Hoạt tính kháng oxy hóa của cao chiết ethanol thân rễ Ngải tím (Kaempferia parviflora Wall. Ex Baker), Ngải trắng (Curcuma aromatica Salisb.), Gừng gió (Zingiber zerumbet Sm.)

Tóm tắt:

Stress oxy hóa là một trong những nguyên nhân gây bệnh tật cho con người, chủ yếu là do tình trạng mất cân bằng

của các chất oxy hóa với các chất kháng oxy hóa bảo vệ trong cơ thể. Do đó để nâng cao sức khỏe, hiện nay, các

sản phẩm nguồn gốc tự nhiên chứa các chất kháng oxy hóa thường được sử dụng. Các cây thuộc họ Gừng đã được

biết chứa nhiều hợp chất kháng oxy hóa tự nhiên. Vì vậy, nghiên cứu này nhằm mục đích đánh giá hoạt tính kháng

oxy hóa của các cao chiết ethanol thân rễ Ngải tím (Kaempferia parviflora Wall. Ex Baker), Ngải trắng (Curcuma

aromatic Salisb.) và Gừng gió (Zingiber zerumbet Sm.) bằng cách sử dụng các phương pháp thử nghiệm khác nhau

như phương pháp DPPH, ABTS•+ và năng lực khử (Reducing power). Ngoài ra, hàm lượng polyphenol tổng và

flavonoid tổng trong các dịch trích cũng được xác định. Kết quả cho thấy, các cao chiết đều chứa hàm lượng lớn các

hợp chất polyphenol tổng và flavonoid tổng. Ngải trắng và Gừng gió thể hiện hoạt tính kháng oxy hóa tốt hơn so với

Ngải tím trong các phương pháp thử nghiệm. Nghiên cứu cho thấy tiềm năng lớn trong việc ứng dụng các loài thực

vật tự nhiên này vào lĩnh vực thực phẩm và dược phẩm.

Từ khóa: Gừng gió, kháng oxy hóa, Ngải tím, Ngải trắng.

pdf 6 trang phuongnguyen 1840
Bạn đang xem tài liệu "Hoạt tính kháng oxy hóa của cao chiết ethanol thân rễ Ngải tím (Kaempferia parviflora Wall. Ex Baker), Ngải trắng (Curcuma aromatica Salisb.), Gừng gió (Zingiber zerumbet Sm.)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Hoạt tính kháng oxy hóa của cao chiết ethanol thân rễ Ngải tím (Kaempferia parviflora Wall. Ex Baker), Ngải trắng (Curcuma aromatica Salisb.), Gừng gió (Zingiber zerumbet Sm.)

Hoạt tính kháng oxy hóa của cao chiết ethanol thân rễ Ngải tím (Kaempferia parviflora Wall. Ex Baker), Ngải trắng (Curcuma aromatica Salisb.), Gừng gió (Zingiber zerumbet Sm.)
2662(5) 5.2020
Khoa học Y - Dược
Đặt vấn đề 
Ngải tím (Kaempferia parviflora Wall. Ex Baker), Ngải 
trắng (Curcuma aromatic Salisb.) và Gừng gió (Zingiber 
zerumbet Sm.) mọc hoang hoặc được trồng ở khắp cả nước, 
từ Bắc vào Nam, đặc biệt là các vùng đồi núi [1]. Ngải trắng 
và Gừng gió đã được mô tả trong danh lục các loài thực vật 
Việt Nam [2, 3], riêng Ngải tím mới được phát hiện ở các 
tỉnh Đăk Lăk, Gia Lai (K-Bang) và Thanh Hóa [4]. Đây là 
các cây thuộc họ Gừng, một họ có nhiều ứng dụng trong y 
học cổ truyền [1, 2]. Một số nghiên cứu trong và ngoài nước 
cho thấy đây là các loài thực vật có tiềm năng rất lớn trong 
lĩnh vực y dược. Ngải tím có chứa 5,7-dimethoxyflavone 
có khả năng ức chế mạnh emzyme PDE5 và PDE6 điều trị 
rối loạn cương dương trên chuột [5] cũng như là chất tăng 
cường sức khỏe tiềm năng cho người cao tuổi do làm giảm 
stress oxy hóa [6]. Cao chiết ethanol Ngải trắng thể hiện 
hoạt tính kháng viêm do có chứa lượng lớn acid arachidonic 
[7], dầu của Ngải trắng có hoạt tính bảo vệ gan khi ức chế 
sự phát triển khối u của gan đến 51-52% [8]. Gừng gió 
có khả năng giảm sự tăng trọng lượng cơ thể, lượng mỡ 
nội tạng và nồng độ lipid huyết tương [9]. Tuy nhiên hoạt 
tính kháng oxy hóa của các loài thực vật trên còn ít tài liệu 
nghiên cứu. Chính vì thế, trong nghiên cứu này, chúng tôi 
tập trung nghiên cứu hoạt tính kháng oxy hóa của 3 loài 
thực vật được mô tả ở trên. Các loài thực vật này được thu 
hái trên địa bàn Núi Cấm vùng Bảy Núi, thuộc huyện Tịnh 
Biên, tỉnh An Giang.
Đối tượng và phương pháp
Nguyên liệu
Mẫu nguyên liệu tươi (1 kg) mỗi loại được thu hái tại Núi 
Cấm vùng Bảy Núi, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang. Các mẫu 
được thu hái tại các tọa độ 10°29’43’’N; 104°58’51,13’’E ở 
độ cao 600 m (Ngải tím); 10°29’60’’N; 104°58’40’’ E ở độ 
cao 400 m (Ngải trắng) và 10°30’24,98’’N; 104°58’39,55’’E 
ở độ cao 400 m (Gừng gió). Mẫu được xác nhận bởi Phùng 
Thị Hằng với số lưu mẫu Ngải tím Pl102017-AG(NC)0013, 
Ngải trắng Pl112017-AG(NC)0007 và Gừng gió Pl072016-
AG(NC, NT)0017. Các mẫu này được thu hái, định danh 
dựa trên đặc điểm hình thái và so sánh với tài liệu chuyên 
ngành. Mẫu được lưu trữ tại Phòng thí nghiệm Sinh học thực 
vật, Bộ môn Sư phạm sinh học, Khoa Sư phạm, Trường Đại 
học Cần Thơ. Nguyên liệu sau khi thu hái về được rửa sạch, 
loại bỏ tạp bẩn, cắt nhỏ, sấy ở 50°C và xay thành bột.
Hoạt tính kháng oxy hóa của cao chiết ethanol 
thân rễ Ngải tím (Kaempferia parviflora Wall. Ex Baker), 
Ngải trắng (Curcuma aromatica Salisb.), Gừng gió (Zingiber zerumbet Sm.)
Nguyễn Trọng Tuân*, Phạm Thị Sánh 
Khoa Khoa học tự nhiên, Trường Đại học Cần Thơ
Ngày nhận bài 25/11/2019; ngày chuyển phản biện 28/11/2019; ngày nhận phản biện 26/12/2019; ngày chấp nhận đăng 31/12/2019
Tóm tắt:
Stress oxy hóa là một trong những nguyên nhân gây bệnh tật cho con người, chủ yếu là do tình trạng mất cân bằng 
của các chất oxy hóa với các chất kháng oxy hóa bảo vệ trong cơ thể. Do đó để nâng cao sức khỏe, hiện nay, các 
sản phẩm nguồn gốc tự nhiên chứa các chất kháng oxy hóa thường được sử dụng. Các cây thuộc họ Gừng đã được 
biết chứa nhiều hợp chất kháng oxy hóa tự nhiên. Vì vậy, nghiên cứu này nhằm mục đích đánh giá hoạt tính kháng 
oxy hóa của các cao chiết ethanol thân rễ Ngải tím (Kaempferia parviflora Wall. Ex Baker), Ngải trắng (Curcuma 
aromatic Salisb.) và Gừng gió (Zingiber zerumbet Sm.) bằng cách sử dụng các phương pháp thử nghiệm khác nhau 
như phương pháp DPPH, ABTS•+ và năng lực khử (Reducing power). Ngoài ra, hàm lượng polyphenol tổng và 
flavonoid tổng trong các dịch trích cũng được xác định. Kết quả cho thấy, các cao chiết đều chứa hàm lượng lớn các 
hợp chất polyphenol tổng và flavonoid tổng. Ngải trắng và Gừng gió thể hiện hoạt tính kháng oxy hóa tốt hơn so với 
Ngải tím trong các phương pháp thử nghiệm. Nghiên cứu cho thấy tiềm năng lớn trong việc ứng dụng các loài thực 
vật tự nhiên này vào lĩnh vực thực phẩm và dược phẩm.
Từ khóa: Gừng gió, kháng oxy hóa, Ngải tím, Ngải trắng.
Chỉ số phân loại: 3.4
* Tác giả liên hệ: trongtuan@ctu.edu.vn
2762(5) 5.2020
Khoa học Y - Dược
Xác định độ ẩm bột nguyên liệu
Độ ẩm bột nguyên liệu được xác định theo Dược điển 
Việt Nam V, theo phương pháp sấy [10].
Điều chế cao chiết
Bột khô thân rễ Ngải tím, Ngải trắng và Gừng gió được 
chiết với dung môi ethanol 96° bằng phương pháp ngâm 
trong 24 giờ (3 lần). Tất cả dịch chiết được gom lại và lọc 
để loại bỏ cặn, bụi. Dịch chiết sau khi lọc đem cô quay đuổi 
dung môi ở nhiệt độ 40-45°C thu được cao chiết ethanol 
thân rễ Ngải tím, Ngải trắng và Gừng gió. Cao chiết được 
đem cân và tính hiệu suất chiết cao, sau đó cao được bảo 
quản trong tủ lạnh ở nhiệt độ 4°C cho đến khi thí nghiệm. 
Hiệu suất chiết cao được tính theo công thức: 
acid arachidonic [7], dầu của Ngải trắng có hoạt tính bảo vệ gan khi ức chế sự phát 
triển khối u của gan đến 51-52% [8]. Gừng gió có khả năng giảm sự tăng trọng lượng 
cơ thể, trọng lượng mỡ nội tạng và nồng độ lipid huyết tương [9]. Tuy nhiên hoạt tính 
kháng oxy hóa của các loài thực vật trên còn ít tài liệu nghiên cứu. Chính vì thế, trong 
nghiên cứu này, chúng tôi tập trung nghiên cứu hoạt tính kháng oxy hóa của 3 loài 
thực vật được mô tả ở trên. Các loài thực vật này được thu hái trên địa bàn Núi Cấm 
vùng Bảy Núi, thuộc huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang. 
Đối tượng và phương pháp 
Nguyên liệu 
Mẫu nguyên liệu tươi (1 kg) mỗi loại được thu hái tại Núi Cấm vùng Bảy Núi, 
huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang. Các mẫu được thu hái tại các tọa độ 10°29’43’’N; 
104°58’51,13’’E ở độ cao 600 m (Ngải tím); 10°29’60’’N; 104°58’40’’ E ở độ cao 
400 m (Ngải trắng) và 10°30’24,98’’N; 104°58’39,55’’E ở độ cao 400 m (Gừng gió). 
Mẫu được xác nhận bởi Phùng Thị Hằng với số lưu mẫu Ngải tím Pl102017-
AG(NC)0013, Ngải trắng Pl112017-AG(NC)0007 và Gừng gió Pl072016-AG(NC, 
NT)0017. Các mẫu này được thu hái, định danh dựa trên đặc điểm hình thái và so sánh 
với tài liệu chuyên ngành. Mẫu được lưu trữ tại Phòng thí nghiệm Sinh học thực vật, 
Bộ môn Sư phạm sinh học, Khoa Sư phạm, Trường Đại học Cần Thơ. Nguyên liệu sau 
khi thu hái về được rửa sạch, loại bỏ tạp bẩn, cắt nhỏ, sấy ở 50°C và xay thành bột. 
Xác định độ ẩm bột nguyên liệu 
Độ ẩm bột nguyên liệ được xác định theo Dược điển Việt Nam V, theo phương 
pháp sấy [10]. 
Điều chế cao chiết 
Bột khô thân rễ Ngải tím, Ngải trắng và Gừng gió được chiết với dung môi 
ethanol 96° bằng phương pháp ngâm trong 24 giờ (3 lần). Tất cả dịch chiết được gom 
lại và lọc để loại bỏ cặn, bụi. Dịc chiết sau khi lọc đem cô quay đuổi dung môi ở 
nhiệt độ 40-45°C thu được cao chiết ethanol thân rễ Ngải tím, Ngải trắng và Gừng gió. 
Cao chiết được đem cân và tính hiệu suất chiết cao, sau đó cao được bảo quản trong tủ 
lạnh ở nhiệt độ 4°C cho đến khi thí nghiệm. Hiệu suất chiết cao được tính theo công 
thức: 
 Khảo sát hoạt tính kháng oxy hóa của các cao chiết
Khảo sát hiệu quả loại bỏ gốc tự do DPPH: khả năng loại 
bỏ gốc tự do DPPH của các cao chiết được thực hiện theo 
Sharma [11]. Hỗn hợp phản ứng gồm 40 µl DPPH (1000 µg/
ml) và 960 µl các cao chiết có nồng độ khác nhau. Cao chiết 
Ngải tím có nồng độ 80-560 µg/ml, cao chiết Ngải trắng có 
nồng độ 30-210 µg/ml và cao chiết Gừng gió có nồng độ 20-
140 µg/ml. Hỗn hợp được ủ trong tối ở nhiệt độ 30ºC trong 
thời gian 30 phút, đo độ hấp thụ quang phổ ở bước sóng 517 
nm. Đối chứng dương sử dụng là vitamin C. Kết quả hoạt 
tính kháng oxy hóa của các cao chiết được biểu diễn bằng 
giá trị EC
50
 (Effective Concentration of 50%) được tính dựa 
trên phương trình hồi quy tuyến tính cũng như hàm lượng 
chất kháng oxy hóa tương đương vitamin C (µg/ml) của 
dịch chiết khảo sát. Hiệu suất làm sạch gốc tự do được tính 
theo công thức:
Khảo sát hoạt tính kháng oxy hóa của các cao chiết 
Khảo sát hiệu quả loại bỏ gốc tự do DPPH: khả năng loại bỏ gốc tự do DPPH 
của các cao chiết được được thực hiện theo Sharma [11]. Hỗn hợp phản ứng gồm 40 µl 
DPPH (1000 µg/ml) và 960 µl các cao chiết có nồng độ khác nhau. Cao chiết Ngải tím 
có nồng độ 80-560 µg/ml, cao chiết Ngải trắng có nồng độ 30-210 µg/ml và cao chiết 
Gừng gió có nồng độ 20-140 µg/ml. Hỗn hợp được ủ trong tối ở nhiệt độ 30ºC trong 
thời gian 30 phút, đo độ hấp thụ quang phổ ở bước sóng 517 nm. Đối chứng dương sử 
dụng là vitamin C. Kết quả hoạt tính kháng oxy hóa của các cao chiết được biểu diễn 
bằng giá trị EC50 (Effective Concentration of 50%) được tính dựa trên phương trình 
hồi quy tuyến tính cũng như hàm lượng chất kháng oxy hóa tương đương vitamin C 
(µg/ml) của dịch chiết khảo sát. Hiệu suất làm sạch gốc tự do được tính theo công thức: 
Trong đó: AC là giá trị hấp thu của DPPH; AS là giá trị hấp thu của mẫu thử. 
Khảo sát hiệu quả loại bỏ gốc tự do ABTS•+: hoạt động loại bỏ gốc tự do ABTS•+ 
thực hiện theo Nenadis [12]. Chuẩn bị dung dịch ABTS•+ bằng cách trộn 2 ml dung 
dịch ABTS 7 mM và 2 ml dung dịch K2S2O8 2,45 mM, ủ trong tối 16 giờ, sau đó pha 
loãng bằng ethanol (khoảng 30 lần), điều chỉnh độ hấp thu ở bước sóng 734 nm đạt 
0,7±0,05. Tiến hành cho 990 µl ABTS•+ vào 10 µl các cao chiết ở các nồng độ khác 
nhau. Cao chiết Ngải tím có nồng độ 7,5-52,5 µg/ml, cao Ngải trắng có nồng độ 3-21 
µg/ml và cao Gừng gió có nồng độ 5-35 µg/ml. Hỗn hợp phản ứng được ủ trong 6 phút. 
Sau đó, đo độ hấp thụ quang phổ ở bước sóng 734 nm. Đối chứng dương được sử dụng 
là trolox. Kết quả hoạt tính kháng oxy hóa của các cao chiết được biểu diễn bằng giá 
trị EC50 được tính dựa trên phương trình hồi quy tuyến tính và hàm lượng chất kháng 
oxy hóa tương đương trolox (µg/ml) của dịch chiết khảo sát. Hiệu suất làm sạch gốc tự 
do được tính theo công thức: 
Trong đó: AC là giá trị hấp thu của ABTS•+; AS là giá trị hấp thu của mẫu thử. 
Khảo sát năng lực khử (Reducing Power - RP): RP được thực hiện theo phương 
pháp Ferreira [13]. Hỗn hợp phản ứng gồm 0,5 ml các cao ở nồng độ khác nhau từ 
100-700 μg/ml, 0,5 ml đệm phosphate (0,2 M, pH=6,6) và 0,5 ml K3Fe(CN)6 1%. Sau 
rong đó: 
C
 là giá trị hấp thu của PP ; 
S
 là giá trị 
hấp thu của mẫu thử.
Khảo sát hiệu quả loại bỏ gốc tự do ABTS•+: hoạt động 
loại bỏ gốc tự do ABTS•+ thực hiện theo Nenadis [12]. 
Chuẩn bị dung dịch ABTS•+ bằng cách trộn 2 ml dung dịch 
ABTS 7 mM và 2 ml dung dịch K2S2O8 2,45 mM, ủ trong tối 
16 giờ, sau đó pha loãng bằng ethanol (khoảng 30 lần), điều 
chỉnh độ hấp thu ở bước sóng 734 nm đạt 0,7±0,05. Tiến 
hành cho 990 µl ABTS•+ vào 10 µl các cao chiết ở các nồng 
độ khác nhau. Cao chiết Ngải tím có nồng độ 7,5-52,5 µg/
ml, cao Ngải trắng có nồng độ 3-21 µg/ml và cao Gừng gió 
có nồng 5-35 µg/ml. Hỗn hợp phản ứng được ủ trong 6 
phút, sau đó đo độ hấp thụ quang phổ ở bước sóng 734 nm. 
Đối chứng dương được sử dụng là trolox. Kết quả hoạt tính 
Antioxidant activity of ethanolic 
rhizomes extracts of Kaempferia 
parviflora Wall. Ex Baker, 
Curcuma aromatica Salisb., 
and Zingiber zerumbet Sm. 
Trong Tuan Nguyen*, Thi Sanh Pham 
College of Natural Sciences, Can Tho University
Received 25 November 2019; accepted 31 December 2019
Abstract:
Oxidative stress is one of the causes of humans diseases, 
mainly due to an imbalance of oxidative compounds 
with protective antioxidants in the body. Therefore, for 
improving health, nowadays, natural products containing 
antioxidants are often used. Plants belonging to the 
Zingiberaceae family have been known to contain lots 
of natural antioxidants. Therefore, this research aims to 
evaluate the antioxidant activities of ethanolic rhizomes 
extracts of Kaempferia parviflora Wall. Ex Baker, 
Curcuma aromatic Salisb., and Zingiber zerumbet Sm. by 
using some different bioassay methods such as DPPH, 
ABTS•+, and reducing power. In addition, the content 
of total polyphenol and total flavonoid in the extracts 
were also investigated. The results showed that all of the 
extracts contained high amount of total polyphenol and 
total flavonoid components. Curcuma aromatic Salisb. 
and Zingiber zerumbet Sm. species provided the stronger 
antioxidant activity than Kaempferia parviflora Wall. 
Ex Baker species in all the tested methods. In brief, this 
research reveals a great potential for application of these 
medicinal plants in food and pharmaceutical fields.
Keywords: antioxidant, Curcuma aromatic Salisb., 
Kaempferia parviflora Wall. Ex Baker, Zingiber zerumbet 
Sm.
Classification number: 3.4
2862(5) 5.2020
Khoa học Y - Dược
kháng oxy hóa của các cao chiết được biểu diễn bằng giá trị 
EC
50
 được tính dựa trên phương trình hồi quy tuyến tính và 
hàm lượng chất kháng oxy hóa tương đương trolox (µg/ml) 
của dịch chiết khảo sát. Hiệu suất làm sạch gốc tự do được 
tính theo công thức:
Khảo sát hoạt tính kháng oxy hóa của các cao chiết 
Khảo sát hiệu quả loại bỏ gốc tự do DPPH: khả năng loại bỏ gốc tự do DPPH 
của các cao chiết được được thực hiện theo Sharma [11]. Hỗn hợp phản ứng gồm 40 µl 
DPPH (1000 µg/ml) và 960 µl các cao chiết có nồng độ khác nhau. Cao chiết Ngải tím 
có nồng độ 80-560 µg/ml, cao chiết Ngải trắng có nồng độ 30-210 µg/ml và cao chiết 
Gừng gió có nồng độ 20-140 µg/ml. Hỗn hợp được ủ trong tối ở nhiệt độ 30ºC trong 
thời gian 30 phút, đo độ hấp thụ quang phổ ở bước sóng 517 nm. Đối chứng dương sử 
dụng là vitamin C. Kết quả hoạt tính kháng oxy hóa của các cao chiết được biểu diễn 
bằng giá trị EC50 (Effective Concentration of 50%) được tính dựa trên phương trình 
hồi quy tuyến tính cũng như hàm lượng chất kháng oxy hóa tương đương vitamin C 
(µg/ml) của dịch chiết khảo sát. Hiệu suất làm sạch gốc tự do được tính theo công thức: 
Trong đó: AC là giá trị hấp thu của DPPH; AS là giá trị hấp thu của mẫu thử. 
Khảo sát hiệu quả loại bỏ gốc tự do ABTS•+: hoạt động loại bỏ gốc tự do ABTS•+ 
thực hiện theo Nenadis [12]. Chuẩn bị dung dịch ABTS•+ bằng cách trộn 2 ml dung 
dịch ABTS 7 mM và 2 ml dung dịch K2S2O8 2,45 mM, ủ trong tối 16 giờ, sau đó pha 
loãng bằng ethanol (khoảng 30 lần), điều chỉnh độ hấp thu ở bước sóng 734 nm đạt 
0,7±0,05. Tiến hành cho 990 µl ABTS•+ vào 10 µl các cao chiết ở các nồng độ khác 
nhau. Cao chiết Ngải tím có nồng độ 7,5-52,5 µg/ml, cao Ngải trắng có nồng độ 3-21 
µg/ml và cao Gừng gió có nồng độ 5-35 µg/ml. Hỗn hợp phản ứng được ủ trong 6 phút. 
Sau đó, đo độ hấp thụ quang phổ ở bước sóng 734 nm. Đối chứng dương được sử dụng 
là trolox. Kết quả hoạt tính k áng oxy hóa của các cao chiết được biểu diễn bằng giá 
trị EC50 được tính dựa trên phương trình hồi quy tuyến tính và hàm lượng chất kháng 
oxy hóa tương đương trolox (µg/ml) của dịch chiết khảo sát. Hiệu suất làm sạch gốc tự 
do được tính theo công thức: 
Trong đó: AC là giá trị hấp thu của ABTS•+; AS là giá trị hấp thu của mẫu thử. 
Khảo sát năng lực khử (Reducing Power - RP): RP được thực hiện theo phương 
pháp Ferreira [13]. Hỗn hợp phản ứng gồm 0,5 ml các cao ở nồng độ khác nhau từ 
100-700 μg/ml, 0,5 ml đệm phosphate (0,2 M, pH=6,6) và 0,5 ml K3Fe(CN)6 1%. Sau 
r : 
C
 l i trị t a BTS•+; A
S
 là giá trị 
hấp thu của mẫu thử.
Khảo sát n ...  Gừng gió (EC
50
=78,729 μg/ml) là khá tốt, đặc 
biệt là gừng gió (EC
50
 <100 μg/ml) đều cao hơn vitamin C 
(EC
50
=3,581 μg/ml) lần lượt là 140,649; 30,430 và 21,983 
lần. Như vậy, hiệu quả loại bỏ gốc tự do DPPH của các 
cao chiết được xếp theo thứ tự là cao Gừng gió>cao Ngải 
trắng>cao Ngải tím. Nhìn chung, trong 3 loài thực vật trên 
thì Gừng gió và Ngải trắng có hoạt động loại bỏ gốc tự do 
DPPH tốt vì giá trị EC
50
 thấp.
Bảng 3. Hiệu quả làm sạch gốc tự do DPPH của vitamin C và các 
cao chiết.
Phương trình hồi quy tuyến tính Giá trị EC
50
 (µg/ml)
Vitamin C y=14,5253x-2,0211 3,581
Ngải tím y=0,0916x+3,3397 503,722
Ngải trắng y=0,4106x+5,2511 108,984
Gừng gió y=0,5749x+4,7388 78,729
Khảo sát hiệu quả loại bỏ gốc tự do ABTS•+: hàm lượng 
chất kháng oxy hóa tương đương trolox (μg/ml) của các cao 
chiết được tính toán và trình bày ở bảng 4.
Bảng 4. Hiệu suất làm sạch và hàm lượng chất kháng oxy hóa 
tương đương trolox (μg/ml) của các cao chiết. 
Cao chiết Nồng độ (μg/ml)
Hiệu suất làm sạch 
gốc tự do (%)
Hàm lượng chất 
kháng oxy hóa 
tương đương 
trolox (μg/ml)
7,5 12,934±0,321 2,321±0,057
15,0 22,822±0,185 4,086±0,033
22,5 30,786±0,334 5,508±0,060
Ngải tím 30,0 42,117±0,160 7,531±0,029
37,5 51,523±0,515 9,210±0,092
42,5 57,402±0,334 10,260±0,060
45 64,511±0,245 11,529±0,044
3 10,758±0,089 1,933±0,016
6 19,826±0,089 3,552±0,016
9 28,279±0,177 5,061±-,032
Ngải trắng 12 35,861±0,320 6,414±0,057
15 44,057±0,154 7,878±0,027
18 50,666±0,154 9,057±0,027
21 58,197±0,154 10,402±0,027
5 12,632±0,236 2,446±0,042
10 22,325±0,496 3,998±0,089
15 29,887±0,445 5,348±0,080
Gừng gió 20 37,654±0,408 6,734±0,073
25 44,805±0,178 8,011±0,032
30 53,241±0,408 9,517±0,073
35 63,477±0,496 11,345±0,089
Kết quả ở bảng 4 cho thấy, hàm lượng chất kháng oxy 
hóa tương đương trolox (μg/ml) của các cao chiết cũng tăng 
lên khi nồng độ cao chiết tăng lên. Cụ thể là ở cao chiết Ngải 
tím, hàm lượng chất kháng oxy hóa tương đương trolox (μg/
ml) tăng từ 2,321±0,057 lên 11,529±0,044 μg/ml khi nồng 
độ cao chiết tăng từ 7,5-45 μg/ml, cao chiết Ngải trắng tăng 
từ 1,933±0,016 lên 10,402±0,027 μg/ml khi tăng nồng độ từ 
3-21 μg/ml và cao chiết Gừng gió tăng từ 2,446±0,042 lên 
11,345±0,089 μg/ml khi nồng độ tăng từ 5-35 μg/ml. 
Hiệu quả làm sạch gốc tự do ABTS•+ của các cao chiết 
và chất chuẩn được trình bày thông qua giá trị EC
50
 suy ra 
từ phương trình hồi quy tuyến tính tương ứng, kết quả được 
trình bày ở bảng 5. 
Bảng 5. Hiệu quả làm sạch gốc tự do ABTS•+ của trolox và các 
cao chiết.
Phương trình hồi quy tuyến tính Giá trị EC
50
 (µg/ml)
Trolox y=5,6014x-0,0687 8,939
Ngải tím y=1,3599x+1,2638 35,838
Ngải trắng y=2,727x+2,3224 17,484
Gừng gió y=1,7086x+3,2279 27,375
Kết quả giá trị EC
50
 ở bảng 5 cho thấy, cao Ngải tím 
(EC
50
=35,838 μg/ml), cao Ngải trắng (EC
50
=17,484 μg/
ml) và cao Gừng gió (EC
50
=27,375 μg/ml) đều thể hiện khả 
năng kháng oxy hóa rất tốt. Tuy nhiên, so với chất chuẩn 
trolox thì yếu hơn (EC
50
 =8,939 μg/ml) lần lượt là 4,009; 
1,956 và 3,063 lần. 
Từ kết quả trên cho thấy, hiệu quả loại bỏ gốc tự do 
ABTS•+ của các cao chiết được xếp theo thứ tự là cao Ngải 
trắng>cao Gừng gió>cao Ngải tím. Nhìn chung, cả 3 loài 
thực vật trên có hoạt động loại bỏ gốc tự do ABTS•+ rất tốt, 
giá trị EC
50
 thấp (<100 μg/ml).
Năng lực khử: để đánh giá năng lực khử, giá trị OD
0,5
được dùng để so sánh vì khi độ hấp thu càng cao, năng lực 
khử càng mạnh. Giá trị OD
0,5
 cũng được suy ra từ phương 
trình hồi quy tuyến tính của trolox và các cao chiết tương 
ứng. Các kết quả nghiên cứu về năng lực khử của các cao 
chiết được thể hiện ở bảng 6 và 7.
Bảng 6. Năng lực khử của trolox và các cao chiết.
Phương trình hồi quy tuyến tính Giá trị OD
0,5
Trolox y=0,0124x+0,0812 33,774
Ngải tím y=0,0009x+0,0933 451,889
Ngải trắng y=0,0020x+0,1460 177
Gừng gió y=0,0012x+0,0931 339,083
Kết quả bảng 6 cho thấy năng lực khử của các cao chiết 
Ngải tím (OD
0,5
=451,889), Ngải trắng (OD
0,5
=177) và 
Gừng gió (OD
0,5
=339,083) đều thấp hơn chất chuẩn trolox 
(OD
0,5
=33,774) lần lượt 13,38, 5,241 và 10,04 lần. 
3062(5) 5.2020
Khoa học Y - Dược
Ngoài giá trị OD
0,5
 thì hàm lượng tương đương chất 
chuẩn trolox μg/ml (TEC) của các cao chiết cũng được tính 
toán và thể hiện ở bảng 7.
Bảng 7. Hàm lượng chất kháng oxy hóa tương đương trolox (μg/
ml) của các cao chiết.
Nồng độ Ngải tím Ngải trắng Gừng gió
100 9,823±0,352 25,710±0,213 12,968±0,161
200 16,435±0,081 39,769±0,123 19,661±0,213
300 23,613±0,161 57,538±0,186 26,435±0,081
400 30,763±0,246 69,097±0,161 36,409±0,246
500 37,349±0,203 83,828±0,123 44,634±0,186
600 45,656±0,168 101,194±0,161 58,613±0,161
700 50,253±0,259 122,914±0,186 67,591±0,186
Kết quả về hàm lượng chất kháng oxy hóa ở bảng 7 cho 
thấy, hàm lượng chất kháng oxy hóa tương đương trolox 
(μg/ml) của các cao chiết cũng tăng lên khi nồng độ cao 
chiết tăng lên từ 100-700 μg/ml. Cụ thể là ở cao chiết Ngải 
tím, hàm lượng chất kháng oxy hóa tương đương trolox (μg/
ml) tăng từ 9,823±0,352 lên 50,253±0,259, cao chiết Ngải 
trắng tăng từ 25,710±0,213 lên 122,914±0,186 và cao chiết 
Gừng gió tăng từ 12,968±0,161 lên 67,591±0,186. Từ kết 
quả trên cho thấy, năng lực khử của các cao chiết được xếp 
theo thứ tự là cao Ngải trắng>cao Gừng gió>cao Ngải tím, 
với cao Ngải trắng có giá trị OD
0,5
 thấp hơn 200 μg/ml.
Định lượng polyphenol tổng và flavonoid tổng
Hàm lượng polyphenol tổng và flavonoid tổng trong 
các cao chiết được xác định tương đương hàm lượng 
acid gallic và quercetin với phương trình đường chuẩn 
y=0,0881x+0,0831 (R²=0,9993) và y=0,0067x-0,0026 
(R²=0,9970). Kết quả được trình bày ở bảng 8.
Bảng 8. Kết quả định lượng polyphenol tổng và flavonoid tổng 
của các cao chiết.
Cao chiết
Hàm lượng polyphenol tổng
TPC (mg GAE/g cao chiết)
Hàm lượng flavonoid tổng
TFC (mg QE/g cao chiết)
Ngải tím 61,585±0,365 45,124±0,570
Ngải trắng 133,246±0,409 81,443±0,570
Gừng gió 104,075±0,857 74,229±0,215
Kết quả ở bảng 8 cho thấy, hàm lượng polyphenol và 
flavonoid chứa trong Ngải trắng là cao nhất với giá trị lần lượt 
là 133,246±0,409 mg GAE/g và 81,443±0,570 mg QE/g, kế 
đến là Gừng gió với giá trị tương ứng 104,075±0,857 mg 
GAE/g và 74,229±0,215 mg GE/g, cuối cùng là Ngải tím 
với 61,585±0,365 mg GAE/g và 45,124±0,570 mg GE/g. 
Kết quả này cũng phù hợp với hoạt tính kháng oxy hóa của 
cao chiết Ngải trắng và Gừng gió luôn tốt hơn so với cao 
Ngải tím.
Bàn luận 
So sánh kết quả ở bảng 2 đến bảng 8 khi nghiên cứu 
về Ngải tím của chúng tôi với các nghiên cứu khác cho 
thấy, hàm lượng polyphenol và flavonoid tổng của cao 
chiết ethanol rễ Ngải tím đều cao hơn trong nghiên cứu này 
(100,15±8,34 mg GAE/g và 104,36±0,43 mg QE/g) [16]. 
Hoạt động làm sạch gốc tự do DPPH của Ngải tím trong 
nghiên cứu của chúng tôi cũng yếu hơn rất nhiều so với 
nghiên cứu của Wungsintaweekul, et al. (EC
50
=61,5 μg/ml) 
[17]. Tương tự trong một nghiên cứu khác của Butkhup, et 
al. với nồng độ cao chiết là 500 μg/ml thì hiệu suất ức chế 
lên đến 60,64% [18]. 
Đối với Ngải trắng, qua kết quả nghiên cứu cho thấy 
hoạt tính kháng oxy hóa của cao chiết Ngải trắng cũng có 
sự khác biệt. Theo nghiên cứu của Lee, et al. trên cao chiết 
ethanol thân rễ Ngải trắng của Nhật Bản cho thấy, cao chiết 
chỉ làm sạch 27,2% gốc tự do DPPH khi ở nồng độ 100 
μg/ml và tăng lên 80,2% khi nồng độ cao chiết là 1 mg/ml 
và EC
50
 là 0,27±0,01 mg/ml; ở năng lực khử, khi cao chiết 
ở nồng độ 1 mg/ml thì độ hấp thu chỉ đạt 0,4 và OD
0,5
 lên 
đến 2,38±0,04 mg/ml, trong khi đó nghiên cứu của chúng 
tôi giá trị EC
50
 ở phương pháp DPPH là 108,984 μg/ml và ở 
năng lực khử với giá trị OD
0,5
 là 177 μg/ml. Các kết quả này 
cho thấy rằng, hoạt tính kháng oxy hóa của Ngải trắng theo 
nghiên cứu của Lee yếu hơn nghiên cứu này rất nhiều [19]. 
Trong khi đó, hoạt động làm sạch gốc tự do DPPH của cao 
chiết methanol trong nghiên cứu của Al-Reza, et al. lại cho 
kết quả tốt hơn so với nghiên cứu của chúng tôi khi giá trị 
EC
50
 đạt 16,58 μg/ml [20]. 
Đối với Gừng gió, hàm lượng polyphenol tổng và 
flavonoid (104,075±0,857 mg GAE/g và 74,229±0,215 mg 
QE/g) trong nghiên cứu của chúng tôi cao hơn trong nghiên 
cứu của Nag, et al. (33,64±3,22 mg GAE/g và 26,79±0,68 
mg QE/g) và hoạt tính kháng oxy hóa cũng mạnh hơn 
rất nhiều so với EC
50
 trong phương pháp DPPH của Nag 
đạt 417,14 μg/ml [21]. Trong nghiên cứu của Bhavesh, et 
al., hàm lượng polyphenol và flavonoid tổng lại cao hơn 
(331,93±1,23 mg GEA/g và 198±2,65 mg QE/g), tuy nhiên 
hoạt tính làm sạch gốc tự do DPPH và ABTS•+ thì yếu hơn 
so với nghiên cứu của chúng tôi với giá trị EC
50
 lần lượt là 
117,65±1,45 μg/ml và 78,72±1,12 μg/ml [22]. 
Tất cả sự khác nhau của nghiên cứu trên có thể là do 
sự khác biệt về vị trí địa lý, thổ nhưỡng và giống thực vật 
nghiên cứu. Ngoài ra, còn có thể là do khác nhau về dung 
môi chiết xuất, methanol là dung môi có thể chiết xuất nhiều 
thành phần có hoạt tính sinh học hơn dung môi ethanol, tuy 
nhiên methanol là dung môi có tính độc hơn ethanol.
3162(5) 5.2020
Khoa học Y - Dược
Kết luận
Nghiên cứu khả năng kháng oxy hóa của cao chiết ethanol 
thân rễ Ngải tím, Ngải trắng và Gừng gió cho thấy được tiềm 
năng kháng oxy hóa của các loài thực vật này. Bằng cách 
sử dụng các phương pháp thử nghiệm hoạt tính sinh học 
khác nhau cho nghiên cứu như phương pháp DPPH, ABTS•+ 
và năng lực khử (Reducing Power), kết quả cho thấy rằng 
Ngải trắng và Gừng gió thể hiện hoạt tính kháng oxy hóa 
rất tốt khi các giá trị EC
50
 thấp. Kết quả này cũng phù hợp 
với việc định lượng được hai thành phần chính quan trọng 
có tác dụng kháng oxy hóa mạnh thường xuất hiện trong 
nhiều loài thực vật là hợp chất polyphenol và flavonoid với 
kết quả hàm lượng khá cao là 133,246±0,409 mg GAE/g và 
81,443±0,570 mg QE/g cho Ngải trắng; 104,075±0,857 mg 
GAE/g và 74,229±0,215 mg GE/g cho Gừng gió. Kết quả 
nghiên cứu thể hiện rõ hoạt tính kháng oxy hóa của các loài 
thực vật này và là một trong số các loài thực vật có tiềm 
năng ứng dụng vào việc phòng và trị bệnh trên người.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Đỗ Huy Bích, Đặng Quang Chung, Bùi Xuân Chương, Nguyễn 
Thượng Dong, Đỗ Trung Đàm, Phạm Văn Hiền, Vũ Ngọc Lộ, Phạm Duy 
Mai, Phạm Kim Mẫn, Đoàn Thị Như, Nguyễn Tập, Trần Toàn (2004), 
Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam, Nhà xuất bản Khoa học và 
Kỹ thuật.
[2] Phạm Hoàng Hộ (1999), Cây cỏ Việt Nam, tập 1-3, Nhà xuất bản 
Trẻ.
[3] Đỗ Tất Lợi (2004), Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, Nhà 
xuất bản Y học.
[4] Bùi Kim Anh, Đoàn Duy Tiên, Phạm Gia Điền, Hồ Đắc Hùng, 
Phạm Quang Dương, Bá Thị Dương, Nguyễn Thị Ngoan, Vũ Đình Hoàng 
(2018), “Một số hợp chất phân lập từ thân rễ Ngải đen (Kaempferia 
parviflora Wall. ex. Baker), họ Gừng (Zingiberaceae)”, Tạp chí Dược học, 
58(1), tr.29-31.
[5] P. Temkitthawon, T.R. Hinds, J.A. Beavo, J. Viyoch, K. 
Suwanborirux, W. Ponggamornkul, P. Sawasdee, K. Ingkaninan (2011), 
“Kaempferia parviflora, a plant used in traditional medicine to enhance 
sexual performance contains large amounts of low affinity PDE5 
inhibitors”, Journal of Ethnopharmacology, 137, pp.1437-1441.
[6] J. Wattanathorn, S. Muchimapura, T. Tong-Un, N. Saenghong, W. 
Thukhum-Mee, B. Sripanidkulchai (2012), Positive modulation effect of 
8-week consumption of Kaempferia parviflora on health-related physical 
fitness and oxydative status in healthy elderly volunteers, Evidence-Based 
Complementary and Alternative Medicine.
[7] A. Kumar, R. Chomwal, P. Kumar, R. Sawal (2009), “Anti 
inflammatory and wound healing activity of Curcuma aromatica Salisb. 
extract and its formulation”, Journal of Chemical and Pharmaceutical 
Research, 1(1), pp.304-310.
[8] W.Y. Wu, Q. Xu, L.C. Shi, W.B. Zhang (2000), “Inhibitory effects 
of Curcuma aromatica oil on proliferation of hepatoma in mice”, World 
Journal of Gastroenterology, 6(2), pp.216-219.
[9] C.J. Chang, T.F. Tzeng, S.S. Liou, Y.S. Chang, I.M. Liu (2012), 
“Regulation of lipid disorders by ethanol extracts from Zingiber zerumbet 
in high-fat diet-induced rats”, Food Chemistry, 132(1), pp.460-467.
[10] Bộ Y tế (2017), Dược điển Việt Nam V, Nhà xuất bản Y học.
[11] O.P. Sharma, T.K. Bhat (2009), “DPPH antioxydant assay 
revisited”, Food Chemistry, 113(4), pp.1202-1205.
[12] N. Nenadis, L.F. Wang, M. Tsimidou, H.Y. Zhang (2004), 
“Estimation of scavenging activity of phenolic compounds using the 
ABTS•+ assay”, Journal of Agricultural and Food Chemistry, 52(15), 
pp.4669-4674.
[13] I.C.F.R. Ferreira, P. Baptista, M. Vilas-Boas, L. Barros (2007), 
“Free-radical scavenging capacity and reducing power of wild edible 
mushrooms from northeast Portugal: Individual cap and stipe activity”, 
Food Chemistry, 100(4), pp.1511-1516.
[14] A. Rebaya, S.I. Belghith, B. Baghdikian, V.M. Leddet, F. 
Mabrouki, E. Olivier, J.K. Cherif, M.T. Ayadi (2015), “Total phenolic, 
total flavonoid, tannin content, and antioxydant capacity of Halimium 
halimifolium (Cistaceae)”, Journal of Applied Pharmaceutical Science, 
5(1), pp.52-57.
[15] G.C. Bag, P.G. Devi, T. Bhaigyabati (2015), “Assessment of total 
flavonoid content and antioxydant activity of methanolic rhizome extract 
of three hedychium species of manipur Valley”, International Journal of 
Pharmaceutical Sciences Review and Research, 30(1), pp.154-159.
[16] W. Kusirisin, S. Srichairatanakool, P. Lerttrakarnnon, N. Lailerd, 
M. Suttajit, C. Jaikang, C. Chaiyasut (2009), “Antioxydative activity, 
polyphenolic content and anti-glycation effect of some Thai medicinal 
plants traditionally used in diabetic patients”, Medicinal Chemistry, 5(2), 
pp.139-147.
[17] J. Wungsintaweekul, W. Sitthithaworn, W. Putalun, H.W. 
Pfeifhoffer, A. Brantner (2010), “Antimicrobial, antioxydant activities and 
chemical composition of selected Thai spices”, Sonklanakarin Journal of 
Science and Technology, 32(6), pp.589-598.
[18] L. Butkhup, S. Samappito (2011), “In vitro free radical 
scavenging and antimicrobial activity of some selected Thai medicinal 
plants”, Research Journal of Medicinal Plant, 5(3), pp.254-265.
[19] Y.L. Lee, C.C. Weng, J.L. Mau (2007), “Antioxydant properties 
of ethanolic and hot water extracts from the rhizome of Curcuma 
aromatica”, Journal of Food Biochemistry, 31(6), pp.757-771. 
[20] S.M. Al-Reza, A. Rahman, M.A. Sattar, M.O. Rahman, H.M. Fida 
(2010), “Essential oil composition and antioxydant activities of Curcuma 
aromatica Salisb”, Food and Chemical Toxycology, 48(6), pp.1757-1760.
[21] A. Nag, M. Bandyopadhyay, A. Mukherjee (2013), “Antioxydant 
activities and cytotoxycity of Zingiber zerumbet (L.) Smith rhizome”, J. 
Pharmacogn. Phytochem., 2(3), pp.102-108.
[22] V.D. Bhavesh, Y. Nayak, B.S. Jayashree (2013), “In vitro 
antioxydant and antiglycation activity of Zingiber zerumbet (wild zinger) 
rhizome extract”, International Journal of Research in Pharmaceutical 
Sciences, 4(4), pp.482-489.

File đính kèm:

  • pdfhoat_tinh_khang_oxy_hoa_cua_cao_chiet_ethanol_than_re_ngai_t.pdf