Hoạt động thể lực và các yếu tố liên quan ở phụ nữ mang thai tại Bệnh viện Hùng Vương
Đặt vấn đề: Hoạt động thể lực (HĐTL) trong thời kỳ mang thai đã được chứng minh là mang lại nhiều lợi
ích sức khỏe cho cả mẹ và thai nhi. Tuy nhiên, tỷ lệ HĐTL trong thai kỳ trên thế giới được báo cáo rất thấp. Bởi vì
phần lớn phụ nữ lựa chọn giảm HĐTL và tăng thời gian nghỉ ngơi khi phát hiện mang thai.
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ HĐTL đủ theo khuyến nghị Đại học Sản phụ khoa Hoa Kỳ (ACOG) và các yếu tố
liên quan ở phụ nữ mang thai.
Bạn đang xem tài liệu "Hoạt động thể lực và các yếu tố liên quan ở phụ nữ mang thai tại Bệnh viện Hùng Vương", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Hoạt động thể lực và các yếu tố liên quan ở phụ nữ mang thai tại Bệnh viện Hùng Vương

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 1 * 2020 Nghiên cứu Y học 82 HOẠT ĐỘNG THỂ LỰC VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN Ở PHỤ NỮ MANG THAI TẠI BỆNH VIỆN HÙNG VƯƠNG Nguyễn Thị Thu An*, Trương Thị Thùy Dung*, Trịnh Thị Hoàng Oanh* TÓM TẮT Đặt vấn đề: Hoạt động thể lực (HĐTL) trong thời kỳ mang thai đã được chứng minh là mang lại nhiều lợi ích sức khỏe cho cả mẹ và thai nhi. Tuy nhiên, tỷ lệ HĐTL trong thai kỳ trên thế giới được báo cáo rất thấp. Bởi vì phần lớn phụ nữ lựa chọn giảm HĐTL và tăng thời gian nghỉ ngơi khi phát hiện mang thai. Mục tiêu: Xác định tỷ lệ HĐTL đủ theo khuyến nghị Đại học Sản phụ khoa Hoa Kỳ (ACOG) và các yếu tố liên quan ở phụ nữ mang thai. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang này tiến hành trên 365 phụ nữ mang thai - đến khám tại bệnh viện Hùng Vương. Các yếu tố cá nhân, các yếu tố gia đình - xã hội, các yếu tố môi trường của họ được ghi lại và Bảng câu hỏi hoạt động thể lực khi mang thai (PPAQ) được sử dụng để đánh giá mức độ HĐTL của họ trong thời kỳ mang thai. Các yếu tố liên quan đến HĐTL đủ theo khuyến nghị ACOG được xác định bằng hồi quy đa biến Poisson và điều chỉnh gây nhiễu. Kết quả: Hoạt động việc nhà (55,3%) và hoạt động cường độ nhẹ (72,2%) đại diện phần lớn của hoạt động trong thời kỳ mang thai. Chỉ có 17,3% phụ nữ mang thai đáp ứng HĐTL theo hướng dẫn ACOG (ít nhất 150 phút mỗi tuần cho hoạt động cường độ vừa). Thông tin hướng dẫn tập thể dục thai kỳ từ nhân viên y tế, thói quen tập thể dục trước khi mang thai là những yếu tố liên quan có ý nghĩa với HĐTL đủ theo hướng dẫn ở phụ nữ mang thai. Kết luận: Rất ít phụ nữ mang thai đáp ứng HĐTL theo hướng dẫn ACOG. Các phát hiện nhấn mạnh sự cần thiết của hệ thống chăm sóc tiền sản và nhân viên y tế để khuyến khích phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ và thai phụ hướng đến một lối sống năng động theo khuyến nghị. Từ khóa: hoạt động thể lực, phụ nữ mang thai, yếu tố liên quan, bộ câu hỏi PPAQ ABSTRACT PHYSICAL ACTIVITY AND AFFECTED FACTORS AMONG PREGNANT WOMEN AT HUNG VUONG HOSPITAL Nguyen Thi Thu An, Truong Thi Thuy Dung, Trinh Thi Hoang Oanh * Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 24 - No. 1 - 2020: 82 - 89 Background: Physical activity (PA) during pregnancy has been proven to result in marked health benefits for mother and fetus. However, the worldwide prevalence of PA during pregnancy is reportedly low. Because most women choose to reduce their level of PA and increase relaxation after they discover they are pregnant. Objectives: To determine the prevalence and factors associated with enough PA as recommended by American College of Obstetricians and Gynecologists (ACOG) among pregnant women. Materials and method: This cross-sectional study was conducted on 365 pregnant women admitting the Out-patient Department of Hung Vuong hospital. Their intrapersonal, interpersonal, environmental factors were recorded, and the Pregnancy Physical Activity Questionnaire (PPAQ) was used to assess their level PA during pregnancy. Factors associated with enough PA according to American College of Obstetricians and Gynecologists (ACOG) recommendations were modelling by using Poisson regression model. *Khoa Y tế *Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh Tác giả liên lạc: CN. Nguyễn Thị Thu An ĐT: 0765162217 Email:[email protected] *Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 1 * 2020 83 Results: Household activity (55.3%) and light-intensity activity (72.2%) represented the majority component of activity during pregnancy. Only 17.3% of the pregnant women met the PA according to ACOG practice guidelines (least 150 minutes per week of moderate-intensity aerobic activity). Information on exercise from health workers, pre-pregnancy exercise habit were significantly related to sufficient physical activity according to recommendations. Conclusion: Low rate pregnant women met the PA according to ACOG practice guidelines. The findings emphasize the need for prenatal care system and health staff to encourage young and pregnant women towards an active lifestyle. Key words: physical activity, pregnancy, affected factors, the PPAQ ĐẶT VẤN ĐỀ Hoạt động thể lực (HĐTL) được Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đưa vào một trong chín nội dung y tế quan trọng được đặt ra để phòng ngừa và kiểm soát các bệnh không lây(1). HĐTL ở phụ nữ mang thai (PNMT) đóng vai trò quan trọng. Nhiều nghiên cứu chứng minh HĐTL đầy đủ giúp giảm 31% nguy cơ đái tháo đường thai kỳ, 43% nguy cơ tiền sản giật, 44% các triệu chứng trầm cảm sau sinh, tăng chỉ số phát triển thần kinh ở trẻ gấp 1,51 lần so với thiếu HĐTL(2,3,4,5). Năm 2002, Đại học Sản phụ khoa Hoa Kỳ (ACOG) đã cập nhật hướng dẫn HĐTL cho phụ nữ mang thai và khuyến nghị đạt được ít nhất 150 phút hoạt động cường độ vừa phải mỗi tuần(6). Tuy nhiên, tỷ lệ phụ nữ mang thai HĐTL đủ theo khuyến nghị của ACOG trong các nghiên cứu tại Việt Nam còn khá thấp, dao động từ 23,6% đến 37,1%(7,8). Theo kết quả khảo sát, HĐTL chưa được quan tâm đúng mức, hầu hết phụ nữ giảm hoặc ngừng các hoạt động thể dục khi mang thai. Thêm vào đó, nghỉ ngơi và thư giãn được xem là quan trọng hơn việc tham gia các hoạt động thể dục(9,10). Các yếu tố liên quan đến HĐTL ở PNMT là một tổng thể, bao gồm: yếu tố cá nhân, yếu tố gia đình - xã hội và yếu tố môi trường. Tuy nhiên, phần lớn các nghiên cứu được thực hiện chỉ tập trung vào yếu tố cá nhân, một số ít các nghiên cứu đánh giá yếu tố gia đình - xã hội và yếu tố môi trường nhưng chỉ dừng lại ở khảo sát định tính(11). Vì vậy, việc đánh giá toàn diện vai trò động lực hay rào cản của các yếu tố liên quan này bằng nghiên cứu định lượng có ý nghĩa quan trọng, nhằm lập kế hoạch can thiệp thúc đẩy hành vi HĐTL ở PNMT một cách hiệu quả(12). Bệnh viện Hùng Vương là một trong hai bệnh viện sản khoa lớn nhất tại thành phố Hồ Chí Minh cũng như toàn bộ khu vực phía Nam, đây là nơi tập trung đa dạng các đối tượng PNMT đến khám thai. Theo thống kê, trung bình hàng năm bệnh viện tiếp nhận hơn 650.000 lượt khám và có xu hướng ngày càng gia tăng(13). Vì vậy chúng tôi mong muốn kết quả nghiên cứu có thể góp phần mô tả chính xác tình trạng HĐTL của thai phụ, cũng như góp phần hoàn thiện chương trình chăm sóc tiền sản thai phụ đến khám tại bệnh viện Hùng Vương. Mục tiêu nghiên cứu Xác định tỷ lệ HĐTL đủ theo khuyến nghị Đại học Sản phụ khoa Hoa Kỳ (ACOG) ở phụ nữ mang thai đến khám tại bệnh viện Hùng Vương năm 2019. Xác định mối liên quan giữa HĐTL đủ theo khuyến nghị ACOG với các yếu tố cá nhân, gia đình - xã hội, môi trường ở phụ nữ mang thai đến khám tại bệnh viện Hùng Vương năm 2019. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Phụ nữ mang thai đến khám tại bệnh viện Hùng Vương Thành phố Hồ Chí Minh (TP. HCM) từ tháng 2 đến tháng 5 năm 2019. Phương pháp nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu Nghiên cứu cắt ngang. Cỡ mẫu Nghiên cứu sử dụng công thức ước lượng Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 1 * 2020 Nghiên cứu Y học 84 một tỷ lệ với xác suất sai lầm loại 1 là 5%, tỷ lệ phụ nữ mang thai HĐTL đủ của tác giả Cao Hoàng Hương Trang năm 2015 là 37,1%(7). Tính ra cỡ mẫu cần thiết là 359 trường hợp. Phương pháp chọn mẫu Chọn mẫu theo phương pháp ngẫu nhiên hệ thống, trong đó cứ mỗi năm PNMT đến khám thì một PNMT được mời tham gia vào nghiên cứu. Sau khi loại trừ 15 trường hợp trả lời không đủ 100% bộ câu hỏi HĐTL (33 câu), nghiên cứu đã thu thập được 365 trường hợp, vượt cỡ mẫu ban đầu là 6 trường hợp. Thu thập số liệu Tiến hành nghiên cứu thử trên 30 phụ nữ mang thai đến khám tại bệnh viện Hùng Vương từ tháng 2-3/2019 để kiểm tra và điều chỉnh bộ câu hỏi phù hợp. Sau đó tiến hành thu thập số liệu từ tháng 4-5/2019, phụ nữ mang thai đồng ý tham gia vào nghiên cứu được phỏng vấn bằng bộ câu hỏi soạn sẵn. Nội dung phỏng vấn bao gồm thông tin về yếu tố cá nhân, yếu tố gia đình – xã hội, yếu tố môi trường và HĐTL khi mang thai. Bộ câu hỏi hoạt động thể lực khi mang thai (PPAQ) được dùng để đánh giá toàn diện các HĐTL ở phụ nữ mang thai(14). Năm 2008, PPAQ đã được Ota E và cộng sự dịch chuyển ngữ sang phiên bản tiếng Việt, và kiểm tra độ tin cậy (hệ số tương quan nội bộ nhóm-ICC: 0,88), tính giá trị (hệ số tương quan Pearson-PCC: 0,29) trên phụ nữ Việt Nam(15). Phân tích số liệu Dữ liệu được nhập bằng phần mềm phần mềm EpiData 3.1 và phân tích bằng phần mềm Stata 14.0. Thống kê mô tả, các biến số định tính (thuộc nhóm yếu tố cá nhân, yếu tố gia đình-xã hội, yếu tố môi trường) dùng tần số, tỷ lệ (%). Đối với biến số định lượng (năng lượng tiêu hao MET- phút/tuần) theo mức độ và loại hoạt động dùng trung bình, độ lệch chuẩn. Thống kê phân tích, dùng kiểm định chi bình phương để so sánh tỷ lệ giữa 2 biến định tính. Nếu trên 20% tổng số các ô có vọng trị nhỏ hơn 5 hoặc tần số trong ô rất nhỏ thì sử dụng kiểm định Fisher. Tỷ số tỷ lệ hiện mắc PR với KTC 95% được dùng để lượng hóa mối quan hệ. Tiêu chí sử dụng để báo cáo mối liên quan là p <0,05 và khoảng tin cậy 95% không chứa giá trị 1. Sử dụng mô hình hồi quy đa biến Poisson để đánh giá mối liên quan giữa HĐTL với các yếu tố cá nhân, gia đình – xã hội, môi trường. Các biến số sinh học và các biến số có p <0,2 trong phân tích đơn biến sẽ được giữ lại và đưa vào mô hình đa biến, sau đó loại dần các biến không có ý nghĩa p >0,05. Sau đó, kiểm định lại độ phù hợp của mô hình. Y đức Nghiên cứu được thông qua bởi Hội đồng Đạo đức trong nghiên cứu y sinh học Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh số: 977/ĐHYD-HĐĐĐ ngày 20/3/2019. KẾT QUẢ Đặc điểm mẫu nghiên cứu Bảng 1: Mô tả các yếu tố cá nhân, yếu tố gia đình xã hội và yếu tố môi trường (n=365) Yếu tố Tần số Tỷ lệ (%) Yếu tố cá nhân Nhóm tuổi 18 – 24 tuổi 77 21,1 25 – 34 tuổi 227 62,2 35 – 44 tuổi 61 16,7 Giai đoạn thai kỳ Ba tháng đầu 33 9,1 Ba tháng giữa 156 42,7 Ba tháng cuối 176 48,2 Trình độ học vấn Dưới cấp 2 43 11,8 Cấp 2 92 25,2 Cấp 3 102 27,9 Trên cấp 3 128 35,1 Nhóm nghề nghiệp Lao động chân tay 151 41,4 Lao động trí óc 106 29,0 Khác (nội trợ) 108 29,6 Tình trạng hôn nhân Kết hôn/sống cùng đối tác 359 98,4 Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 1 * 2020 85 Yếu tố Tần số Tỷ lệ (%) BMI trước khi mang thai Thiếu cân 65 17,8 Bình thường 225 61,6 Thừa cân 54 14,8 Béo phì 21 5,8 Đái tháo đường (có) 53 14,5 Tập thể dục trước mang thai 3 tháng Không tập thể dục 237 64,9 <1 lần mỗi tuần 15 4,1 1-4 lần mỗi tuần 64 17,5 ≥5 lần mỗi tuần 49 13,5 Yếu tố gia đình – xã hội Thông tin tập thể dục từ NVYT (có) 69 18,9 Người hỗ trợ việc nhà (có) 314 86,0 Người tập thể dục cùng (có) (n=140) 66 47,1 Thái độ gia đình tập thể dục khi mang thai Ủng hộ 131 35,9 Không có ý kiến 217 59,4 Phản đối 17 4,7 Yếu tố môi trường Khu dân cư an toàn (có) 357 97,8 Khu dân cư có không gian tập thể dục (có) 253 69,3 Khu dân cư có cơ sở tập thể dục (có) 164 44,9 Khu dân cư có câu lạc bộ tập thể dục (có) 31 8,5 Kết quả Bảng 1 mô tả các đặc điểm của dân số mẫu. Trước khi mang thai 3 tháng, phần lớn phụ nữ không tập thể dục (64,9%) và chỉ có rất ít phụ nữ tập thể dục từ 5 lần trở lên mỗi tuần (13,4%), tần suất tập thể dục này không có sự thay đổi rõ rệt từ khi mang thai. Một nửa số phụ nữ tham gia nghiên cứu nhận được thông tin về chế độ tập thể dục từ nhiều nguồn khác nhau (46%), và chỉ số ít nguồn thông tin này đến từ nhân viên y tế (NVYT) (18,9%). Hầu hết phụ nữ mang thai nhận được sự hỗ trợ việc nhà (86%) đến chủ yếu từ chồng hoặc đối tác. Thái độ của gia đình về tập thể dục khi mang thai thường không có ý kiến (59,4%), ngoài ra có một số ít trường hợp gia đình phản đối chiếm (4,7%). Hầu hết các phụ nữ tự đánh giá khu dân cư sinh sống đủ an toàn cho hoạt động tập thể dục (97,8%), phần còn lại đánh giá khu dân cư không an toàn (2,2%) với lý do được kể ra bao gồm: khu dân cư phức tạp, vắng người, có người nghiện hút chích. Câu lạc bộ tập thể dục tại khu dân chiếm tỷ lệ rất thấp (8,5%). Tỷ lệ hoạt động thể lực theo loại và theo mức độ Bảng 2: Tỷ lệ hoạt động thể lực theo loại HĐTL theo loại Met-giờ/tuần Tỷ lệ (%) Việc nhà 76,27 55,3 Đi lại 11,77 8,5 Thể dục 18,2 13,2 Công việc 31,80 23 Tổng HĐTL 138,04 100 Trong một tuần, phụ nữ hoạt động thể lực phân bố không đều theo loại: hoạt động chiếm tỷ lệ hao phí năng lượng cao nhất là việc nhà (55,3%), chiếm tỷ lệ thấp nhất trong thể dục (13,2%) và đi lại (8,5%) (Bảng 2). Bảng 3: Tỷ lệ hoạt động thể lực theo mức độ HĐTL theo mức độ Met-giờ/tuần Tỷ lệ (%) Nhẹ 99,71 72,2 Vừa 36,33 26,3 Mạnh 2 1,5 Tổng HĐTL 138,04 100 Trong một tuần, phụ nữ chủ yếu tham gia vào hoạt động nhẹ (72,2%) và hầu như ít tham gia hoạt động mạnh (1,5%) (Bảng 3). Bảng 4: Tỷ lệ tập phụ nữ mang thai hoạt động thể lực đủ theo hướng dẫn Đại học Sản phụ khoa Hoa Kỳ (n=365) HĐTL đủ theo ACOG (MET- giờ/tuần) Tần số Tỷ lệ KTC 95% Không 302 82,7 78,5-86,3 Có 63 17,3 13,7-21,5 Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ phụ nữ mang thai HĐTL đủ theo hướng dẫn ACOG là khá thấp (17,3%) (Bảng 4). Các yếu tố liên quan đến phụ nữ mang thai HĐTL đủ theo hướng dẫn ACOG Kết quả Bảng 5 cho thấy tỷ lệ PNMT HĐTL đủ theo ACOG cao hơn ở nhóm phụ nữ có thai kỳ muộn (p=0,014), nhóm lao động trí óc hoặc nội trợ (p=0,045), mắc bệnh đái tháo đường (p=0,001), tập thể dục trước khi mang thai (p<0,001), nhận được thông tin tập thể dục từ NVYT (p <0,001), được gia đình ủng hộ về việc tập thể dục (p=0,002). Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 1 * 2020 Nghiên cứu Y học 86 Bảng 5: Các yếu tố liên quan đến phụ nữ mang thai hoạt động thể lực đủ theo hướng dẫn Đại học Sản phụ khoa Hoa Kỳ (n=365) Yếu tố HĐTL p PR (KTC 95%) Đủ n (%) Không đủ n (%) Yếu tố cá nhân Nhóm tuổi 18 – 24 tuổi 9 (11,7) 68 (88,3) 1 25 – 34 tuổi 44 (19,4) 183 (80,6) 0,139 1,66 (0,85-3,24) 35 – 44 tuổi 10 (16,4) 51 (83,6) 0,428 1,40 (0,61-3,24) Giai đoạn thai kỳ Ba tháng đầu 2 (6,1) 31 (93,9) 1 Ba tháng giữa 23 (14,7) 133 (85,3) 0,014 1,61 (1,10-2,35) Ba tháng cuối 38 (21,6) 138 (78,4) 2,59 (1,21-5,53) Nhóm nghề nghiệp Lao động chân tay 21 (13,9) 130 (86,1) 1 Lao động trí óc 16 (15,1) 90 (84,9) 0,045 1,32 (1,01-1,74) Khác (nội trợ) 26 (24,1) 82 (75,9) 1,75 (1,01-3,03) Đái tháo đường Không 45 (14,4) 267 (85,6) 1 Có 18 (34,0) 35 (66,0) 0,001 2,35 (1,48-3,74) BMI trước khi mang thai Thiếu cân 11 (16,9) 54 (83,1) 1 Bình thường 37 (16,4) 188 (83,6) 0,927 0,97 (0,53-1,80) Thừa cân 9 (16,7) 45 (83,3) 0,970 0,98 (0,44-2,20) Béo phì 6 (28,6) 15 (71,4) 0,236 1,69 (0,71-4,01) Tập thể dục trước mang thai Không tập thể dục 30 (12,7) 207 (87,3) 1 <1 lần mỗi tuần 3 (20,0) 12 (80,0) <0,001 1,38 (1,17-1,64) 1-4 lần mỗi tuần 12 (18,8) 52 (81,2) 1,92 (1,36-2,70) ≥5 lần mỗi tuần 18 (36,7) 31 (63,3) 2,65 (1,58-4,45) Yếu tố gia đình – xã hội Thông tin tập thể dục từ NVYT Không 32 (10,8) 264 (89,2) 1 Có 31 (44,9) 38 (55,1) <0,001 4,16 (2,73-6,32) Thái độ gia đình tập thể dục Ủng hộ 33 (25,2) 98 (74,8) 1 Không có ý kiến 29 (13,4) 188 (86,6) 0,002 0,52 (0,34-0,79) Phản đối 1 (5,9) 16 (94,1) 0,27 (0,12-0,62) Bảng 6: Mô hình hồi quy đa biến các yếu liên quan đến hoạt động thể lực đủ của phụ nữ mang thai theo hướng dẫn ACOG (n=365) Đặc tính phc PRhc (KTChc 95%) Tần suất tập thể dục trước mang thai 3 tháng Không tập thể dục 1 <1 lần mỗi tuần 0,876 1,09 (0,38-3,07) 1-4 lần mỗi tuần 0,198 1,47 (0,82-2,65) ≥5 lần mỗi tuần <0,001 2,52 (1,52-4,20) Thông tin về tập thể dục từ NVYT (có) <0,001 3,94 (2,55-6,09) Qua phân tích đa biến Bảng 6, các yếu tố liên quan thực sự với HĐTL đủ theo ACOG bao gồm tần suất tập thể dục trước mang thai và nhận thông tin tập thể dục từ NVYT. Cụ thể, nhóm PNMT nhận được thông tin tập thể dục từ NVYT thì đáp ứng khuyến nghị ACOG cao gấp 3,94 lần so với nhóm PNMT không nhận được thông tin (PRhc=3,94; KTC 95%: 2,55-6,09; phc<0,001). Nhóm PNMT có tần suất tập thể dục từ 5 lần mỗi tuần trước mang thai thì đáp ứng khuyến nghị ACOG cao gấp 2,52 lần so với nhóm PNMT không tập thể dục trước đó Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 1 * 2020 87 (PRhc=2,52; KTC 95%: 1,52-4,20; phc<0,001). BÀN LUẬN Tỷ lệ HĐTL đủ theo khuyến nghị ACOG Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỷ lệ PNMT đạt được khuyến nghị HĐTL đủ theo ACOG là khá thấp (17,3%). Kết quả phù hợp với nghiên cứu tại Tây Ninh năm 2018 (23,6%)(8). Lý giải được đưa ra là có 41,4% phụ nữ thuộc nhóm lao động chân tay, tính chất công việc mệt mỏi nên dành thời gian để nghỉ ngơi thay vì tham gia các hoạt động thể lực. Ngoài ra, có tới 64,9% phụ nữ không có thói quen tập thể dục từ trước khi mang thai và chỉ 18,9% phụ nữ nhận được lời khuyên tập thể dục từ NVYT. Khác với kết quả của chúng tôi, một số nghiên cứu khác cho thấy tỷ lệ PNMT đạt được khuyến nghị HĐTL theo ACOG khá cao, như tại Thụy Điển năm 2016 (47,1%), tại Đan Mạch năm 2015 (38%), tại Hoa Kỳ năm 2010 (56,6%)(16,17,18). Điều này phù hợp với lối sống năng động của phụ nữ phương tây, lý do tập thể dục được phụ nữ đề cập đến như là sở thích(16,18). Yếu tố liên quan với HĐTL đủ theo khuyến nghị ACOG Kết quả nghiên cứu cho thấy tần suất tập thể dục hơn 5 lần mỗi tuần trước mang thai 3 tháng là yếu tố động lực giúp PNMT đạt được khuyến nghị ACOG. Có thể lý giải là những phụ nữ có tần suất tập thể dục trước mang thai càng cao sẽ tiếp tục duy trì việc tập thể dục đến khi mang thai, đây được xem như một thói quen tốt. Ủng hộ cho kết quả của chúng tôi là các nghiên cứu thực hiện tại TP. Hồ Chí Minh (Việt Nam) năm 2015 (p <0,001), Trung Quốc năm 2014 (p <0,001), Brazil năm 2015 (p <0,001)(7,10,19). Tuy nhiên, các nghiên cứu trước đây chỉ khảo sát là có hoặc không tập thể dục trước mang thai, mà chưa đánh giá được các mức tần suất tập thể dục khác nhau và đây cũng chính là điểm mới trong nghiên cứu của chúng tôi. PNMT nhận được thông tin về chế độ tập thể dục từ NVYT là một yếu tố mới, lần đầu được đưa vào khảo sát trong nghiên cứu tại Việt Nam. Kết quả nghiên cứu cho thấy khi PNMT nhận được thông tin tập thể dục từ NVYT là một động lực làm tăng tỷ lệ HĐTL đáp ứng khuyến nghị ACOG. Theo phân tích đa biến, nhóm PNMT nhận được thông tin tập thể dục từ NVYT thì đáp ứng hướng dẫn ACOG cao gấp 3,94 lần so với nhóm PNMT không nhận được thông tin trên (PR=3,94; KTC 95%: 2,55-6,09, p<0,001). Khi phụ nữ mang thai sẽ chú trọng hơn đến sức khỏe và có xu hướng thực hành những tư vấn từ NVYT, bao gồm cả chế độ tập thể dục. Ủng hộ cho kết quả của chúng tôi là nghiên cứu tại Brazil năm 2015 (p <0,001)(19). Các hướng dẫn từ NVYT về chế độ tập luyện cho PNMT thực sự quan trọng, tuy nhiên tỷ lệ PNMT nhận được hướng dẫn từ NVYT rất thấp. Tỷ lệ này trong nghiên cứu của chúng tôi chỉ có 18,9%. Điều này dễ hiểu vì hệ thống chăm sóc tiền sản tại Việt Nam chưa phát triển, thời gian thăm khám khá ngắn nên NVYT ưu tiên giải quyết các vấn đề khác được cho là quan trọng hơn chế độ tập luyện. Một nghiên cứu khác tại Ba Lan năm 2002, cho thấy có 32% PNMT không tập thể dục vì lý do không biết phải làm gì(20). Một nghiên cứu tại Nam Phi năm 2014, tất cả các PNMT mong muốn được bác sĩ hướng dẫn, điều này giúp họ cảm thấy an toàn khi bắt đầu tham gia các hoạt động thể dục(5). Vai trò của NVYT thực sự quan trọng, khuyến nghị một lối sống năng động hơn không chỉ cho PNMT mà còn với phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ, đặc biệt là người có kết hoạch sinh con. Nghiên cứu của chúng tôi chưa tìm thấy mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa HĐTL đủ với các yếu tố môi trường. Điều này có thể được giải thích vì yếu tố môi trường ảnh hưởng đến hoạt động thể dục không nhiều. Nghiên cứu của tác giả Kelly và cộng sự thực hiện trên PNMT tại Hoa Kỳ cho thấy yếu tố môi trường chỉ đóng góp vào có 3% trong tất cả các yếu tố được xem là rào cản với hoạt động thể lực. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 1 * 2020 Nghiên cứu Y học 88 Bên cạnh những điểm mạnh, nghiên cứu của chúng tôi cũng còn một số điểm hạn chế. Nghiên cứu thực hiện tại bệnh viện Hùng Vương, với đặc điểm gần một nửa số PNMT đến từ tỉnh thành khác. Do đó, kết quả nghiên cứu có thể không khái quát được cho toàn bộ PNMT của TP. Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu có ý nghĩa đối với việc phát triển chăm sóc tiền sản trong thai phụ đến khám tại bệnh viện Hùng Vương. Do hạn chế của thiết kế cắt ngang nên dữ liệu không thể hiện chế độ tập luyện trong suốt thai kỳ, cũng không xác định được mối quan hệ nhân quả của các yếu tố liên quan đến HĐTL đủ theo AOCG. KẾT LUẬN Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỷ lệ PNMT HĐTL đủ theo khuyến nghị ACOG là rất thấp (17,3%). Các yếu tố ảnh hưởng tích cực đến PNMT HĐTL đủ theo ACOG bao gồm: nhận được thông tin về chế độ tập thể dục từ NVYT và thói quen tập thể dục từ 5 lần mỗi tuần trước khi mang thai 3 tháng. Từ kết quả nghiên cứu, chúng tôi kiến nghị Việt Nam cần xây dựng một hướng dẫn HĐTL cụ thể cho từng đối tượng. Hoạt động chăm sóc tiền sản cần được mở rộng hơn nữa, không chỉ dừng lại ở PNMT mà còn nhắm vào phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ và các thành viên trong gia đình. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. WHO (2010). Global Recommendations on Physical Activity for Health. WHO, pp.7-33. 2. Dempsey JC, Sorensen TK, Williams MA, Lee IM, Miller RS, Dashow EE (2004). Prospective study of gestational diabetes mellitus risk in relation to maternal recreational physical activity before and during pregnancy. American Journal of Epidemiology, 159(7):663-670. 3. Marcoux S, Brisson J, Fabia J (1989). The effect of leisure time physical activity on the risk of pre-eclampsia and gestational hypertension. Journal of Epidemiology and Community Health, 43(2):147-152. 4. Demissie Z, Riz AMS, Evenson KR, Herring AH, Dole N, Gaynes BN (2011). Physical Activity and Depressive Symptoms among Pregnant Women: The PIN3 Study. Archives of Women's Mental Health, 14(2):145-157. 5. Domingues MR, Matijasevic A, Barros AJD, Santos IS, Horta BL, Hallal BC (2014). Physical Activity during Pregnancy and Offspring Neurodevelopment and IQ in the First 4 Years of Life. PloS One, 9:10. 6. ACOG Committee Obstetric Practice (2002). ACOG Committee opinion. Number 267, January 2002: exercise during pregnancy and the postpartum period. Obstetrics and Gynecology, 99(1):171- 173. 7. Cao Hoàng Hương Trang (2015) Tỉ lệ vận động thể lực của thai phụ đến khám thai tại Trung tâm chăm sóc sức khỏe sinh sản TP.HCM. Luận văn tốt nghiệp Cử nhân Y tế Công cộng, Đại học Y dược TP. HCM. 8. Hồ Thị Như Ý (2018). Tỷ lệ vận động thể lực ở thai phụ và các yếu tố liên quan tại huyện Trảng Bàng, Tỉnh Tây Ninh , năm 2018. Luận văn tốt nghiệp Cử nhân Y tế Công cộng, Đại học Y dược TP. HCM. 9. Clarke PE, Gross H (2004). Women's behaviour, beliefs and information sources about physical exercise in pregnancy. Midwifery, 20(2):133-141. 10. Zhang Y, Dong S, Zuo J, Hu X, Zhang H, Zhao Y (2014). Physical Activity Level of Urban Pregnant Women in Tianjin, China: A Cross-Sectional Study. PLoS One, 9:10 11. Thompson EL, Vamos CA, Daley EM (2017). Physical activity during pregnancy and the role of theory in promoting positive behavior change: A systematic review. Journal of Sport and Health Science, 6(2):198-206. 12. Downs DS, Chasan-Taber L, Evenson KR, Leiferman J, Yeo SA (2012). Physical Activity and Pregnancy: Past and Present Evidence and Future Recommendations. Research Quarterly for exercise and Sport, 83(4):485-502. 13. Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh (2016). Phòng khám một cửa: Rút ngắn thời gian khám bệnh và tăng tỷ lệ hài lòng người bệnh. URL: chon-giai-thuong-chat-luong-kham-chua-benh/phong-kham- mot-cua-rut-ngan-thoi-gian-kham-benh-va-tang-ty-le-hai-long- nguoi-be-c1289-55.aspx. 14. Sattler MC, Jaunig J, Watson ED, Poppel MNM, Mokkink LB, Terwee CB (2018). Physical Activity Questionnaires for Pregnancy: A Systematic Review of Measurement Properties. Sports medicine 48(10):2317-2346 15. Ota E, Haruna M, Yanai H, Suzuki M, Dang Duc Anh, Matsuzaki M (2008). Reliability and validity of the Vietnamese version of the Pregnancy Physical Activity Questionnaire (PPAQ). Southeast Asian J Trop Med Public Health, 39(3):562-570. 16. Lindqvist M, Lindkvist M, Eurenius E, Persson M, Ivarsson A, Mogren I (2016). Leisure time physical activity among pregnant women and its associations with maternal characteristics and pregnancy outcomes. Sexual & Reproductive Healthcare, 9:14-20. 17. Lotte B, Anne S. Broberg L, Ersboll AS, Backhausen MG, Damm P, Tabor A, Hegaard HK (2015). Compliance with national recommendations for exercise during early pregnancy in a Danish cohort. BMC Pregnancy and Childbirth, 15:317. 18. Evenson KR, Wen F (2010). National trends in self-reported Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 1 * 2020 89 physical activity and sedentary behaviors among pregnant women: NHANES 1999-2006. Preventive Medicine, 50(3):123-128. 19. Nascimento SL, Surita FG, Godoy AC, Kasawara KT, Morais SS (2015). Physical Activity Patterns and Factors Related to Exercise during Pregnancy: A Cross Sectional Study. PLoS One, 10(6):e0128953 20. Rutkowska E, Lepecka-Klusek C (2002). The role of physical activity in preparing women for pregnancy and delivery in Poland. Health Care for Women International, 23(8):919-923. Evenson KR, Moos MK, Carrier K, Siega-Riz AM (2009). Perceived Barriers to Physical Activity among Pregnant Women. Maternal and Child Health Journal, 13(3):364-375. Ngày nhận bài báo: 15/11/2019 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 26/11/2019 Ngày bài báo được đăng: 10/03/2020
File đính kèm:
hoat_dong_the_luc_va_cac_yeu_to_lien_quan_o_phu_nu_mang_thai.pdf