khác biệt thì có thể do định danh vi khuẩn chưa chính xác (1,2 ). + Các đề kháng bất thường như: (i) H. influenzae không nhạy (không gọi là kháng vì chưa có ghi nhận đề kháng) với aztreonam, carbepenem, cephalosporin thế hệ 3, fluoroquinolone. (ii) N. gonorhoeae không nhạy với các cephalosporin thế hệ 3. (iii) E. faecalis kháng với ampicillin, penicillin, linezolid. (iv) E. faecium kháng với linezolid. (v) Staphylococcus trung gian hoặc kháng với vancomycin, linezolid. (vi) S. pneumoniae kháng với fluoroquinolone, không nhạy với linezolid và vancomycin. (vii) Streptococcus tiêu huyết b không nhạy với ampicillin, penicillin, cephalosporin thế hệ 3, linezolid, và vancomycin. (viii) Viridans streptococci không nhạy với vancomycin, và linezolid. (ix) Acinetobacter baumannii kháng với colistin. Gọi là đề kháng bất thường vì hiện nay các vi khuẩn này vẫn chưa bị ghi nhận là có đề kháng các kháng sinh trên hay nếu có thì tỷ lệ đề kháng còn rất thấp và rất hiếm (1,2). Chính vì vậy kết quả bất thường này phải được lưu ý và yêu cầu kiểm tra lại về sự chính xác trong khâu kỹ thuật kháng sinh đồ và nhất là trong khâu định danh. Từ kết quả kháng sinh đồ có thể suy ra kết quả của một số các kháng sinh trong cùng họ Một số kết quả kháng sinh đồ có thể suy ra kết quả của kháng sinh cùng họ hoặc cùng thế hệ mà không cần ... Lý do là vì có thể vi khuẩn xuất hiện đề kháng ngay trong quá trình điều trị, đặc biệt trên các bệnh nhân nặng và suy kiệt làm cho hệ thống miễn dịch của bệnh nhân không còn đủ sức để loại trừ các chủng đột biến kháng thuốc ngay trong quá trình điều trị. Đó là các vi khuẩn: Enterobacter, Citrobacter, và Serratia đối với cephalosporin thế hệ 3, Staphylococcus với fluoroquinolone, A. baumannii và P. aeruginosa đối với các cephalosporin hay các carbapenem (1,2). Một số vi khuẩn có thể cho kết quả nhạy cảm giả đối với kháng sinh đồ phương pháp khuếch tán từ đĩa kháng sinh (1,2). Đó là: (i) Enterobacter đối với cefdinir, loracarbef, (ii) Citrobacter đối với cefdinir, loracarbef. (iii) Providencia đối với cefdinir, loracarbef, cefproxil. (iv) M. morganii đối với cefoxitin, cefpodoxim, cefetamet. Biện luận kết quả kháng sinh đồ tìm MIC Kháng sinh đồ phương pháp khuếch tán cho một kết quả định tính và chỉ là một kết quả từ thí nghiệm ngoài cơ thể sống (in-vitro) chứ không phải là một kết quả có mối liên quan trực tiếp đến kháng sinh được sử dụng trên bệnh nhân. Lý do là kết quả này không thể nói được liều và cách dùng kháng sinh trên bệnh nhân là thật sự có hiệu quả hay không. Kháng sinh đồ phương pháp tìm MIC (phương pháp MIC) không cho kết quả định tính mà cho một kết quả định lượng, đó là MIC (Minimal Inhibitory Concentration, nồng độ ức chế tối thiểu). MIC là nồng độ tối thiểu của kháng sinh ngăn chặn được vi khuẩn. Nguyên tắc để xác định MIC là cho vi khuẩn thử nghiệm tiếp xúc với các nồng độ kháng sinh pha loãng dần trong môi trường dinh dưỡng rồi xác định nồng độ thấp nhất của kháng sinh ngăn chặn không cho vi khuẩn phát triển được trong môi trường dinh dưỡng đó. Nguyên tắc đơn giản như vậy, nhưng để thống nhất được cách đọc và biện luận kết quả thì các phương pháp tìm MIC đòi hỏi khi thực hiện phải đạt được các chuẩn mực qui định về môi trường làm kháng sinh đồ, về chuẩn bị vi khuẩn làm thử nghiệm, và về thời gian nuôi ủ trước khi đọc kết quả. Các chuẩn mực này có thể khác nhau tùy thuộc phương pháp được sử dụng là phương pháp nào. Với kết quả MIC, bác sĩ điều trị có thể tiên đoán hiệu quả của kháng sinh mà mình điều trị trên bệnh nhân theo khuyến cáo bằng cách so sánh nồng độ hữu dụng của kháng sinh đạt được trong dịch cơ thể của bệnh nhân (được gọi là điểm gãy pK/pD) với MIC của kháng sinh đối với vi khuẩn. Nếu điểm gãy pK/pD của kháng sinh bằng hay cao hơn MIC thì vi khuẩn nhạy với kháng sinh và điều trị kháng sinh sẽ hiệu quả, nếu thấp hơn MIC thì vi khuẩn đề kháng với kháng sinh và sẽ bị thất bại điều trị. Ngoài ra, dựa vào kết quả MIC bác sĩ có thể điều chỉnh liều và cách cho kháng sinh trên bệnh nhân nhằm đưa điểm gãy pK/pD của kháng sinh lên bằng hay cao hơn MIC của kháng sinh đối với vi khuẩn để đạt được hiệu quả điều trị. Chúng tôi xin trình bày các trường hợp áp dụng cụ thể như sau: Dựa trên kết quả MIC lựa chọn kháng sinh hay công thức kháng sinh để điều trị là các kháng sinh có điểm gãy pKpD cao hơn hay bằng MIC của kháng sinh đối với vi khuẩn Ví dụ trên một bệnh nhân người lới bị nhiễm trùng hô hấp, vi khuẩn S. pneumoniae phân lập được có kết quả MIC của amoxicillin/clavulanic acid là 2µg/ml, bác sĩ có thể sử dụng liều amoxicillin 500/125 dùng 3 lần trong ngày (tid), hay 875/125 dùng hai lần trong ngày (bid) vì với công thức và liều dùng như vậy, điểm gãy pK/pD của kháng sinh vẫn đạt 2µg/ml (duy trì trong 40 - 43% liều). Nhưng nếu kết quả MIC là 4µg/ml thì bác sĩ phải Hướng dẫn tHực HànH 38 Hô hấp số 19/2019 chọn công thức 1.000/125 dùng ba lần trong ngày, hay công thức 2.000/125 dùng hai lần trong ngày vì với công thức và liều dùng này thì điểm gãy pK/pD của kháng sinh có thể đạt đến 4µg/ml (duy trì trong 41 - 49% thời gian liều). Cũng phân tích tương tự như vậy, trên bệnh nhân trẻ em các bác sĩ có thể sử dụng công thức 250/62,5mg/5ml với liều 40/10mg/kg/ngày chia làm ba lần, hay công thức 400/57mg/5ml với liều dùng 45/6,4mg/kg/ ngày chia hai lần để điều trị bệnh nhân trẻ em nếu MIC của ampxicillin/clavulanic acid đối với S. pneumoniae phân lập được là 2µg/ml, còn công thức 600/42,9mg liều dùng 90/6,4mg/kg/ ngày chia hai lần chỉ cần được dùng một khi S. pneumoniae phân lập được có MIC đối với amox/ clav acid tăng lên 4µg/ml. Các bảng 1, 2, 3, và 4 sau đây sẽ giúp các bác sĩ điều trị có thể tham khảo để biết điểm gãy pK/pD của một số kháng sinh (4,5). Bảng 1. Điểm gãy pK/pD của các fluoroquinolones (4) Kháng sinh Liều sử dụng Điểm gãy pK/ pD Kháng sinh Liều sử dụng Điểm gãy pK/ pD Ciprofloxacin 500mg/bid b1(0,5)µg/ml Levofloxacin 500mg/qd b2(1)µg/ml Ciprofloxacin 750mg/bid b1(1)µg/ml Sparfloxacina 200mg qd b0.5(0,25)µg/ml Ofloxacin 400mg/bid b2(2)µg/ml Gatifloxacin 400mg/qd b1(1)µg/ml Moxifloxacin 400mg/qd b2(1)µg/ml aSau khi đã cho liều ban đầu 400ug; btrị số trong ngoặc () là điểm gãy pK/pD của thuốc tự do trong huyết thanh Bảng 2. Tỷ lệ % thời gian duy trì được nồng độ tối thiểu 1µg/ml, 2µg/ml, 4µg/ml và 8µg/ml so với thời gian liều các loại công thức amox/clav và cách cho thuốc (5) Công thức % thời gian đạt nồng độ so với thời gian liều Amox/Clav người lớn Liều 1µg/ml 2µg/ml 4µg/ml 8µg/ml 250/125 Tid 40% 500/125 Tid 55% → 43% 875/125 Bid 44% → 40% 875/125 Tid 69% 57% 34% 1000/125 Tid >65% 55% → 41% 2000/125 Bid >70% 60% → 49% 35% Công thức % thời gian đạt nồng độ so với thời gian liều Amox/Clav trẻ em Liều 1µg/ml 2µg/ml 4µg/ml 8µg/ml 125/31,25 hay 250/62,5 mg/5 ml (4:1) 40/10 mg/kg/day tid 59% → 44% 200/28,5 hay 400/57 mg/5 ml (7:1) 45/6,4 mg/kg/day bid 50% → 41% 600/42,9 mg/5 ml (14:1) 90/6,4 mg/kg/day bid 61% 50% → 41% Hướng dẫn tHực HànH 39 Hô hấp số 19/2019 Thay đổi cách sử dụng kháng sinh để nâng điểm gãy pK/pD vượt trên MIC của kháng sinh đối với vi khuẩn Đặc biệt đối với các β-lactam đường chích, thay vì sử dụng kháng sinh truyền tĩnh mạch cách khoảng bằng truyền tĩnh mạch liên tục và kéo dài có thể đưa nồng độ của kháng sinh lên cao vượt qua MIC 90 của vi khuẩn. Hình 1 minh họa cách thay đổi liều và thay đổi từ cách truyền tĩnh mạch cách khoảng sang cách truyền liên tục để đưa nồng độ kháng sinh imipenem vượt qua các mức độ MIC của vi khuẩn (6). Hay là đối với kháng sinh piperacillin/tazobactam, nếu truyền tĩnh mạch 3g trong 30 phút mỗi 4 giờ, hay 3g trong 4 giờ mỗi 8 giờ thì sẽ có 100% thời gian nồng độ kháng sinh đạt 2mg/L, hay 90% thời gian nồng độ kháng sinh đạt 4mg/L, hay 70% thời gian nồng độ kháng sinh đạt 8mg/L, và 55% thời gian kháng sinh đạt nồng 16mg/L. Trong khi đó nếu truyền tĩnh mạch 9g liên tục trong 24 giờ thì 100% thời gian kháng sinh đạt nồng độ 16mg/L. Bảng 3. Điểm gãy pK/pD của các kháng sinh β-lactam cho bằng đường chích (4) Kháng sinh Liều sử dụng Điểm gãy pK/pD Penicillin G 2 x 106 UI qid 4µg/ml Ampicillin 1g qid 2µg/ml Cefuroxime 0,75g tid 4µg/ml Cefotaxime 1g tid 2µg/ml Ceftriaxoneb 1g od 2µg/ml Cefepime 1g bid 4µg/ml Ceftazidime 1g tid 8µg/ml Meropenem 0,5g tid 1µg/ml bDựa trên nồng độ tự do trong huyết thanh; bid: 2 lần/ngày; tid: 3 lần/ngày; qid: 4 lần/ngày; od: 1lần/ngày Bảng 4. Điểm gãy pK/pD của các kháng sinh β-lactam cho bằng đường uống (4) Kháng sinh Liều người lớn Liều trẻ em Điểm gãy pK/pD Amoxicillin 500mg/tid 40mg/kg/ngày tid 2µg/ml Amoxicillin 875mg/bid 45mg/kg/ngày bid 2µg/ml Amox/Clava 500mg/tid 40mg/kg/ngày tid 2µg/ml Amox/Clava 875mg/bid 45mg/kg/ngày bid 2µg/ml Cefaclor 500mg/tid 40mg/kg/ngày tid 0,5µg/ml Cefuroxime 500mg/bid 30mg/kg/ngày bid 1µg/ml Cefprozil 500mg/bid 30mg/kg/ngày bid 1µg/ml Loracarbef 400mg/bid 30mg/kg/ngày bid 0,5µg/ml Cefixime 400mg/qd 8mg/kg/ngày od 0,5µg/ml aDựa trên lượng amoxicillin; bid: 2 lần/ngày; tid: 3 lần/ngày; od: 1lần/ngày Hướng dẫn tHực HànH 40 Hô hấp số 19/2019 Hình 1. Thay đổi cách truyền tĩnh mạch kháng sinh imipenem sẽ thay đổi điểm gãy pK/PD của imipenem trên bệnh nhân Sử dụng phối hợp kháng sinh để có được hiệp quả hiệu đồng làm giảm MIC của kháng sinh đối với vi khuẩn gây bệnh Ví dụ một kết quả vi sinh mẫu đàm từ bệnh nhân viêm phổi thở máy xác định được tác nhân là A. baumannii kháng với tất cả các loại kháng sinh ngoại trừ colistin với MIC là 2mg/L và MIC của meropenem là 64mg/L. Với MIC của colistin là 2mg/L thì các bác sĩ sẽ khó có thể đưa được nồng độ colistin trong máu lên được 2mg/L dù với khuyến cáo là liều tải ban đầu 6MU đến 12MU, sau đó cho 3MUI mỗi 8 giờ hay 4,5MUI mỗi 12 giờ như theo những nghiên cứu về pK/ pD của colistin hiện nay (7). Tuy nhiên việc phối hợp kháng sinh điều trị colistin + meropenem hay colistin + imipenem là có thể mang đến hy vọng đạt hiệu quả điều trị vì theo các nghiên cứu mà chúng tôi đã thực hiện (1,8) thì hiệu quả chỉ cần nồng độ colistin đạt 0.5mg/L là có thể làm cho 75% (đối với meropenem) hay 73.2% (đối với imipenem) từ đề kháng trở nên nhạy cảm; thậm chí chỉ cần colistin đạt nồng độ 0,25mg/L (là nồng độ mà colistin rất dễ đạt được ngay trong những giờ đầu) thì cũng đã có 45.6% (meropenem) hay 16% (imipenem) từ đề kháng trở nên nhạy cảm. Không nên nhầm lẫn kết quả kháng sinh đồ từ các máy Vitec 2 hay Phoenix (định danh và kháng sinh đồ tự động) là MIC Các thiết bị như Vitec 2, Phoenix cho phép chúng ta định danh và làm kháng sinh đồ trên một card với nguyên tắc kháng sinh đồ là cho huyền dịch vi khuẩn vào giếng chứa các kháng sinh ở một hay hai nồng độ điểm gãy rồi đọc kết quả sau khi ủ. Nếu vi khuẩn mọc được ở nồng độ điểm gãy thì máy đọc là kháng, còn không mọc được thì máy đọc là nhạy. Chính vì vậy kết quả thường được hiển thị là MIC > nồng độ điểm gãy (kháng) hay ≤ nồng độ điểm gãy (nhạy). Chúng ta không nên lầm tưởng kết quả này là MIC vì kết quả này không khác biệt với kết quả kháng sinh đồ phương pháp khuếch tán (từ kết quả kháng hay nhạy của phương pháp khuếch tán, phòng thí nghiệm hoàn toàn có thể đưa ra kết quả nồng độ điểm gãy (2)). Với các thiết bị định danh và kháng sinh đồ tự động này, nếu muốn thực hiện kháng sinh đồ MIC thì phòng thí nghiệm phải đặc các card làm MIC riêng cho các kháng sinh mà lâm sàng cần và như vậy thì chi phí sẽ cao hơn nhiều so với làm MIC bằng phương pháp vi pha loãng hay Etest. Các trường hợp nào cần thiết phải làm kháng sinh đồ MIC Với điều kiện hiện nay thì thật ra các bác sĩ cũng không nhất thiết phải yêu cầu có được kháng sinh đồ làm MIC trong tất cả mọi trường hợp ngoại trừ các trường hợp sau đây (1): + Một số các trường hợp nhiễm trùng nặng mà mà bác sĩ điều trị chỉ có trong tay các kháng sinh đặc trị đã bị ghi nhận đề kháng vừa hay tác nhân vi khuẩn gây bệnh là đa kháng, lúc này bác sĩ điều trị rất cần phải có MIC của các kháng sinh đặc trị này để xem xét có thể nâng liều lượng của kháng sinh khi sử dụng trên bệnh nhân đến mức nào để có hiệu quả. + Một số trường hợp nhiễm trùng dai dẳng, nhiễm trùng ở các vị trí thuốc khó tác động vào thì việc chỉ định kháng sinh đồ theo MIC cũng cần thiết để bác sĩ điều trị có thể duy trì thuốc ở nồng độ hữu dụng cao hơn MIC của vi khuẩn gây bệnh. Hướng dẫn tHực HànH 41 Hô hấp số 19/2019 + Trên một số trường hợp cần phải chủ động liều lượng của kháng sinh tránh độc tính cho bệnh nhân thì thông số MIC cũng cần thiết để nhà điều trị chủ động được liều lượng kháng sinh cho bệnh nhân chỉ ở mức cần thiết. + Một số vi khuẩn mà tiêu chuẩn biện luận kháng hay nhạy đối với một số kháng sinh phải dựa trên MIC của các kháng sinh đó vì không có tiêu chuẩn biện luận dựa trên đường kính vòng vô khuẩn ví dụ: (i) A. baumannii các kháng sinh colistin, nitilmycin; (ii) B. cepacia các kháng sinh ticarcillin/clavulanic, levofloxacin và chloramphenicol; (iii) Staphylococci với vancomycin và daptomycin; (iv) Trực khuẩn non-enterobacteriaceae không phải P. aeruginosa, A. baumannii, và B. cepacia với tất cả các kháng sinh trong tiêu chuẩn phải làm kháng sinh đồ; (v) Enterococci với daptomycin; (vi) S. pneumoniae với penicillin, cephalosporin, và carbapenem; (vii) Viridans streptococci với penicillin, ampicillin, daptomycin và các carbapenem; (viii) Streptococci tiêu huyết beta với daptomycin và carbapenem; (ix) N. meningitidis với penicillin, ampicillin, levofloxacin và sulfisoxazol; (x) vi khuẩn kỵ khí cho các kháng sinh. 2. KẾT LUẬN Gánh nặng hiện nay mà các bác sĩ điều trị phải đối diện hàng ngày chính là vấn đề vi khuẩn đề kháng các kháng sinh. Đây chính là nguyên do đã làm các bác sĩ bị thất bại điều trị kháng sinh bước đầu trên các bệnh nhân bị nhiễm trùng. Để giảm thiểu được gánh nặng này, bác sĩ phải điều chỉnh cho được kháng sinh bước đầu đã cho trên bệnh nhân dựa vào kết quả kháng sinh đồ vi khuẩn phân lập được. Chính vì vậy sự hiểu biết và biện luận được các kết quả kháng sinh đồ là một trong các yếu tố quan trọng giúp bác sĩ có được phát đồ kháng sinh điều chỉnh một cách hiệu quả trên bệnh nhân và góp phần làm chậm đi sự phát triển đề kháng kháng sinh của vi khuẩn gây bệnh. Chúng tôi mong bài viết này sẽ cung cấp được các kiến thức cần thiết và hữu dụng cho các bác sĩ. Do kiến thức cũng còn hạn chế và có thể chưa đủ cập nhật nên cũng không tránh khỏi các sai sót nên chúng tôi rất mong nhận được các ý kiến phản hồi của các độc giả về nội dung được trình bày trong bài viết này. Tài liệu tham khảo 1. Phạm Hùng Vân. (2013). Kháng sinh – Đề kháng kháng sinh – Kỹ thuật kháng sinh đồ. Nhà xuất bản Y Học 2. CLSI. (2013). CLSI. (2013). Performance Standards for Antimicrobial Susceptibility Testing; Informational Supplement 3. Phạm Hùng Vân. và cộng sự. (2012). Tình hình đề kháng các kháng sinh của S. pneumoniae và H. influenzae phân lập từ nhiễm khuẩn hô hấp cấp - Kết quả nghiên cứu đa trung tâm thực hiện tại Việt Nam (SOAR) 2010 – 2011. Tạp Chí Y Học Thực Hành. 12(855). 4. Jacob MR. (2001). Optimizing of antimicrobial therapy using pharmacokinetic and pharmacodynamic characters. Clin. Microbiol. Infect. 7: 589-596. 5. White AR. et al. (2004). Amox/Clav (amoxicillin/ clavulanate) in the treatment of community-acquired respiratory tract infection: a review of the continuing development of an innovative antimicrobial agent. Journal of Antimicrobial Chemotherapy.53(S1): i3–i20 6. Lee LS. et al. (2010). Comparison of 30-min and 3-h infusion regimens for imipenem/cilastatin and for meropenem evaluated by Monte Carlo simulation. Diagnostic Microbiology and Infectious Disease. 68: 251–258. 7. Ami FM. et al. (2012). Application of a Loading Dose of Colistin Methanesulfonate in Critically Ill Patients: Population Pharmacokinetics, Protein Binding, and Prediction of Bacterial Kill. Antimicrob. Agents Chemother. 56(8): 4241-4249 8. Van PH. et al. (2015). Study the invitro effectivity of colistin in combination with imipenem and meropenem on the multidrug-resistant Acinetobacter baumannii. Outstanding Poster Award. ISSAR 2015
File đính kèm:
huong_dan_thuc_hanh_bien_luan_tinh_nhay_cam_khang_sinh_cua_v.pdf

