Hoạt động tái chế chất thải điện tử ở Việt Nam và một số khuyến nghị

TÓM TẮT

Cùng với sự bùng nổ của khoa học công nghệ, điện tử là một ngành mũi

nhọn đang phát triển hiện nay ở Việt Nam. Tuy nhiên, đi kèm với đó là thách thức

không nhỏ của việc xử lý chất thải và yêu cầu bức thiết cần phải xây dựng, hoàn

thiện và phát triển hoạt động tái chế chất thải điện tử. Phân tích thực trạng

ngành này ở Việt Nam, nhóm tác giả chỉ ra những hạn chế còn tồn tại, nguyên

nhân và những thách thức cũng như cơ hội mà hoạt động tái chế chất thải điện

tử Việt Nam phải đối mặt trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay. Kết hợp với việc

nghiên cứu bài học kinh nghiệm từ các nước đi trước, nhóm tác giả đề xuất một

số khuyến nghị nhằm phát triển hoạt động tái chế chất thải điện tử còn non trẻ

này của Việt Nam

pdf 6 trang phuongnguyen 14240
Bạn đang xem tài liệu "Hoạt động tái chế chất thải điện tử ở Việt Nam và một số khuyến nghị", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Hoạt động tái chế chất thải điện tử ở Việt Nam và một số khuyến nghị

Hoạt động tái chế chất thải điện tử ở Việt Nam và một số khuyến nghị
P-ISSN 1859-3585 E-ISSN 2615-9615 ECONOMICS - SOCIETY 
No. 53.2019 ● Journal of SCIENCE & TECHNOLOGY 101
HOẠT ĐỘNG TÁI CHẾ CHẤT THẢI ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM 
VÀ MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ 
RECYCLING OF ELECTRONIC WASTE IN VIETNAM AND SOME RECOMMENDATIONS 
Nguyễn Thu Hiền*, Trần Phương Thảo 
TÓM TẮT 
Cùng với sự bùng nổ của khoa học công nghệ, điện tử là một ngành mũi 
nhọn đang phát triển hiện nay ở Việt Nam. Tuy nhiên, đi kèm với đó là thách thức 
không nhỏ của việc xử lý chất thải và yêu cầu bức thiết cần phải xây dựng, hoàn 
thiện và phát triển hoạt động tái chế chất thải điện tử. Phân tích thực trạng 
ngành này ở Việt Nam, nhóm tác giả chỉ ra những hạn chế còn tồn tại, nguyên 
nhân và những thách thức cũng như cơ hội mà hoạt động tái chế chất thải điện 
tử Việt Nam phải đối mặt trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay. Kết hợp với việc 
nghiên cứu bài học kinh nghiệm từ các nước đi trước, nhóm tác giả đề xuất một 
số khuyến nghị nhằm phát triển hoạt động tái chế chất thải điện tử còn non trẻ
này của Việt Nam. 
Từ khóa: Hoạt động tái chế, chất thải điện tử. 
ABSTRACT 
Along with the explosion of science and technology, electronics is a leading 
spearhead industry in Vietnam. However, with the great challenge of waste 
disposal and urgent need to build, improve and develop the recycling of 
electronic waste. Analyzing this sector in Vietnam, the authors point out the 
remaining constraints, causes, and challenges and opportunities that the 
recycling of electronic waste in Vietnam faces in the global context. Combined 
with the lessons learned from previous countries, the authors propos some 
recommendations to develop this young Vietnamese environmental activities. 
Keywords: Industrial recycling, electronic waste. 
Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội 
*Email: nguyenthuhien4788@gmail.com 
Ngày nhận bài: 07/01/2019 
Ngày nhận bài sửa sau phản biện: 10/4/2019 
Ngày chấp nhận đăng: 15/8/2019 
1. GIỚI THIỆU 
Với xu thế ứng dụng công nghệ, các thiết bị điện tử ngày 
càng trở nên phổ biến và không thể thiếu trong hoạt động 
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng như trong cuộc 
sống sinh hoạt hàng ngày. Các thiết bị điện tử là các loại 
thiết bị chứa kinh kiện bán dẫn và các mạch điện tử. Thiết bị 
điện tử có tốc độ xử lý nhanh chính xác, kích thước nhỏ hoặc 
siêu nhỏ nên chúng được ứng dụng trong nghiên cứu y học, 
bưu chính viễn thông, phát thanh truyền hình, khoa học vũ 
trụ, công nghiệp.... Trong sản xuất, nhờ có các thiết bị điện tử 
giúp tự động hóa quá trình công nghệ, tăng năng suất lao 
động, kiểm soát chất lượng sản phẩm với độ chính xác cao. 
Trong cuộc sống, các thiết bị điện tử giúp con người cập 
nhật thông tin, kết nối, liên lạc... Tại Việt Nam, nhu cầu về 
thiết bị điện tử gia dụng trong những năm gần đây có xu 
hướng gia tăng cùng với sự phát triển của nền kinh tế và sự 
cải thiện mức sống người dân. Theo thời gian, do việc giảm 
liên tục giá thành mang tính cạnh tranh của thiết bị điện tử, 
cùng với những thay đổi về mẫu mã, loại hình và công năng 
sẽ tạo ra nhu cầu lớn thay đổi thiết bị điện tử gia dụng, dẫn 
đến phát sinh một lượng rác thải điện tử gia dụng lớn với tốc 
độ gia tăng nhanh chóng. Theo thống kê của Trung tâm Phát 
triển và Hội nhập (CDI - Bộ KH&CN), trung bình năm 2016, 
một người Việt Nam thải ra môi trường khoảng 1kg rác thải 
điện tử, như vậy tổng lượng rác thải điện tử cả nước lên tới 
90.000 tấn/năm. Bên cạnh đó, dòng chảy của rác thải điện tử 
đi từ các nước phát triển sang các nước đang hoặc kém phát 
triển trong đó có Việt Nam qua đường hợp pháp (qua các 
công ty được phép tạm nhập tái xuất, nhập khẩu thiết bị 
điện tử cũ) hoặc qua đường tiểu ngạch khiến Việt Nam trở 
thành “Bãi rác công nghệ”. 
Theo thống kê của Chương trình Môi trường Liên hợp 
quốc (UNEP), trong rác thải điện tử có chứa hơn 1.000 hợp 
chất khác nhau, chủ yếu là thành phần kim loại nặng, các 
chất hữu cơ cao phân tử, kim loại quý... trong đó có nhiều 
hợp chất gây độc hại, gây ô nhiễm môi trường nghiêm 
trọng và ảnh hưởng đến sức khỏe con người. Điều đặc biệt, 
các chất độc này khi phát tán ra môi trường sẽ khó có khả 
năng nhận biết, gây tâm lý chủ quan, tiềm tàng nguy cơ 
ảnh hưởng lâu dài đến sức khỏa con người. 
Đứng trước những nguy cơ trên, nhóm tác giả đã tiến 
hành nghiên cứu, tìm hiểu thực trạng hoạt động tái chế rác 
thải điện tử Việt Nam, những thuận lợi khó khăn mà các 
đơn vị tái chế đang gặp phải, những yếu kém tồn tại trong 
cơ chế. Bài báo này trình bày tổng quát về kết quả đánh giá 
thực trạng, phân tích các bài học kinh nghiệm của một số 
quốc gia trên thế giới từ đó đề xuất một số khuyến nghị 
nhằm mở đường thúc đẩy sự phát triển hoạt động tái chế 
rác thải điện tử. 
Phương pháp được nhóm tác giả sử dụng là tổng hợp, 
so sánh và phân tích trên cơ sở các dữ liệu thứ cấp thu thập 
được. Đối tượng nghiên cứu là hoạt động tái chế rác thải 
điện tử ở Việt Nam. Các số liệu thu thập được giới hạn 
trong phạm vi thời gian từ năm 2010 - 2018. 
 XÃ HỘI 
 Tạp chí KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ● Số 53.2019 102
KINH TẾ P-ISSN 1859-3585 E-ISSN 2615-9615 
2. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VÀ MỘT SỐ KHÁI NIỆM 
CƠ BẢN 
Tổng quan lý thuyết 
Nghiên cứu của các tác giả Gaidajis.G, Angelakoglou.K 
and Aktsoglou.D (2010) với đề tài “E-waste: Environmental 
Problems and Current Management” đã chỉ ra thực trạng 
rác thải điện tử trên thế giới, những tác hại và lợi ích của rác 
thải điện tử đối với môi trường và nền kinh tế của một quốc 
gia, nhóm tác giả nghiên cứu bài học kinh nghiệp về 
phương thức quản lý rác thải điện tử tại một số khu vực và 
quốc gia như Liên minh Châu Âu, Nhật Bản, Hy Lạp. 
Báo cáo “The Global E-Waste Monitor 2014 Quantitities, 
flows and resource” của các tác giả Baldé C.P.,Wang F., 
Kueher R., Huisman J; báo cáo định nghĩa về chất thải điện 
tử và cách thức đo lường dòng chảy của chất thải điện tử và 
cách các thiết bị điện tử xuất hiện khắp nơi trên thế giới, 
nhóm tác giả tiến hành nghiên cứu chi tiết các khu vực 
Châu Á, Châu Âu, Châu Phi, Châu Mỹ, Châu Đại dương từ đó 
chỉ ra những cơ hội cho ngành công nghiệp tái chế rác thải 
điện tử phát triển. 
 Current status of e-waste in Viet Nam and future goals 
của tác giả Trương Mạnh Tuấn (2014), Cục Kiểm soát ô 
nhiễm, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã làm rõ thực trạng 
về rác thải điện tử tại Việt Nam hiện nay từ đó đề xuất và 
định hướng cho việc xử lý, tái chế rác thải trong tương lai. 
Nghiên cứu của tác giả Huỳnh Trung Hải (2014) với tên 
gọi “Electric and Electronic Waste recycling in Viet Nam”, 
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội nghiên cứu về rác thải 
điện điện tử và các công nghệ tái chế rác thải tại Việt Nam. 
Luận văn thạc sĩ khoa học của tác giả Đặng Thị Hường 
(2013), Nghiên cứu đánh giá tiềm năng tái chế chất thải 
điện tử và thu hồi kim loại có giá trị từ bản mạch điện tử 
thải bỏ. 
Viện Khoa học và Công nghệ môi trường (2012), báo 
cáo nghiên cứu công nghệ tái chế rác thải điện tử để thu 
hồi kim loại và sản xuất spinel cobalt-nhôm sử dụng trong 
ngành gốm sứ, mã số B2010-01-408-TĐ, Hà Nội. 
 Các công trình, đề tài, bài cáo tập trung phân tích thực 
trạng rác thải nguy hại, rác thải điện tử trên thế giới và Việt 
Nam, làm rõ được cơ hội và nguy cơ của rác thải điện tử với 
môi trường, sức khỏe con người và nền kinh tế. Tuy nhiên, 
các đề tài, nghiên cứu đa phần tập trung vào việc nghiên 
cứu phát triển công nghệ để xử lý rác thải điện tử, đặc biệt 
là chú trọng đến thu hồi các kim loại quý trong rác thải điện 
tử. Trong các nghiên cứu đã công bố về rác thải điện tử thì 
việc nghiên cứu thực trạng của các doanh nghiệp tái chế 
chất thải điện tử, định hướng và giải pháp thúc đẩy sử phát 
triển của ngành công nghiệp tái chế chưa được chú trọng, 
chúng chỉ đóng vai trò thứ yếu, không phải là đối tượng 
nghiên cứu chính. 
Tái chế chất thải 
Theo Wikipedia, tái chế được hiểu là quá trình xử lý rác 
thải hoặc vật liệu không cần thiết thành vật liệu mới có khả 
năng ứng dụng đem lại lợi ích cho con người. Đây giải pháp 
thay thế cho việc thải rác thông thường, nó có thể giúp tiết 
kiệm vật liệu cũng như giảm việc phát thải khí gây hiệu ứng 
nhà kính, giảm việc sử dụng nguồn nguyên liệu chưa qua 
chế biến, giảm tiêu tốn năng lượng và giảm đáng kể việc ô 
nhiễm do hoạt động chôn lấp rác thải. 
Theo quy định tại Nghị định số 38/2015/NĐ-CP về quản 
lý chất thải và phế liệu (có hiệu lực từ ngày 15/06/2015), “Tái 
chế chất thải là quá trình sử dụng các giải pháp công nghệ, 
kỹ thuật để thu lại các thành phần có giá trị từ chất thải” 
Hầu hết các chất thải được tái chế thường ở dạng chất 
rắn như: một số vật dụng làm bằng đồng, nhôm, nhựa, sắt, 
inox,dựa trên mức độ hư hại cũng như số lượng còn có 
thể sử dụng mà một số công ty sẽ thu mua lại các chất thải 
này để tái chế. Mục tiêu của tái chế chất thải là nhằm làm 
giảm bớt sự nguy hại của chất thải đối với môi trường sống, 
nhằm bảo vệ sức khỏe cho tất cả mọi người. Với những 
chất thải tái chế, con người có thể giảm bớt được chi phí xử 
lý ô nhiễm môi trường. Không chỉ thế, nếu chất thải này có 
thể trở thành nguồn nguyên liệu mới thì có thể giảm bớt 
được chi phí trong kinh doanh, mang lại lợi nhuận cao hơn 
cho doanh nghiệp. 
Tại Việt Nam hiện nay, hoạt động tái chế rác thải dựa 
trên khung pháp lý là Luật Bảo vệ môi trường 2014, Nghị 
định số 38/2015/NĐ-CP về quản lý chất phải và phế liệu, 
Thông tư số 36/2015/TT-BTNMT quản lý chất thải nguy hại, 
Nghị định số 59/2007/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý chất 
thải rắn. Ngoài ra, có một số tiêu chuẩn ISO liên quan đến 
tái chế như: 
Tiêu chuẩn tái chế toàn cầu (Global Reclycled Standard - 
GRS) được phát triển lần đầu bởi Chứng nhận Liên minh 
Kiểm soát (CU) năm 2008 và kể từ ngày 01/01/2011 quyền 
sở hữu tiêu chuẩn này đã chính thức được chuyển cho Hiệp 
hội Textile Exchange. Tiêu chuẩn này áp dụng cho tất cả 
các công ty sản xuất hoặc kinh doanh các sản phẩm tái chế. 
Tiêu chuẩn áp dụng cho các công đoạn chế biến, sản xuất, 
đóng gói, dán nhãn, kinh doanh và phân phối tất cả các sản 
phẩm được sản xuất với thành phần tối thiểu 20% vật liệu 
tái chế. Tiêu chuẩn cũng áp dụng cho chuỗi cung ứng đầy 
đủ và xác định địa chỉ nguồn gốc, nguyên tắc môi trường, 
các yêu cầu xã hội và dán nhãn. 
 Bộ tiêu chuẩn TCVN ISO 14001:2010 về quản lý môi 
trường đối với tái chế. Việc đảm bảo thực hiện một số tiêu 
chuẩn liên quan tới tái chế này là lời cam kết của doanh 
nghiệp trong việc đảm bảo bảo vệ môi trường. 
Chất thải điện tử 
Bà Cythia Indirani - Trung tâm vùng Đông Nam Á về 
Công ước Basel (BCRA-BASEL) - cho biết: “Chất thải điện tử” 
hay “thiết bị điện - điện tử thải” là các sản phẩm dân dụng 
và công nghiệp không đáp ứng được mục đích sử dụng 
thiết kế, các sản phẩm đã đến điểm cuối của vòng đời sử 
dụng có hàm chứa chất độc nguy hiểm, ảnh hưởng đến sức 
khỏe con người và môi trường. 
Theo Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế OECD chất 
thải điện tử là “Bất kì thiết bị gia dụng nào tiêu thụ điện và 
đã đạt đến vòng đời cuối cùng của nó”. 
P-ISSN 1859-3585 E-ISSN 2615-9615 ECONOMICS - SOCIETY 
No. 53.2019 ● Journal of SCIENCE & TECHNOLOGY 103
Theo Dự án sáng kiến giải quyết các vấn đề về rác thải 
điện tử - STEP của Liên Hợp Quốc, chất thải điện tử được 
định nghĩa “Chất thải điện tử là thuật ngữ chỉ tất cả các 
thiết bị điện - điện tử và một phần của nó đã bị thải bỏ bởi 
chủ sở hữu mà không có ý định tái sử dụng”. 
Tại Việt Nam hiện nay, chưa có định nghĩa chính thức về 
chất thải điện tử mà chỉ có các khái niệm về chất thải, chất 
thải nguy hại, vậy nên dựa trên nghiên cứu các khái niệm 
và thực tiễn tại Việt Nam nhóm tác giả đề xuất sử dụng khái 
niệm của STEP “Chất thải điện tử là thuật ngữ chỉ tất cả các 
thiết bị điện - điện tử và một phần của nó đã bị thải bỏ bởi 
chủ sở hữu mà không có ý định tái sử dụng”. 
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Một là, Việt Nam chưa có chương trình phân loại và 
thu gom chất thải điện tử một cách chính quy. Điều này 
dẫn đến hai hệ quả: Thứ nhất là các doanh nghiệp thiếu 
đầu vào đủ lớn để đầu tư tái chế. Thứ hai là ô nhiễm môi 
trường do hoạt động tái chế thủ công. Cụ thể hiện trạng ở 
Việt Nam như sau: Hiện nay, ở Việt Nam chưa quy định mã 
ngành công nghiệp môi trường, trong đó tái chế chất thải 
điện tử là một lĩnh vực thuộc ngành này. Nhu cầu sử dụng 
thiết bị điện - điện tử gia dụng ngày càng tăng cao cộng 
với nguồn thải từ sản xuất công nghiệp và lượng nhập 
khẩu với nhiều hình thức đã làm lượng chất thải điện tử gia 
tăng nhanh chóng ở Việt Nam (Biểu đồ 1). 
Bảng 1. Tổng lượng chất thải điện tử ở Việt Nam qua các năm 
Năm 2014 2016 2018 
Tổng lượng chất thải điện tử ( tấn) 60.000 90.000 116.000 
(Nguồn: Cục Kiểm soát ô nhiễm, Bộ Tài nguyên và Môi trường) 
Chất thải điện tử chủ yếu mới được tái chế sơ bộ và xuất 
sang Trung Quốc tại các làng nghề tái chế thủ công. Đến 
nay, chưa có một tổ chức nào trong nước có khả năng tái 
chế, thu hồi nguyên liệu gốc chứa trong thành phần của 
chất thải điện tử. 
Theo thống kê của Chương trình Môi trường Liên Hợp 
Quốc, mỗi người dân Việt Nam thải ra trung bình 1,3kg chất 
thải điện tử năm 2018, tương đương 116.000 tấn. Những đồ 
điện tử tiêu dùng như ti vi, máy tính, thiết bị ngoại vi, thiết 
bị âm thanh, điện thoại chiếm tới 2% trong tổng số toàn 
bộ rác thải hiện nay. 
Mặc dù con số rất nhỏ nhưng nguy cơ và mức độ độc 
hại của những loại rác thải này lại không nhỏ. Các thiết bị 
điện và điện tử chứa các vật liệu, linh kiện và các hóa chất 
khác nhau. Các chất này hoàn toàn vô hại trong suốt thời 
gian sử dụng thiết bị. 
Tuy nhiên, chúng sẽ trở nên cực kỳ độc hại khi thiết bị 
được tháo dỡ hoặc mở ra để xử lý một cách không chuyên 
nghiệp như chì, thủy ngân Các chất này có thể ngấm sâu 
vào lòng đất và mạch nước ngầm, gây ảnh hưởng nghiêm 
trọng tới sức khỏe con người và để lại những hậu họa khôn 
lường cho môi trường. 
Theo báo cáo của Viện Khoa học và Công nghệ môi 
trường, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội, lượng phát thải 
tivi ở Việt Nam vào năm 2025 có thể lên tới 250.000 tấn. 
Lượng chất thải điện tử ở Việt Nam mỗi năm tăng khoảng 
100.000 tấn, chủ yếu phát sinh từ hộ gia đình (đồ gia dụng 
điện tử), văn phòng (máy tính, máy photocopy, máy fax...), 
các bộ sản phẩm điện tử lỗi và các thiết bị thải được nhập 
khẩu bất hợp pháp. 
(Nguồn: Cục Kiểm soát ô nhiễm, Bộ Tài nguyên và Môi trường) 
Biểu đồ 1. Thiết bị điện tử thải bỏ gia tăng ở Việt Nam 
Vấn đề tồn tại lớn nhất khiến Việt Nam chưa có ngành 
công nghiệp tái chế chất thải điện tử thật sự nằm ở việc 
thiếu đầu vào ổn định và đủ lớn. Việt Nam chưa có hệ 
thống quản lý có thể kiểm soát một lượng lớn chất thải 
điện tử và thu hồi vật liệu có giá trị. Hiện các bên trung gian 
- những người tháo dỡ vật liệu - đang nhận nhiều lợi ích 
kinh tế nhất, nhưng họ không xử lý mà chỉ tháo dỡ để bán. 
Các hộ gia đình khi thải bỏ thiết bị điện tử thường đem bán 
cho bên trung gian. Các công ty tái chế không thể thu mua 
của người dân về xử lý vì giá mua tương đối cao, trong khi 
họ vẫn phải t ... hi về đến các công ty tái chế hầu hết 
đều đã bị nhà cung cấp lấy đi các kim loại dễ tháo dỡ và có 
giá trị cao, chỉ còn sót lại một số bản mạch hay linh kiện đòi 
hỏi công nghệ cao mới thu hồi được kim loại. Ở tình trạng 
đó, nếu đầu tư dây chuyền hiện đại sẽ rất lãng phí, các 
công ty chỉ có thể đầu tư nếu được cung cấp chất thải điện 
tử nguyên bản. 
Hai là, nhận thức của người dân về hoạt động tái chế 
chất thải điện tử chưa đúng đắn, còn lẫn lộn giữa việc coi 
chất thải điện tử là rác hay là tài nguyên. Tại nông thôn 
hay thành thị, người dân đều duy trì thói quen bán đồ điện 
tử thải bỏ cho bên thu gom tư nhân để kiếm chút tiền, mà 
không nghĩ rằng đó là rác thải nguy hại, họ lẽ ra phải trả 
 XÃ HỘI 
 Tạp chí KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ● Số 53.2019 104
KINH TẾ P-ISSN 1859-3585 E-ISSN 2615-9615 
tiền để bảo vệ tương lai của chính mình. Tuy đã xuất hiện 
một vài tổ chức phi lợi nhuận giúp thu gom rác thải điện tử 
tận nhà một cách chính quy nhưng người dân còn khá thờ 
ơ, điển hình là tổ chức Việt Nam tái chế. Tổ chức Việt Nam 
tái chế (VRP), bao gồm các nhà sản xuất thiết bị điện và 
điện tử hàng đầu HP Inc, Apple, Microsoft đã nỗ lực “xanh 
hóa” môi trường, thu gom miễn phí rác thải điện tử, nhằm 
bảo đảm quy trình tái chế sản phẩm điện tử chuyên nghiệp 
và thân thiện với môi trường tại Việt Nam, bắt đầu hoạt 
động từ tháng 1-2015. Sau 4 năm, VRP đã thiết lập được 10 
điểm thu gom tại Hà Nội và TP HCM, tiếp cận được với 
7.623 hộ gia đình và thu gom được 537 thiết bị thải bỏ; hơn 
5 tấn rác thải điện tử đã được thu gom và xử lý chuyên 
nghiệp bởi VRP, vẫn còn khiêm tốn do các nhà thu gom và 
đại lý phế liệu không chính thức vẫn chiếm ưu thế. Đối với 
việc thu gom rác thải điện tử ở hộ gia đình, VRP đã đáp ứng 
thói quen thu gom tận nhà của người dân, nhưng người 
dân, đặc biệt ở Hà Nội, vẫn muốn được trả tiền khi giao lại 
các thiết bị cũ của họ. Thách thức lớn nhất VRP đang phải 
đối mặt là người tiêu dùng còn khá ngại mang thiết bị điện 
tử đến chương trình vì cho rằng, VRP không mang cho họ 
lợi ích nào. 
Ba là, Chính phủ chưa ban hành văn bản hướng dẫn 
chi tiết việc thực hiện Quyết định số 16/2015/QĐ-TTg. 
Quyết định này bắt buộc các nhà sản xuất phải cung cấp 
các địa điểm cụ thể để người tiêu dùng có thể đến và thải 
bỏ các thiết bị điện tử đã qua sử dụng, điều này dẫn đến 
việc các doanh nghiệp sản xuất thiết bị điện tử chưa có 
trách nhiệm trong việc thu hồi và tái chế chất thải điện tử. 
Vấn đề rác thải điện tử chỉ có thể được giải quyết khi tất cả 
mọi người, bao gồm cả nhà sản xuất và người tiêu dùng, 
cùng nhau chung tay hành động, tuy nhiên phần lớn các 
nhà sản xuất đều chờ đợi ban hành chính thức Thông tư 
hướng dẫn cụ thể về vấn đề này trước khi quyết định tham 
gia chương trình. 
Bốn là, chưa có cơ chế hỗ trợ các doanh nghiệp đầu tư 
vào lĩnh vực này, đặc biệt là các công ty thứ 3 chuyên 
ngành dịch vụ công nghiệp môi trường, trong đó có thu 
gom và tái chế chất thải điện tử. Việt Nam có gần 150 
doanh nghiệp đăng kí kinh doanh lĩnh vực tái chế chất thải, 
trong đó chỉ có 15 cơ sở chính quy được cấp phép xử lý 
chất thải điện tử, công suất từ 0,5-3 tấn/ngày nhưng công 
nghệ mới chỉ dừng ở mức phân nhóm vật liệu và thu hồi 
một số kim loại thường, có hàm lượng cao như đồng, 
nhôm. Còn các cơ sở phi chính quy (như các làng nghề) sử 
dụng công nghệ cũ, thiết bị lạc hậu, gây hại lớn đến môi 
trường, chất lượng sản phẩm và lượng nguyên liệu thu hồi 
thấp. Các doanh nghiệp tái chế hiện nay đều chưa có nhiều 
công nghệ để xử lý chất thải điện tử. Tivi, tủ lạnh, máy điều 
hòa... vẫn đang được xử lý như chất thải công nghiệp - chủ 
yếu là đốt, chưa phân loại chi tiết đâu là bản mạch, đâu là 
nhựa, đồng, sắt... Các doanh nghiệp này chưa nhận được sự 
hỗ trợ của Nhà nước về mặt bằng, chuyển giao công nghệ 
hoặc vay vốn đầu tư, do đó rất khó để tăng công suất và 
chất lượng xử lý. 
4. BÀI HỌC KINH NGHIỆM TỪ MỘT SỐ NƯỚC 
Hiện nay, hầu hết các nước trên thế giới đều đối mặt với 
bài toán hạn chế và xử lý chất thải điện tử đang ngày càng 
tăng. Lượng chất thải nguy hại này đã tăng đều đặn từ năm 
2010 đến nay và không có xu hướng giảm (bảng 2). Một số 
nước như Mỹ, Nhật Bản hay Singapore đã có những biện 
pháp hiệu quả để giải quyết vấn đề trên. 
Bảng 2. Lượng chất thải điện tử phát sinh trên toàn cầu 
Năm Lượng chất 
thải điện tử 
(Triệu tấn) 
Dân số 
(Tỉ người) 
Lượng chất thải điện tử phát 
sinh theo đầu người 
(kg/người/năm) 
2010 33,8 6,8 5,0 
2011 35,8 6,9 5,2 
2012 37,8 6,9 5,4 
2013 39,8 7,0 5,7 
2014 41,8 7,1 5,9 
2015 43,8 7,2 6,1 
2016 45,7 7,3 6,3 
2017 47,8 7,4 6,5 
2019 49,8 7,4 6,7 
(Nguồn: Baldé C.P.,Wang F., Kueher R., Huisman J.,The Global E- Waste 
Monitor 2014 Quantitities, flows and resources, United Nations University) 
Tại Mỹ, đặc biệt là ở một số thành phố lớn như New 
York hay Washington đều có quy định yêu cầu các nhà sản 
xuất thiết bị điện tử phải có trách nhiệm thu hồi sản phẩm 
do chính công ty mình làm ra thông qua các điểm thu gom 
rồi tái chế lại hoặc chuyển giao cho các công ty tái chế của 
bên thứ ba. Các công ty này sẽ có điểm thu gom hoặc dùng 
xe tải để chủ động thu gom trong thành phố, sau đó tập 
kết về kho và tiến hành phân loại. Nếu không thể tái sử 
dụng, họ sẽ đốt hoặc tháo rời linh kiện bằng tay để lấy lại 
các kim loại quý trong thiết bị như vàng, bạc, bạch kim, 
thép 
Ở Nhật Bản, công tác phân loại và thu gom chất thải tại 
nguồn được tiến hành chặt chẽ. Chất thải điện tử, thiết bị cũ 
sẽ do các hãng sản xuất chịu trách nhiệm xử lý. Theo đó, khi 
mua sản phẩm mới, nếu có đồ cũ, người tiêu dùng sẽ nhận 
được tiền cho các khoản rác thải điện tử mà họ có. Chính 
quyền tại các thành phố lớn như Tokyo, Kobe, Osaka đều xây 
dựng nhà máy tái chế riêng, trên đường phố cũng được đặt 
thêm các thùng rác nhiều màu sắc để người dùng tự phân 
loại rác. Để bỏ một thiết bị điện tử gia dụng ở Nhật Bản, điều 
đầu tiên cần xem xét không phải là nó có thể bán được bao 
nhiêu tiền mà là phải tốn bao nhiêu chi phí tái chế để chi trả 
cho các tổ chức có liên quan. Luật về tái chế đồ gia dụng của 
Nhật Bản, có hiệu lực với các sản phẩm bao gồm TV, tủ lạnh, 
máy giặt máy sấy và điều hòa không khí yêu cầu chính nhà 
sản xuất thiết bị phải chịu trách nhiệm về việc tái chế các 
thiết bị cũ hỏng. Điều này có nghĩa là các công ty phải thành 
lập hoặc thuê các nhà máy tái chế xử lý. Trong khi đó, việc 
thu gom vận chuyển các thiết bị này tới nhà máy tái chế 
thuộc về trách nhiệm của các nhà phân phối sản phẩm. Tuy 
nhiên, người tiêu dùng phải chịu trách nhiệm chi trả chi phí 
cho hai công việc kể trên. 
P-ISSN 1859-3585 E-ISSN 2615-9615 ECONOMICS - SOCIETY 
No. 53.2019 ● Journal of SCIENCE & TECHNOLOGY 105
Người dân Nhật Bản sẽ phải trả tiền cho đơn vị bán lẻ 
hoặc bưu điện khi muốn loại bỏ một thiết bị điện tử gia 
dụng cũ hỏng. Sau đó, họ sẽ nhận được thông tin về thời 
gian và địa điểm để giao thiết bị cho đơn vị tái chế. Ngoài 
ra, trong quy trình sản xuất thiết bị gia dụng ở Nhật Bản, có 
một yêu cầu pháp lý nghiêm ngặt đối với tỷ lệ tài nguyên 
có thể tái chế. Ví dụ, một chiếc TV phải được thiết kế để 
đảm bảo rằng hơn 50% vật liệu trong tổng trọng lượng của 
nó có thể tái chế trong tương lai. Tỷ lệ này ở tủ lạnh, máy 
giặt và điều hòa không khí thậm chí còn cao hơn, có thể 
đạt 60% đến 70%. 
Tại Singapore, Chính phủ nước này khuyến khích những 
nhà sản xuất, nhà phân phối, cửa hàng bán thiết bị điện tử 
thiết lập các kênh để thu hồi rác thải điện tử như đặt thùng 
thu gom rác thải điện tử tại kho bãi, cửa hàng của mình. 
Singapore thúc đẩy sự hợp tác trong nghiên cứu, phát triển 
những sáng kiến, giải pháp cũng như hỗ trợ các công ty xử 
lý rác thải điện tử thông qua ưu đãi về chính sách, huy 
động vốn, điều kiện hoạt động. 
Bên cạnh đó, quốc gia này cũng đang nghiên cứu để 
xây dựng các quy định về "Hệ thống quản lý rác thải điện 
tử" và sẽ áp dụng bắt buộc từ năm 2021. Theo đó, các đơn 
vị tạo ra rác thải điện tử gồm những nhà sản xuất và nhà 
nhập khẩu phải cam kết, sản phẩm của họ sẽ được thu gom 
và tái chế. Các chuỗi cửa hàng bán lẻ lớn của doanh nghiệp 
phải có những điểm thu hồi đồ cũ. Ngoài ra, họ cũng phải 
trả một loại phí môi trường cho các công ty tái chế để hỗ 
trợ ngân sách cho những dịch vụ tái chế. 
5. MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ NHẰM PHÁT TRIỂN HOẠT 
ĐỘNG TÁI CHẾ CHẤT THẢI ĐIỆN TỬ TẠI VIỆT NAM 
Theo dự báo của Cục Kiểm soát ô nhiễm, Bộ Tài nguyên 
và Môi trường, nhu cầu tái chế chất thải rắn nói chung và 
chất thải điện tử nói riêng sẽ càng ngày càng tăng cao. Đến 
năm 2020, ngành tái chế chất thải rắn có thể đạt sản lượng 
89 nghìn tấn/năm và tăng lên 2397 nghìn tấn/năm vào 
2030 (bảng 3). 
Bảng 3. Dự báo nhu cầu phát triển của ngành tái chế chất thải rắn 
TT Lĩnh vực tái chế chất thải rắn Đến năm 
2020 
Đến năm 
2030 
 Tổng chất thải rắn tái chế (nghìn tấn/năm) 7280 21840 
1 Chất thải nguy hại thiêu đốt thu hồi năng lượng 432 1296 
2 Chất thải rắn hóa rắn, và khác 288 864 
3 Chất thải rắn có thể tái chế (từ chất thải rắn 
đô thị) -10% 
15.829 32.993 
4 Chất thải rắn có thể tái chế từ chất thải rắn 
khu công nghiệp 
7.280 21.840 
5 Chất thải rắn hữu cơ làm phân, viên năng lượng 17.588 36.659 
6 Chất thải rắn điện tử 89 2.397 
7 Chất thải rắn ngành điện tái chế làm vật liệu 
xây dựng 
24.600 51.300 
8 Dầu thải tái chế 214 420 
(Nguồn: Cục Kiểm soát ô nhiễm, Bộ Tài nguyên và Môi trường) 
Việt Nam cần có một lộ trình để xây dựng và tạo điều 
kiện phát triển lĩnh vực non trẻ này. Nhóm tác giả đề xuất 
một số biện pháp như sau: 
Một là xây dựng chương trình quốc gia về tái chế chất 
thải điện tử. Việt Nam cần có mã ngành kinh tế và danh 
mục mã sản phẩm của ngành tái chế chất thải điện tử nói 
riêng cũng như cả ngành công nghiệp môi trường nói 
chung để nhận dạng sản phẩm, thiết bị, làm căn cứ để quy 
định các chính sách thuế xuất nhập khẩu đối với hàng hóa 
là sản phẩm và thiết bị của ngành này. Ngoài ra, đây cũng 
là cơ sở để các Bộ, ngành xây dựng các tiêu chuẩn, quy 
chuẩn kỹ thuật quốc gia tương ứng đối với các thiết bị, sản 
phẩm của ngành tái chế chất thải điện tử, làm chuẩn mực 
cho các đánh giá, so sánh trong các hoạt động thẩm định, 
lựa chọn cũng như định giá thiết bị, sản phẩm của các dự 
án đầu tư phát triển ngành này. 
Hai là nâng cao hiệu quả hoạt động tuyên truyền về 
phân loại tại nguồn và thu gom chất thải điện tử đến 
người dân trên cả nước. Việt Nam có thể đi theo mô hình 
xã hội hóa hoạt động phân loại và thu gom rác thải điện tử. 
Về hoạt động phân loại rác, Chính phủ cần ban hành bộ 
quy tắc phân loại và phổ biến đến toàn dân, đặt các điểm 
tập kết rác phổ biến trong các khu dân cư, kết hợp với các 
trường học để cùng tuyên truyền nhằm nâng cao nhận 
thức của người dân về mức độ độc hại, cũng như góp phần 
hạn chế rác thải điện tử. Về hoạt động thu gom, các 
phường, xã, tổ dân phố có thể huy động thanh niên tình 
nguyện, học sinh sinh viên tham gia hàng tuần vào việc 
giúp đỡ, vận chuyển rác thải điện tử từ nhà người dân đến 
điểm tập kết. 
Ba là Chính phủ cần ban hành văn bản chi tiết hướng 
dẫn thực hiện Quyết định số 16/2015/QĐ-TTg. Thông tư 
cần chỉ rõ những quy định về thu hồi, xử lý sản phẩm thải 
bỏ, cũng như các tiêu chuẩn về vật liệu và sản phẩm tái 
chế, đặc thù cho rác thải điện tử, xây dựng một hệ thống 
kiểm soát và giám sát chặt chẽ các hoạt động có liên quan, 
bao gồm: kê khai nhập khẩu, kê khai sản xuất, đăng ký sản 
xuất, đăng ký phân phối, đăng ký tái chế, tháo dỡ, cũng 
như việc thực hiện các tiêu chuẩn về vật liệu và sản phẩm 
tái chế của nhà sản xuất và tái chế rác thải điện tử. Bên 
cạnh đó, Chính phủ cần chủ trì các chương trình và hoạt 
động công bố thông tin để tăng cường kiến thức cho công 
chúng và nâng cao năng lực quản lý trong lĩnh vực này. 
Bốn là Chính phủ cần có kế hoạch hỗ trợ các doanh 
nghiệp tái chế chất thải điện tử. Sự hỗ trợ cần thật sự toàn 
diện trong vấn đề tìm kiếm mặt bằng, chuyển giao công 
nghệ mới và vay vốn ưu đãi, nhằm thu hút vốn đầu tư cả 
trong và ngoài nước vào lĩnh vực này. Trong bối cảnh hội 
nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra ngày càng sâu và rộng, 
phát triển ngành tái chế chất thải điện tử ở Việt Nam không 
thiếu sự hiện diện của các nhà đầu tư quốc tế cùng với đó 
là các thiết bị, máy và dây chuyền xử lý tái chế chất thải 
được nhập khẩu từ nước ngoài. Do đó, Chính phủ cần quy 
hoạch chi tiết các khu vực có thể tập trung xử lý, tái chế rác 
thải điện tử; khuyến khích áp dụng các công nghệ tiên tiến 
 XÃ HỘI 
 Tạp chí KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ● Số 53.2019 106
KINH TẾ P-ISSN 1859-3585 E-ISSN 2615-9615 
hiện đại trong việc xử lý tái chế đúng quy trình để giảm 
thiểu tác hại đến môi trường, kết nối với các ngân hàng để 
xây dựng các kênh hỗ trợ cho vay vốn ưu đãi với các doanh 
nghiệp tái chế rác thải điện tử. 
6. KẾT LUẬN 
Rác thải điện tử đã thật sự trở thành một vấn nạn đáng 
báo động không chỉ riêng Việt Nam mà trên toàn thế giới. 
Để có thể từng bước giải quyết vấn đề này, không chỉ cần 
sự tham gia của Chính phủ, các nhà sản xuất hay các công 
ty chuyên tái chế, mà còn là sự tham gia của toàn xã hội. 
Trong đó, quan trọng nhất là thay đổi nhận thức và thói 
quen của người dân khi sử dụng và bỏ đi một thiết bị điện 
tử. Xây dựng một hệ thống thu gom, vận chuyển, xử lý 
khép kín là yêu cầu cấp bách cần được gỡ rối từ khâu chính 
sách với các văn bản chi tiết từ các cơ quan chức năng. Các 
công ty tham gia hoạt động tái chế rác thải điện tử cần 
nhận được sự hỗ trợ tối đa từ nguồn cung, vốn cho đến 
công nghệ. Có như vậy, trong tương lai Việt Nam mới thật 
sự có ngành công nghiệp môi trường chuyên tái chế chất 
thải điện tử./. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. Phạm Sinh Thành, 2015. Hiện trạng và chính sách phát triển ngành công 
nghiệp môi trường Việt Nam. Tạp chí Môi trường số 10. 
[2]. Đặng Thị Hường, 2013. Nghiên cứu đánh giá tiềm năng tái chế chất thải 
điện tử và thu hồi kim loại có giá trị từ bản mạch điện tử thải bỏ. Luận văn thạc sĩ, 
Trường Đại học Khoa học tự nhiên, mã số: 60 44 41, Hà Nội 
[3]. Huỳnh Trung Hải, 2014. Electric and Electronic Waste recycling in Viet 
Nam. Trường Đại học Bách khoa Hà Nội. 
[4]. Thùy Trang, 2018. Rác thải được tái chế cho nhiều mục đích ở Nhật Bản và 
Singapore. Tạp chí Môi trường công nghiệp xanh số 6. 
[5]. Trương Mạnh Tuấn, 2015. Current status of E-waste in Vietnam and 
future goals. Cục Kiểm soát ô nhiễm, Bộ Tài nguyên và Môi trường. 
[6]. Quyết định số 491/QĐ-TTg phê duyệt điều chỉnh Chiến lược quốc gia về 
quản lý tổng hợp chất thải rắn đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2050. 
[7]. Baldé C.P.,Wang F., Kueher R., Huisman J. The Global E- Waste Monitor 
2014 Quantitities, flows and resources. United Nations University. 
[8]. Gaidajis. G, Angelakoglou. K and Aktsoglou. D., 2010. E-waste: 
Environmental Problems and Current Management. Journal of Engineering 
Science and Technology Review, Greece. 
AUTHORS INFORMATION 
Nguyen Thu Hien, Tran Phuong Thao 
Hanoi University of Industry 

File đính kèm:

  • pdfhoat_dong_tai_che_chat_thai_dien_tu_o_viet_nam_va_mot_so_khu.pdf