Hợp tác quốc tế chống xói mòn cơ sở thuế và chuyển lợi nhuận

Những năm gần đây, đa số các quốc gia trên thế giới đã có những thay đổi về chính sách thuế

nhằm thích ứng với quá trình toàn cầu hóa và những thách thức từ sự phát triển của nền kinh tế

số. Xói mòn cơ sở tính thuế và chuyển lợi nhuận là một thách thức lớn đối với chính phủ các nước,

đặc biệt là các nước đang phát triển. Nhiều nước đã xây dựng các chuẩn mực mới để bảo vệ cơ sở

tính thuế và nguồn thu ngân sách, đồng thời cũng tăng cường các hoạt động hợp tác quốc tế thực

hiện các giải pháp chống xói mòn cơ sở thuế và chuyển lợi nhuận.

pdf 4 trang phuongnguyen 220
Bạn đang xem tài liệu "Hợp tác quốc tế chống xói mòn cơ sở thuế và chuyển lợi nhuận", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Hợp tác quốc tế chống xói mòn cơ sở thuế và chuyển lợi nhuận

Hợp tác quốc tế chống xói mòn cơ sở thuế và chuyển lợi nhuận
TÀI CHÍNH - Tháng 8/2017
25
BEPS được hiểu là hành vi “trốn thuế/tránh 
thuế” của người nộp thuế, do chi phí thuế chiếm tỷ 
trọng đáng kể trong lợi nhuận kinh doanh của các 
doanh nghiệp (DN), nên để tối thiểu hóa chi phí, 
nhiều DN đã lợi dụng “khoảng trống” và những bất 
cập, hạn chế trong chính sách thuế tại những nước 
nơi DN tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh 
để chuyển lợi nhuận sang những quốc gia/vùng 
lãnh thổ có mức thuế thấp hoặc bằng không. Các kế 
hoạch này đang ngày càng trở nên phổ biến và được 
thiết lập thông qua hành vi chuyển giá, thương mại 
điện tử, vốn mỏng, hiệp định thuế, cơ sở thường 
trú hay thiên đường thuế. Điều này tác động không 
nhỏ đến môi trường kinh doanh và làm suy giảm sự 
minh bạch của hệ thống thuế, dẫn đến sự cạnh tranh 
không bình đẳng về thuế giữa các nước và làm tăng 
rủi ro tuân thủ pháp luật thuế của người nộp thuế.
Thực tiễn cho thấy, BEPS là một vấn đề mang 
tính toàn cầu, có tác động qua lại giữa các nước phát 
triển và các nước đang phát triển (giữa các nước đầu 
tư và các nước tiếp nhận đầu tư). Việc ngăn chặn 
BEPS bằng các biện pháp đơn phương của mỗi nước 
không thực sự khả thi trong khi các biện pháp song 
phương như hiện nay cũng đang mất dần tính hiệu 
lực, hiệu quả do số lượng các DN hoạt động đa quốc 
gia ngày càng tăng, quy mô lớn, giao dịch phức tạp. 
Do đó, để ngăn chặn BEPS đòi hỏi các giải pháp 
mang tính tổng thể trên cơ sở hợp tác đa phương.
Chính vì vậy, theo đề nghị của các nhà lãnh đạo 
nhóm các nền kinh tế lớn G20, các nước OECD/G20 
đã hợp tác, đề xuất một gói giải pháp tổng thể gồm 
15 hành động nhằm ngăn chặn BEPS (BEPS Pakage), 
giúp thu hẹp “khoảng trống thuế”, hạn chế những 
vướng mắc, bất cập trong hệ thống chính sách của 
Yêu cầu thực tế đòi hỏi các giải pháp 
tổng thể trên cơ sở hợp tác đa phương
Theo thống kê của Tổ chức Hợp tác và Phát triển 
kinh tế (OECD), các giao dịch thương mại nội bộ 
của các tập đoàn đa quốc gia hiện chiếm trên 30% 
giá trị thương mại toàn cầu nên rủi ro trốn, tránh 
thuế rất cao. Kết quả điều tra của OECD cho thấy, 
thất thu ngân sách nhà nước (NSNN) từ thuế thu 
nhập doanh nghiệp (TNDN) vào khoảng 4% đến 
10% số thu ngân sách từ thuế TNDN toàn cầu, tức 
là từ 100 đến 240 tỷ USD mỗi năm. Nguyên nhân 
của thực trạng này là do xói mòn cơ sở tính thuế và 
chuyển lợi nhuận (BEPS).
HỢP TÁC QUỐC TẾ CHỐNG XÓI MÒN 
CƠ SỞ THUẾ VÀ CHUYỂN LỢI NHUẬN
ThS. NGUYỄN QUANG TIẾN – Vụ trưởng, Phó trưởng Ban thường trực – Ban Cải cách và Hiện đại hóa – Tổng cục Thuế
Những năm gần đây, đa số các quốc gia trên thế giới đã có những thay đổi về chính sách thuế 
nhằm thích ứng với quá trình toàn cầu hóa và những thách thức từ sự phát triển của nền kinh tế 
số. Xói mòn cơ sở tính thuế và chuyển lợi nhuận là một thách thức lớn đối với chính phủ các nước, 
đặc biệt là các nước đang phát triển. Nhiều nước đã xây dựng các chuẩn mực mới để bảo vệ cơ sở 
tính thuế và nguồn thu ngân sách, đồng thời cũng tăng cường các hoạt động hợp tác quốc tế thực 
hiện các giải pháp chống xói mòn cơ sở thuế và chuyển lợi nhuận.
Từ khóa: Thuế, cơ sở thuế, lợi nhuận, hợp tác quốc tế, thu nhập doanh nghiệp, ngân sách nhà nước
In recent years, most of the countries have 
made changes in their tax policies to adjust 
to the globalization and challenges emerged 
from the development of digital economy. Base 
erosion and profit shifting are most challenging 
difficulties of the governments especially 
emerging countries. Many countries have 
constructed new standards to protect their tax 
bases and secure state budget. Simultaneously, 
these countries also enhance their international 
cooperation activities to conduct solutions to 
prevent base erosion and profit shifting.
Keywords: Tax, tax base, profit, international 
cooperation, corporate income, state budget
Ngày nhận bài: 4/7/2017
Ngày hoàn thiện biên tập: 29/7/2017
Ngày duyệt đăng: 30/7/2017
26
MỞ RỘNG CƠ SỞ THUẾ: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
từng nước, đảm bảo việc áp dụng nhất quán và 
minh bạch theo các chuẩn mực và thông lệ quốc tế. 
Gói giải pháp này đã được lãnh đạo các nước G20 
chính thức thông qua vào tháng 11/2015. 
Diễn đàn hợp tác chung 
và yêu cầu đối với các nước đang phát triển 
Để đảm bảo các giải pháp về BEPS được triển 
khai hiệu lực, hiệu quả, đồng thời để tiếp tục hoàn 
thiện các giải pháp này trong quá trình triển khai, 
theo khuyến nghị của các nhà lãnh đạo G20, OECD 
đã thiết lập một Diễn đàn hợp tác chung thực hiện 
các giải pháp chống xói mòn cơ sở tính thuế và 
chuyển lợi nhuận (Inclusive Framework - Diễn đàn 
IF) bao gồm các nước thành viên và không phải là 
thành viên của OECD và G20 cùng thực hiện triển 
khai Đề án BEPS trên phạm vi toàn cầu, trong đó có 
các nước đang phát triển.
Diễn đàn hợp tác chung 
Điều kiện để các nước/vùng lãnh thổ tham gia 
vào Diễn đàn chung IF là phải thực hiện đầy đủ các 
giải pháp về BEPS. Từ khi Dự án BEPS được triển 
khai và tính đến nay đã có khoảng 100 quốc gia/
vùng lãnh thổ là thành viên chính thức trực tiếp 
tham gia trao đổi về các thách thức về BEPS. Tháng 
7/2017, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên 
thứ 100 của Diễn đàn IF.
Bên cạnh các quốc gia/vùng lãnh thổ là thành 
viên và khách mời của Diễn đàn, các tổ chức quốc 
tế như: Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), OECD, Liên Hợp 
quốc (UN), Ngân hàng Thế giới (WB) cũng tham 
gia Diễn đàn với vai trò là quan sát viên nhằm thúc 
đẩy quan hệ hợp tác, trao đổi thông tin và chia sẻ 
kinh nghiệm giữa các nước trong quá trình triển 
khai BEPS, trao đổi và thảo luận về việc xây dựng 
và triển khai các chuẩn mực quốc tế về thuế và hỗ 
trợ, nâng cao năng lực cho các nước trong quá trình 
triển khai BEPS. Hiện nay, các tổ chức quốc tế này 
đã và đang thực hiện soạn thảo các báo cáo, sổ tay, 
hướng dẫn để hỗ trợ các nước đang phát triển trong 
quá trình triển khai các giải pháp ngăn chặn BEPS.
Các nước OECD/G20 đã thông qua gói giải pháp 
tổng thể ngăn chặn BEPS (gồm 15 hành động); một 
số nước cũng đã bước đầu triển khai các hành động 
trong gói giải pháp này, tùy thuộc vào trọng tâm ưu 
tiên trong công tác quản lý thuế của mỗi nước. Cụ 
thể, Vương quốc Anh đã và đang triển khai 14/15 
hành động trong gói BEPS. 
 Trong khi đó, các nước ở châu Á như Trung Quốc 
đã thực hiện rà soát các quy định ưu đãi về thuế 
không phù hợp với thông lệ quốc tế, rà soát các quy 
định của Hiệp định thuế, sửa đổi các quy định về 
xác định giá thị trường của các sản phẩm trong giao 
dịch liên kết (giá chuyển nhượng); Singapore thực 
hiện sửa đổi, bổ sung các quy định về giá chuyển 
nhượng liên quan đến nghĩa vụ chứng minh giá thị 
trường của người nộp thuế; Hồng Kông đã dự thảo 
các quy định điều chỉnh về các giao dịch tài chính 
phái sinh, quy định về nghĩa vụ cung cấp thông tin 
liên quan đến các kế hoạch tránh thuế chủ động, rà 
soát các quy định về giá chuyển nhượng...
Yêu cầu đối với các nước đang phát triển
Theo nhận định của OECD, BEPS có ý nghĩa đặc 
biệt quan trọng đối với các nước đang phát triển vì 
thuế là nguồn thu chủ yếu của NSNN, đặc biệt là 
thuế TNDN. Việc tham gia vào Diễn đàn IF sẽ giúp 
các nước có được sự hỗ trợ cần thiết để triển khai 
các giải pháp ngăn chặn BEPS hiệu quả, giúp bảo vệ 
nguồn thu và cơ sở tính thuế.
Đối với các nước không phải là thành viên của 
OECD, điều kiện tham gia Diễn đàn IF là cam kết 
thực hiện tối thiểu 4 chuẩn mực (4 hành động trong 
gói giải pháp tổng thể gồm 15 hành động nhằm 
ngăn chặn BEPS), thời gian và lộ trình tùy thuộc vào 
điều kiện và hoàn cảnh của mỗi nước để đảm bảo 
việc triển khai các chuẩn mực này nhất quán trên 
phạm vi toàn cầu, tránh chồng chéo và mâu thuẫn 
chính sách giữa các nước. Các chuẩn mực này gồm:
Thứ nhất, áp dụng các quy định ngăn ngừa lợi dụng 
Hiệp định thuế (Hành động 6): Giải pháp này được 
áp dụng thông qua việc thành lập các công ty trung 
gian tại các nước/vùng lãnh thổ chỉ với mục đích 
hưởng lợi về thuế theo quy định của Hiệp định (các 
quy định về ưu đãi miễn giảm thuế);
Thứ hai, lập hồ sơ chứng minh giá thị trường và 
nghĩa vụ lập báo cáo liên quốc gia (Hành động số 13): 
Hoạt động này để đảm bảo cơ quan thuế có đủ 
thông tin cần thiết về lợi nhuận kinh doanh của các 
DN đa quốc gia, nghĩa vụ thuế của tập đoàn và việc 
sử dụng thông tin để phân tích giá thị trường của 
các sản phẩm trong giao dịch liên kết và các rủi ro 
khác phát sinh từ BEPS. Từ đó, giúp cơ quan thuế 
tập trung nguồn lực vào công tác thanh tra, kiểm tra 
giá chuyển nhượng hiệu lực, hiệu quả hơn.
Thứ ba, thực hiện rà soát chính sách ưu đãi, miễn 
giảm thuế thu hút vốn đầu tư nhưng không phù hợp với 
thông lệ quốc tế (Hành động 5): Theo OECD, việc thực 
hiện các quy định, hướng dẫn ưu đãi thiếu minh 
bạch cho từng đối tượng cụ thể sẽ làm cho nước 
nguồn (nước phát sinh thu nhập) gặp khó khăn 
trong việc áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo 
vệ cơ sở tính thuế. Đồng thời, đối với nước cư trú 
TÀI CHÍNH - Tháng 8/2017
27
(của nhà đầu tư), việc thực hiện quản lý thuế đối với 
đối tượng cư trú sẽ thiếu hiệu quả nếu nước nguồn 
không cung cấp các thông tin liên quan. 
Để đảm bảo minh bạch, các quy định về ưu đãi 
thuế phải đáp ứng 2 điều kiện: (i) Chính sách ưu đãi 
cần quy định cụ thể, rõ ràng các điều kiện áp dụng 
đối với người nộp thuế; (ii) Các quy định ưu đãi áp 
dụng đối với từng đối tượng cụ thể cần được thông 
báo cho cơ quan thuế của nước liên quan. Các quy 
định ưu đãi không đáp ứng 2 điều kiện này được 
hiểu là không phù hợp với thông lệ quốc tế (vì dẫn 
đến sự cạnh tranh không bình đẳng giữa các nước 
trong việc thu hút vốn đầu tư, dẫn đến phân biệt đối 
xử giữa người nộp thuế).
Thứ tư, cam kết tăng cường giải quyết tranh chấp 
về thuế theo Hiệp định thuế (Hành động 14): Cam kết 
nhằm đảm bảo giải quyết tranh chấp hiệu quả và 
kịp thời các vấn đề về thuế thông qua đàm phán 
song phương giữa cơ quan thuế các nước.
Việt Nam và các giải pháp 
chống xói mòn cơ sở thuế và chuyển lợi nhuận
Trong nhiều năm qua Việt Nam đã đẩy mạnh hội 
nhập sâu, rộng vào nền kinh tế thế giới, từng bước 
gia nhập Khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA) 
năm 1996, Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) 
năm 2007 và tham gia nhiều hiệp định thương mại 
tự do song phương và khu vực.
Việc trở thành thành viên của các tổ chức này 
và tham gia các FTA đã và đang đem lại cho Việt 
Nam các lợi ích như ưu đãi thuế quan, xóa bỏ các 
rào cản phi thương mại, mở rộng thị trường xuất 
khẩu. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đã ban hành 
nhiều chính sách ưu đãi để thu hút vốn đầu tư trực 
tiếp nước ngoài (FDI) như miễn giảm tiền thuê đất, 
điều chỉnh giảm thuế thu nhập DN từ 32% (1997) 
xuống thấp dần theo lộ trình là 28% (2004), 25% 
(2009); 22% (2014) và 20% (2016). Các yếu tố này 
đã góp phần giảm chi phí đầu vào, tăng năng suất 
sản xuất, xuất khẩu, nâng cao sức cạnh tranh của 
các nhà đầu tư, đồng thời thu hút mạnh mẽ vốn 
FDI vào Việt Nam.
Trong giai đoạn 2016-2020, theo nhận định của 
Bộ Tài chính, nhiệm vụ thu ngân sách vẫn còn tiềm 
ẩn nhiều khó khăn, thách thức với những biến động 
phức tạp, khó lường do tác động của các yếu tố 
thiên tai, quá trình toàn cầu hóa, nền kinh tế số... 
Đặc biệt trong giai đoạn 2015- 2018, phần lớn các 
hiệp định thương mại mà Việt Nam đã ký kết sẽ 
bước vào giai đoạn cắt giảm và xóa bỏ thuế quan 
sâu. Thêm vào đó, FTA thế hệ mới như EVFTA (hiệp 
định thương mại giữa Việt Nam và EU) đặt ra yêu 
cầu cao hơn các FTA khác về xóa bỏ thuế nhập khẩu. 
Những yếu tố nêu trên có tác động không nhỏ đến 
mức độ thâm hụt NSNN trong những năm tới. Do 
đó, việc nghiên cứu, triển khai các giải pháp cụ thể 
để hướng tới một hệ thống thu ngân sách bền vững, 
hiệu quả là hết sức cấp thiết.
Mặt khác, tại Việt Nam, trong thời gian qua, hành 
vi “trốn thuế/tránh thuế” được thể hiện rõ nhất là 
hành vi “chuyển giá” của các DN, tập trung chủ yếu 
vào khối DN có vốn đầu tư nước ngoài hay các giao 
dịch qua biên giới trong lĩnh vực thương mại điện 
tử, một số DN nước ngoài có hoạt động kinh doanh 
thương mại điện tử và có thu nhập phát sinh tại Việt 
Nam nhưng chưa thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thuế. 
Từ bối cảnh trên, để chủ động ngăn chặn BEPS, Việt 
Nam đã có các biện pháp tương đối mạnh để làm 
chủ, xử lý việc lạm dụng hiệp định thuế của Việt 
Nam với các nước. 
Ngay từ năm 2015, Bộ Tài chính đã phối hợp 
với các chuyên gia quốc tế rà soát sơ bộ các nội 
dung trong chương trình hành động BEPS và đã 
xác định được các vấn đề có rủi ro cao về BEPS và 
cấp bách nhất đối với Việt Nam. Theo đó, ngành 
Thuế đã thành lập ban chỉ đạo và 3 tổ công tác tập 
trung nghiên cứu cơ chế chính sách trong nước 
theo tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế, các quy định 
về chuyển nhượng và hiệp định thuế, hợp tác 
hành chính thuế theo hiệp định thế hệ mới của 
OECD và Liên hợp quốc
Tiếp theo những hoạt động trên, có thể nói việc 
Việt Nam tham gia Diễn đàn hợp tác triển khai BEPS 
(tháng 7/2017 nêu trên) là thực sự cần thiết. Với việc 
tham gia Diễn đàn Hợp tác triển khai BEPS, Việt 
Nam đã cam kết thực hiện tối thiểu 4 hành động 
trong gói giải pháp tổng thể gồm 15 hành động 
nhằm ngăn chặn BEPS (nêu trên) với thời gian và lộ 
trình tùy thuộc vào điều kiện yêu cầu phát triển kinh 
tế và hội nhập quốc tế của Việt Nam. Về cơ bản, các 
chuẩn mực này phù hợp với các nhiệm vụ trọng tâm 
mà Bộ Tài chính Việt Nam triển khai trong giai đoạn 
2016-2020. Cụ thể:
- Trong lĩnh vực thương mại điện tử: Giai đoạn 
2016-2020, Bộ Tài chính sẽ soạn thảo văn bản quy 
phạm pháp luật hướng dẫn chung trên cơ sở tham 
khảo thông lệ các nước về phương thức quản lý, 
chính sách áp dụng, đặc biệt là đối với các giao dịch 
kinh doanh qua biên giới; Mức thuế áp dụng đối với 
các sản phẩm, dịch vụ điện tử; xem xét, nghiên cứu 
áp dụng các quy định về điều kiện tạo thành cơ sở 
thường trú trong lĩnh vực thương mại điện tử theo 
thông lệ quốc tế.
- Trong lĩnh vực hiệp định thuế: Xem xét, sửa đổi 
28
MỞ RỘNG CƠ SỞ THUẾ: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
và bổ sung các quy định để chống lợi dụng/tránh 
thuế theo Hiệp định; nghiên cứu, áp dụng cơ chế 
giải quyết tranh chấp theo thỏa thuận song phương; 
đề xuất ký kết đàm phán Hiệp định đa phương về 
thuế; báo cáo chính phủ tham gia Hiệp định đa 
phương về thuế quốc tế và tham gia các Diễn đàn 
đa phương về quản lý thuế và trao đổi thông tin.
- Trong lĩnh vực giá chuyển nhượng: Ngày 
20/02/2017, Chính phủ đã ban hành Nghị định 
20/2017/NĐ-CP quy định về quản lý thuế đối với DN 
có giao dịch liên kết. Bên cạnh đó, ngày 28/04/2017, 
Bộ Tài chính cũng đã ban hành Thông tư số 41/2017/
TT-BTC hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị 
định số 20/2017/NĐ-CP quy định về quản lý thuế 
đối với DN có giao dịch liên kết.
Về cơ bản, các văn bản quy phạm nêu trên được 
các chuyên gia quốc tế của OECD, WB đánh giá là 
phù hợp với định hướng triển khai Chương trình 
BEPS theo khuyến nghị của OECD/G20. Nhìn chung, 
việc kịp thời ban hành các văn bản này sẽ giúp cơ 
quan quản lý thuế có công cụ quản lý “mạnh mẽ hơn 
và linh hoạt hơn” để nâng cao hiệu quả quản lý thuế 
đối với các DN có giao dịch liên kết. Một mặt, tăng 
cường kiểm soát đối với giao dịch liên kết có quy 
mô lớn của các tập đoàn đa quốc gia thông qua quy 
định DN trong nước có nghĩa vụ cung cấp báo cáo lợi 
nhuận liên quốc gia, để cơ quan thuế làm cơ sở đánh 
giá rủi ro trước khi lập kế hoạch thanh tra giá chuyển 
nhượng. Mặt khác, giảm thiểu thủ tục kê khai đối với 
DN có quy mô giao dịch không đáng kể hoặc thuộc 
diện áp dụng thỏa thuận trước về phương pháp xác 
định giá tính thuế (APA) nhằm tiết kiệm thời gian và 
nguồn lực quản lý và thực hiện nghĩa vụ tuân thủ 
cho cả cơ quan thuế và người nộp thuế.
Với tư cách là thành viên thứ 100 tham gia Diễn 
đàn hợp tác thực hiện Chương trình BEPS, trong 
giai đoạn 2016-2020, ngành Thuế cần tiếp tục nghiên 
cứu, trao đổi, cập nhật định hướng sửa đổi chính 
sách theo khuyến nghị của OECD/G20 nhằm đảm 
bảo phù hợp với lộ trình cải cách, hội nhập và phù 
hợp với thông lệ quốc tế. 
- Trong lĩnh vực thuế TNDN: Rà soát lại các quy 
định về ưu đãi miễn giảm, xem xét, bổ sung quy 
định về tỷ lệ lãi vay trên vốn chủ sở hữu được tính 
vào chi phí được trừ khi tính thuế TNDN và đưa 
vào chương trình đề xuất sửa đổi Luật Thuế TNDN 
vào thời điểm thích hợp.
Việc tham gia triển khai BEPS được nhận định 
góp phần tăng cường hội nhập quốc tế của Việt 
Nam nói chung, của ngành Thuế nói riêng, cải cách 
hệ thống thuế theo hướng phù hợp với thông lệ và 
chuẩn mực quốc tế. Đồng thời, việc triển khai BEPS 
cũng giúp ngành Thuế thích ứng kịp thời với những 
tác động của quá trình hội nhập trên cơ sở đề xuất 
một số giải pháp về chính sách và quản lý thuế cũng 
như tăng cường hợp tác hành chính thuế quốc tế 
với các cơ quan thuế các nước nhằm ngăn chặn hiệu 
quả các hành vi trốn, tránh thuế của người nộp thuế 
thông qua hành vi chuyển giá, rủi ro thất thu thuế 
từ các giao dịch qua biên giới.
BEPS – Nỗ lực của APEC
Trong năm 2017, BEPS là một trong những “Sáng 
kiến hợp tác tài chính của Diễn đàn Hợp tác Kinh tế 
châu Á - Thái Bình Dương (APEC) năm 2017”, được 
lựa chọn là một trong những chủ đề của Hội nghị Bộ 
trưởng Bộ Tài chính APEC năm 2017 do Việt Nam 
chủ trì dự kiến vào tháng 10/2017. Trước đó, sáng 
kiến BEPS trong khuôn khổ hợp tác tài chính APEC 
lần đầu tiên được đưa vào chương trình nghị sự tại 
Peru 2016. APEC 2016 tập trung vào khuyến khích 
các nền kinh tế thành viên áp dụng các chuẩn mực 
về minh bạch thuế và ký kết tham gia Công ước 
Hỗ trợ Hành chính về các vấn đề thuế (MAAC) và 
hiệp định giữa các cơ quan có thẩm quyền về trao 
đổi báo cáo giữa các quốc gia. Tuyên bố chung Hội 
nghị Bộ trưởng Tài chính APEC tại Peru năm 2016 
đã nêu: “Chúng tôi cam kết với nỗ lực cao nhất để 
giải quyết vấn đề trốn thuế, lậu thuế trong khu vực 
châu Á - Thái Bình Dương”. 
Trong tiến trình Bộ trưởng Bộ Tài chính APEC 
năm 2017 do Việt Nam chủ trì, đã có nhiều diễn đàn, 
hội thảo về BEPS diễn ra. Trong đó, các vấn đề được 
quan tâm tập trung thảo luận là các tiêu chuẩn tối 
thiểu ngăn chặn BEPS tại APEC. Các tiêu chuẩn này 
sẽ giúp các nền kinh tế đang phát triển học tập kinh 
nghiệm triển khai công cụ chính sách và hỗ trợ kỹ 
thuật trực tiếp từ các nhà hoạch định chính sách, các 
chuyên gia, các nhà quản lý thuế của các nền kinh tế 
phát triển có kinh nghiệm triển khai.
Có thể khẳng định, việc tham gia triển khai BEPS 
tại Việt Nam đã và đang góp phần cụ thể hóa chủ 
đề này, thể hiện nỗ lực quyết tâm của nước chủ 
nhà APEC 2017, đồng thời, hỗ trợ trực tiếp cho các 
nhiệm vụ đang triển khai về chống xói mòn cơ sở 
tính thuế của ngành Tài chính nói chung và ngành 
Thuế nói riêng trong giai đoạn 2016-2020. 
Tài liệu tham khảo:
1. OECD (2015) “OECD/G20 Base Erosion and ProTit Shing Project: Addressing 
the Tax Challenges of the Digital Economy, 2015 Final Report”;
2. DP Sengupta (2015) Developed countries erode BEPS Action Plan on Digital Economy; 
3. UNCTAD (2015), “World Investment Report 2015 - Reforming International 
Investment Govemance”.

File đính kèm:

  • pdfhop_tac_quoc_te_chong_xoi_mon_co_so_thue_va_chuyen_loi_nhuan.pdf