Hoàn thiện pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm nhằm bảo vệ quyền lợi của tổ chức tín dụng
Pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm trong hoạt động cho vay của tổ chức
tín dụng (TCTD) là công cụ đảm bảo hài hoà lợi ích của các chủ thể tham
gia quan hệ xử lý tài sản bảo đảm. Tuy nhiên, thực tế trong hoạt động của
TCTD thời gian vừa qua cho thấy quyền lợi của TCTD bị ảnh hưởng do
những tồn tại của vấn đề xử lý tài sản bảo đảm, trong đó có nguyên nhân do
nội dung pháp luật vẫn còn thiếu; nhiều quy định về xử lý tài sản bảo đảm
hiện nay không phù hợp, không đồng bộ, mâu thuẫn với quy định liên quan
trong Bộ Luật Dân sự 2015, gây khó khăn và ảnh hưởng lớn đến quá trình
xử lý tài sản bảo đảm. Dựa trên quan điểm bảo vệ quyền lợi của TCTD, bài
viết tập trung phân tích ba vấn đề cần phải quan tâm hoàn thiện của pháp
luật về xử lý tài sản bảo đảm trong hoạt động cho vay của TCTD ở Việt
Nam hiện nay, bao gồm: i) Hoàn thiện khung pháp luật về xử lý tài sản bảo
đảm; ii) Hoàn thiện nguyên tắc xử lý tài sản bảo đảm; iii) Hoàn thiện một
số quy định cụ thể về xử lý tài sản bảo đảm.
Từ khoá: xử lý tài sản bảo đảm, bảo vệ quyền lợi của tổ chức tín dụng, hoàn
thiện pháp luật.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Hoàn thiện pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm nhằm bảo vệ quyền lợi của tổ chức tín dụng
14 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 219- Tháng 8. 2020 © Học viện Ngân hàng ISSN 1859 - 011X Hoàn thiện pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm nhằm bảo vệ quyền lợi của tổ chức tín dụng Phan Đăng Hải Khoa Luật, Học viện Ngân hàng Ngày nhận: 30/03/2020 Ngày nhận bản sửa: 11/05/2020 Ngày duyệt đăng: 19/05/2020 Pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm trong hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng (TCTD) là công cụ đảm bảo hài hoà lợi ích của các chủ thể tham gia quan hệ xử lý tài sản bảo đảm. Tuy nhiên, thực tế trong hoạt động của TCTD thời gian vừa qua cho thấy quyền lợi của TCTD bị ảnh hưởng do những tồn tại của vấn đề xử lý tài sản bảo đảm, trong đó có nguyên nhân do nội dung pháp luật vẫn còn thiếu; nhiều quy định về xử lý tài sản bảo đảm hiện nay không phù hợp, không đồng bộ, mâu thuẫn với quy định liên quan trong Bộ Luật Dân sự 2015, gây khó khăn và ảnh hưởng lớn đến quá trình xử lý tài sản bảo đảm. Dựa trên quan điểm bảo vệ quyền lợi của TCTD, bài viết tập trung phân tích ba vấn đề cần phải quan tâm hoàn thiện của pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm trong hoạt động cho vay của TCTD ở Việt Nam hiện nay, bao gồm: i) Hoàn thiện khung pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm; ii) Hoàn thiện nguyên tắc xử lý tài sản bảo đảm; iii) Hoàn thiện một số quy định cụ thể về xử lý tài sản bảo đảm. Từ khoá: xử lý tài sản bảo đảm, bảo vệ quyền lợi của tổ chức tín dụng, hoàn thiện pháp luật. Compelting the law on handling security assets in order to protect the interests of credit institutions Abstract: The law on handling security assets in lending activities of credit institutions is a tool to ensure the harmonization of interests of entities involved in the handling of security assets. However, the reality in the operation of credit institutions recently shows that the interests of credit institutions are affected due to the existence of the problem of handling security assets, including the lack of legal content; many current regulations on handling security assets are not appropriate, asynchronous, conflict with the relevant provisions of Civil Code 2015, causing difficulties and greatly affecting the handling of security assets. Based on the point of view of protecting the rights of credit institutions, the article focuses on analyzing three issues that need to be completed in the law on the handling of security assets in lending activities of credit institutions in VietNam at present, includes: i) Completing the legal framework on security property handling; ii) Completing the principle of handling collateral; iii) Completing some specific regulations on handling collaterals. Keywords: handle collaterals, protect the interests of credit institutions, complete the law. Hai Dang Phan Email: haipd@hvnh.edu.vn Faculty of Law, Banking Academy of Vietnam PHAN ĐĂNG HẢI 15Số 219- Tháng 8. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Đặt vấn đề Đối với hoạt động tín dụng, yêu cầu tài sản bảo đảm là một trong các biện pháp giúp TCTD giảm rủi ro trong trường hợp người vay không có khả năng trả nợ, khi đó TCTD có thể thu hồi một phần hoặc toàn bộ gốc và lãi khi xử lý tài sản bảo đảm tiền vay này. Hoạt động xử lý tài sản bảo đảm cho vay của TCTD được hiểu đơn giản là việc TCTD (bên nhận bảo đảm) thực hiện một trong các phương thức xử lý tài sản bảo đảm tiền vay mà Bộ luật Dân sự và các văn bản pháp luật khác về giao dịch bảo đảm đã quy định, khi có sự vi phạm nghĩa vụ của bên vay (bên bảo đảm) theo những cam kết tại hợp đồng tín dụng hoặc hợp đồng bảo đảm tiền vay nhằm thu hồi nguồn vốn đã cho vay (Trương Thanh Đức, 2017, Tr.507). Pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm trong hoạt động cho vay của TCTD là công cụ đảm bảo hài hoà lợi ích của các chủ thể tham gia quan hệ xử lý tài sản bảo đảm (Đoàn Đức Lương, Viên Thế Giang, Võ Thị Mỹ Hương, 2015, Tr.204). Tuy nhiên, thực tế trong hoạt động của TCTD thời gian vừa qua cho thấy quyền lợi của TCTD bị ảnh hưởng do những tồn tại của vấn đề xử lý tài sản bảo đảm (Hồng Anh, 2016). Một phần nguyên nhân cho hiện trạng này là nội dung pháp luật vẫn còn thiếu; nhiều quy định về xử lý tài sản bảo đảm hiện nay không phù hợp, không đồng bộ, mâu thuẫn; thực tiễn áp dụng và thực thi các quy định pháp luật chưa đúng của cơ quan liên quan thi hành pháp luật gây khó khăn và ảnh hưởng lớn đến quá trình xử lý tài sản bảo đảm. Bắt nguồn từ lý do trên, bài viết sẽ tập trung phân tích ba vấn đề cần phải quan tâm hoàn thiện pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm trong hoạt động cho vay của TCTD ở Việt Nam hiện nay, bao gồm: i) Hoàn thiện khung pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm; ii) Hoàn thiện nguyên tắc xử lý tài sản bảo đảm; iii) Hoàn thiện một số quy định cụ thể về xử lý tài sản bảo đảm. 1. Hoàn thiện khung pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay của tổ chức tín dụng Hiện nay ở Việt Nam, khung pháp luật điều chỉnh trực tiếp hoạt động xử lý tài sản bảo đảm tiền vay của TCTD được đề cập tới trong các văn bản như: Bộ luật Dân sự năm 2015, Nghị quyết 42/2017QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng, Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm; Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22/02/2012 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 163/2006/NĐ- CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm; và Thông tư liên tịch số 16/2014/TTLT-BTP-BTNMT-NHNN ngày 06/6/2014 của Bộ Tư pháp, Bộ Tài nguyên & Môi trường và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) hướng dẫn một số vấn đề về xử lý tài sản bảo đảm... Trong số các văn bản pháp luật trên, Bộ luật Dân sự năm 2015 là văn bản Luật có giá trị cao nhất khi điều chỉnh về hoạt động xử lý tài sản bảo đảm trong hoạt động cho vay của TCTD. Theo đó, Điều từ 299 đến 308 của Bộ luật Dân sự quy định về xử lý tài sản bảo đảm là những căn cứ quan trọng nhất điều chỉnh về vấn đề này. Tuy nhiên, để các quy định này đi vào cuộc sống cần có những hướng dẫn cụ thể nhằm đảm bảo sự thuận lợi, công bằng và hợp lý trong xử lý tài sản bảo đảm nói chung và trong trường hợp vi phạm nghĩa vụ trả nợ theo các hợp đồng tín dụng nói riêng. Các văn bản dưới Luật như Nghị định 163/2006/ NĐ-CP, Nghị định 11/2012/NĐ-CP, Thông Hoàn thiện pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm nhằm bảo vệ quyền lợi của tổ chức tín dụng 16 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 219- Tháng 8. 2020 tư 16/2014/TTLT-BTP-BTNMT-NHNN mặc dù vẫn đang được sử dụng trên thực tế, tuy nhiên lại được xây dựng trên nền tảng các quy định pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm của Bộ luật Dân sự 2005. Chính vì vậy, việc các văn bản này không cụ thể hoá được những nội dung của Bộ luật Dân sự 2015, đôi khi mâu thuẫn với Bộ luật Dân sự 2015 là điều không thể tránh khỏi. Đây có thể là một trong những nguyên nhân trực tiếp dẫn đến việc các TCTD gặp nhiều khó khăn khi xử lý tài sản bảo đảm dẫn đến các tranh chấp giữa các bên. Nợ xấu của ngành Ngân hàng gia tăng trong những năm qua là kết quả đến từ sự hạn chế quyền xử lý tài sản bảo đảm của các TCTD trong các quy định pháp luật hiện hành. Để đảm bảo phù hợp với quy định tại Bộ luật Dân sự 2015 và các văn bản liên quan nhằm thúc đẩy các giao dịch bảo đảm phát triển, tăng khả năng tiếp cận vốn tín dụng của các chủ thể trong nền kinh tế, qua đó thúc đẩy hoạt động kinh tế phát triển, việc ban hành Nghị định thay thế Nghị định 163/2006/NĐ-CP và Nghị định 11/2012/NĐ-CP là yêu cầu cấp thiết. Nghị định mới cần xử lý được bất cập, hạn chế đã nảy sinh trong quá trình triển khai thực hiện Nghị định 163/2006/ NĐ-CP cũng như phù hợp với các nội dung liên quan của Bộ luật Dân sự 2015 về giao dịch bảo đảm. Đây là cơ sở quan trọng để hoàn thiện khung pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm, bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của TCTD. 2. Hoàn thiện nguyên tắc xử lý tài sản bảo đảm Căn cứ vào các quy định pháp luật hiện hành, trước hết, việc xử lý tài sản bảo đảm trong hoạt động cho vay của TCTD cần phải tuân thủ các nguyên tắc sau (Trường Đại học Luật Hà Nội, 2018, Tr.71-74): Thứ nhất, việc xử lý tài sản bảo đảm chỉ được tiến hành khi xảy ra các trường hợp: i) Đến hạn thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm mà bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ; ii) Bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm trước thời hạn do vi phạm nghĩa vụ theo thỏa thuận hoặc theo quy định của luật; iii) Trường hợp khác do các bên thỏa thuận hoặc luật có quy định (Điều 299 Bộ luật Dân sự 2015). Thứ hai, việc xử lý tài sản bảo đảm được thực hiện theo thỏa thuận của các bên. Thứ ba, việc xử lý tài sản bảo đảm phải được thực hiện một cách khách quan, công khai, minh bạch, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia giao dịch bảo đảm, cá nhân, tổ chức có liên quan (Khoản 3 Điều 58 Nghị định 163/2006/ NĐ-CP về giao dịch bảo đảm). Trong số các nguyên tắc trên, nguyên tắc tôn trọng sự thoả thuận của các bên luôn đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng pháp luật dân sự nói chung và pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm nói riêng. Tuy nhiên, nguyên tắc này trong các quy định pháp luật hiện nay chưa được thể hiện một cách chi tiết, đồng thời nhiều quy định cứng nhắc, dẫn đến quyền lợi của TCTD (bên nhận bảo đảm) bị ảnh hưởng trong thực tế xử lý tài sản bảo đảm. Trước hết, có thể dẫn chứng quy định về áp dụng phương thức xử lý tài sản bảo đảm: Điều 59 Nghị định 163/2006/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 11/2012/NĐ- CP) về giao dịch bảo đảm và Điều 10, 11, 12 Thông tư liên tịch 16/2014/TTLT-BTP- BTNMT-NHNN ghi nhận việc bắt buộc phải có sự thỏa thuận trước về các phương thức xử lý tài sản bảo đảm thông qua bán PHAN ĐĂNG HẢI 17Số 219- Tháng 8. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng đấu giá hoặc có sự đồng ý của bên bảo đảm trong trường hợp xử lý tài sản bảo đảm không thông qua bán đấu giá. Điều này cũng dễ hiểu khi nền tảng xây dựng các văn bản pháp luật này đều dựa trên quy định của Bộ luật Dân sự 2005, mà theo văn bản này tại Điều 336, 337, 355 cũng ghi nhận phương thức xử lý tài sản bảo đảm tương tự như diễn giải trên. Sang đến Bộ luật Dân sự 2015, các nhà làm luật đã có sự thay đổi khi ghi nhận “Trường hợp không có thoả thuận về phương thức xử lý tài sản bảo đảm thì tài sản được bán đấu giá, trừ trường hợp luật có quy định khác”. Cách hành văn trên gây ra cách hiểu là phải có sự thoả thuận của các bên về tài sản, nếu không tài sản phải được xử lý theo phương thức bán đấu giá. Như vậy, trong trường hợp TCTD có những phương thức xử lý tài sản bảo đảm thuận lợi hơn thì vẫn không được tiến hành mà phải tiến hành theo phương thức bán đấu giá. Tương tự như vậy với việc ký vào các văn bản, giấy tờ chuyển nhượng tài sản bảo đảm. Việc bên bảo đảm tự nguyện tham gia hỗ trợ bên nhận bảo đảm xử lý tài sản bảo đảm, như ký vào các văn bản, giấy tờ chuyển nhượng tài sản không phải lúc nào cũng diễn ra trên thực tế. Trong nhiều trường hợp, bên bảo đảm không thiện chí hợp tác nhằm gây khó khăn cho TCTD xử lý tài sản bảo đảm. Để giải quyết tình huống này, Khoản 2 Điều 12 Thông tư liên tịch số 16/2014/TTLT-BTP-BTNMT-NHNN quy định: “bên nhận bảo đảm được quyền ký hợp đồng, giấy tờ, tài liệu đó nhưng trong hồ sơ đề nghị chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản phải bổ sung một (01) bản chính hợp đồng bảo đảm đã được công chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật hoặc một (01) bản sao hợp đồng bảo đảm được Ủy ban nhân dân cấp xã chứng thực, tổ chức hành nghề công chứng cấp từ bản chính hoặc văn bản khác chứng minh có thỏa thuận về việc bên nhận bảo đảm được quyền ký hợp đồng, giấy tờ, tài liệu chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản bảo đảm”. Quy định này đòi hỏi giữa TCTD (bên nhận bảo đảm) và bên bảo đảm khi ký hợp đồng bảo đảm phải thoả thuận rõ “bên nhận bảo đảm được quyền ký hợp đồng, giấy tờ, tài liệu chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản bảo đảm”. Quy định này mặc dù có vẻ tạo thuận lợi cho bên nhận bảo đảm trong việc xử lý tài sản bảo đảm, nhưng thực chất lại hạn chế quyền định đoạt của bên nhận bảo đảm. Giả sử trong hợp đồng bảo đảm các bên không thoả thuận rõ về việc “bên nhận bảo đảm được quyền ký hợp đồng, giấy tờ, tài liệu chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản bảo đảm” và bên bảo đảm không hợp tác thì rõ ràng TCTD không còn cách nào khác là phải khởi kiện ra toà án (Hồng Anh, 2016). Có thể thấy, nguyên tắc “tôn trọng sự thoả thuận của các bên” hiện hữu trong các quy định của pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm đang dần biến tấu thành “đòi hỏi sự thoả thuận của các bên”, điều này đã hạn chế quyền định đoạt của bên nhận bảo đảm trong việc xử lý tài sản bảo đảm khi xảy ra sự kiện phát sinh quyền xử lý tài sản bảo đảm. Pháp luật của Hoa Kỳ và Australia (quy định tại Uniform Commercial Code- Bộ luật Thương mại thống nhất của Hoa Kỳ và Personal Property Securities Act 2009- Đạo luật về các biện pháp bảo đảm Australia) đều ghi nhận: nếu bên nhận bảo đảm và bên bảo đảm không có thoả thuận trong hợp đồng bảo đảm thì bên nhận bảo đảm có quyền chủ động và lựa chọn phương thức xử lý nào phù hợp nhất đối với từng loại tài sản, và có thể áp dụng đồng thời nhiều phương thức khác nhau đối với các loại tài sản khác nhau, không Hoàn thiện pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm nhằm bảo vệ quyền lợi của tổ chức tín dụng 18 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 219- Tháng 8. 2020 nhất thiết phải bán đấu giá tài sản. Hơn nữa, theo cách tiếp cận của lý thuyết vật quyền, bên nhận bảo đảm có quyền xử lý trực tiếp tài sản bảo đảm, không phụ thuộc vào ý chí của bên bảo đảm (Nguyễn Bích Thảo, 2018, Tr.135). Theo lẽ thông thường, TCTD chấp nhận việc bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của bên bảo đảm vì biết rằng nếu bên có nghĩa vụ vi phạm nghĩa vụ thì TCTD có quyền định đoạt tài sản bảo đảm. Với cơ chế pháp lý hiện hành ở Việt Nam, rõ ràng quyền định đoạt có điều kiện của TCTD không thể tự thực hiện trên thực tế. Xuất phát từ lý do đó, quan điểm xây dựng và thực thi pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm hiện nay cũng cần phải được thay đổi từ nguyên tắc. Việc tôn trọng sự thoả thuận của các bên là một điều không cần bàn cãi, tuy nhiên, trong trường hợp không có sự thoả thuận của các bên, trước hết cần phải ưu tiên bảo vệ quyền lợi của chủ nợ thay vì con nợ, tức bảo vệ quyền sở hữu trọn vẹn là đồng tiền cho vay, thay vì bảo vệ quyền sở hữu hạn chế là đồng tiền đi vay hay tài sản đã đưa vào bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ (Nhuệ Mẫn, 2015). Theo ý kiến của tác giả, Chính phủ cần ban hành Nghị định mới thay thế Nghị định 163/2006/NĐ-CP và Nghị định 11/2012/NĐ-CP theo hướng phù hợp với Bộ luật Dân sự 2015 với các nguyên tắc xử lý tài sản bảo đảm như sau: Thứ nhất, trong trường hợp có thoả thuận về xử lý tài sản bảo đảm thì TCTD (bên nhận bảo đảm) xử lý tài sản bảo đảm theo đúng thoả thuận. Thoả thuận này có thể là một nội dung nằm trong hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo đảm hoặc là một thoả thuận độc lập. Thứ hai, nếu các bên không có thoả thuận về xử lý tài sản bảo đảm, TCTD (bên nhận bảo đảm) được quyền lựa chọn bất kỳ cách thức xử lý tài sản bảo đảm nếu thoả mãn điều kiện: Tài sản bảo đảm được xử lý một cách công bằng, minh bạch và hợp lý về khía cạnh thương mại. Bên xử lý tài sản bảo đảm có quyền thu hồi tài sản bảo đảm nhưng không được sử dụng vũ lực hoặc xâm phạm trật tự công cộng. Hợp lý về khía cạnh thương mại được hiểu là bên xử lý tài sản bảo đảm, việc xử lý tài sản bảo đảm phải được thực hiện ngay trên cơ sở nguyên tắc thiện chí, trung thực. Giá bán tài sản không thấp hơn giá trị hợp lý đối với tài sản có thị trường giao dịch hoặc là giá trị được định giá bởi tổ chức định giá có thẩm quyền đối với tài sản không có thị trường giao dịch. Thứ ba, nếu không có thoả thuận về phương thức xử lý tài sản bảo đảm và bên nhận bảo đảm không lựa chọn phương thức bảo đảm nào khác, tài sản sẽ được xử lý theo quy định của pháp luật. 3. Hoàn thiện một số các quy định cụ thể về xử lý tài sản bảo đảm Trên cơ sở hoàn thiện khung pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm và cụ thể hoá các nguyên tắc xử lý tài sản bảo đảm, các quy định cụ thể về xử lý tài sản bảo đảm trong hoạt động cho vay của TCTD ở Việt Nam cần được hoàn thiện như sau: Thứ nhất, về phương thức xử lý tài sản bảo đảm Điều 303 Bộ luật Dân sự 2015 quy định các phương thức xử lý tài sản cầm cố, thế chấp bao gồm: Thứ nhất, bán tài sản bảo đảm: TCTD có quyền tự bán tài sản bảo đảm cho một người thứ ba bất kỳ mà không cần có sự đồng ý của bên bảo đảm. Tiền thu được trong việc PHAN ĐĂNG HẢI 19Số 219- Tháng 8. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng tự bán tài sản được dùng để khấu trừ phần nghĩa vụ bị vi phạm. Thứ hai, nhận tài sản bảo đảm: Theo phương thức này, TCTD nhận chính tài sản bảo đảm để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên bảo đảm. Theo quy định của pháp luật thì phương thức này chỉ được thực hiện khi các bên đã thỏa thuận, tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, hai bên rất khó tìm được sự đồng thuận về giá trị của tài sản bảo đảm dùng để khấu trừ nghĩa vụ nợ, đặc biệt khi giá trị tài sản bảo đảm tại thời điểm xử lý thấp hơn giá trị khoản vay. Thứ ba, nhận các khoản tiền hoặc tài sản khác từ bên thứ ba: TCTD lập biên bản nhận các khoản tiền, tài sản giữa ngân hàng, bên bảo đảm và bên thứ ba. Nếu bên thứ ba không giao các khoản tiền, tài sản nói trên theo yêu cầu của TCTD thì TCTD có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng thủ tục buộc bên thứ ba phải giao tài sản hoặc khởi kiện ra tòa án. Thứ tư, bán đấu giá tài sản: Trường hợp các bên có thỏa thuận trong giao dịch bảo đảm là TCTD có quyền bán đấu giá tài sản thì khi bên bảo đảm không thực hiện nghĩa vụ, TCTD có quyền ký hợp đồng bán đấu giá tài sản với tổ chức bán đấu giá. Trường hợp các bên không thỏa thuận về bán đấu giá thì TCTD có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền bán đấu giá tài sản theo quy định của pháp luật. Với phương thức này, thực tiễn thi hành pháp luật cho thấy một số bất cập như: chi phí tổ chức bán đấu giá tài sản khá cao; hiện tượng thông đồng, ép giá giữa những người đăng ký mua tài sản đấu giá cũng không loại trừ. Bên cạnh đó, do chủ thể bán đấu giá tài sản không có chức năng cưỡng chế, thu giữ tài sản thế chấp nên nhiều khi phiên đấu giá đã hoàn tất nhưng lại không thu được tiền vì bên bảo đảm không chịu giao tài sản cho bên mua hoặc không làm thủ tục chuyển nhượng quyền sở hữu tài sản cho người trúng đấu giá theo quy định (Phạm Thị Hồng Đào, 2016). Có thể thấy, mặc dù quy định pháp luật về các phương thức xử lý tài sản bảo đảm Bộ luật Dân sự 2015 đã được đề cập cụ thể, tuy nhiên thì việc áp dụng quy định này vào thực tiễn lại gặp rất khó khăn. Vì vậy, tác giả kiến nghị Nghị định hướng dẫn Bộ luật Dân sự 2015 về giao dịch bảo đảm cần có những hướng dẫn chi tiết vấn đề này: i) Quy định ưu tiên quyền lựa chọn phương thức xử lý tài sản bảo đảm phù hợp cho TCTD khi các bên không thoả thuận trước về vấn đề này (nội dung đã được đề cập ở Mục 2); ii) Quy định chi tiết về trình tự, thủ tục, các yêu cầu, điều kiện cho việc áp dụng từng phương thức xử lý tài bảo đảm. Thứ hai, về thời hạn thông báo về việc xử lý tài sản bảo đảm Việc thông báo về việc xử lý tài sản bảo đảm được quy định tại Điều 300 của Bộ luật Dân sự 2015: “trước khi xử lý tài sản bảo đảm, bên nhận bảo đảm phải thông báo bằng văn bản trong một thời hạn hợp lý về việc xử lý tài sản bảo đảm cho bên bảo đảm và các bên cùng nhận bảo đảm khác”, tuy nhiên thì quy định này còn chung chung chưa cụ thể. Vì vậy, cần đưa ra các quy định cụ thể và rõ ràng liên quan đến “thời hạn hợp lý”, đặc biệt là đối với tài sản là động sản và tài sản là bất động sản tương ứng. Việc quy định rõ ràng và cụ thể sẽ giúp các TCTD chủ động hơn trong việc xử lý tài sản bảo đảm. Thứ ba, về định giá tài sản bảo đảm Theo quy định tại Khoản 1 Điều 306 Bộ luật Dân sự 2015: “bên bảo đảm và bên Hoàn thiện pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm nhằm bảo vệ quyền lợi của tổ chức tín dụng 20 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 219- Tháng 8. 2020 nhận bảo đảm có quyền thoả thuận về giá tài sản bảo đảm hoặc định giá thông qua tổ chức định giá tài sản khi xử lý tài sản bảo đảm”. Quy định này có thể dẫn đến cách hiểu: khi xử lý tài sản bảo đảm, TCTD phải thống nhất với bên được bảo đảm, nếu TCTD không thống nhất được với bên bảo đảm thì phải thông qua tổ chức định giá tài sản. Trong trường hợp vi phạm xảy ra, nếu hợp đồng bảo đảm có thoả thuận về việc TCTD được quyết định giá tài sản khi xử lý thì TCTD có quyền quyết định không hay đến lúc xử lý lại phải được sự đồng ý của các bên bảo đảm? Đây là một nội dung cần phải được làm rõ trong Nghị định hướng dẫn. Ngoài ra, Điều 306 Bộ luật Dân sự 2015 chỉ thừa nhận giá tài sản bảo đảm theo thỏa thuận hoặc theo định giá của tổ chức định giá. Điều này đã loại trừ trường hợp tự xác định giá theo thị trường. Đối với các tài sản đã có thị trường giao dịch được công nhận như chứng khoán thì việc đòi hỏi được định giá lại gây ra tốn kém cho các bên. Vì vậy, Điều 306 Bộ luật Dân sự 2015 cũng cần được hướng dẫn và giải thích theo hướng đối với tài sản đã có thị trường giao dịch được công nhận thì không cần phải định giá mà xác định theo giá thị trường tại thời điểm định xử lý tài sản bảo đảm (Lê Thị Thu Thủy, 2016. Tr.321). Thứ tư, về quyền thu giữ tài sản bảo đảm của tổ chức tín dụng Quyền thu giữ tài sản bảo đảm là quyền không thể thiếu của TCTD (bên nhận bảo đảm) trong quá trình xử lý tài sản bảo đảm. Tuy nhiên, trên thực tế, TCTD phần lớn không thực hiện được quyền thu giữ tài sản bảo đảm khi bên bảo đảm không hợp tác, chống đối: Không thu giữ tài sản bảo đảm thì TCTD không xử lý được tài sản, thậm chí TCTD có nguy cơ vi phạm hợp đồng bán tài sản trong trường hợp đã bán tài sản nhưng bên giữ tài sản bảo đảm không giao tài sản cho bên mua tài sản. Không thực hiện được quyền thu giữ tài sản, TCTD không xử lý được tài sản theo nguyên tắc thỏa thuận quy định tại Bộ luật Dân sự và thỏa thuận tại hợp đồng bảo đảm. TCTD buộc phải khởi kiện- thực hiện theo con đường tố tụng, thi hành án (Đoàn Thị Ngọc Hải, 2019). Hiện nay, căn cứ pháp lý về quyền thu giữ tài sản bảo đảm được ghi nhận tại Điều 63 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP và Điều 9 Thông tư liên tịch số 16/2014/TTLT- BTP- BTNMT-NHNN: Người giữ tài sản bảo đảm phải giao tài sản đó cho người xử lý tài sản, hết thời hạn theo thông báo bên giữ tài sản không giao tài sản người xử lý tài sản có quyền thu giữ tài sản bảo đảm. Người xử lý tài sản có quyền yêu cầu Ủy ban nhân dân cấp xã và Cơ quan công an áp dụng các biện pháp để thực hiện quyền thu giữ. Một thay đổi là hiện nay Bộ luật Dân sự 2015 không có quy định cụ thể về quyền thu giữ tài sản bảo đảm, theo đó, Điều 301 chỉ quy định trường hợp người đang giữ tài sản không giao tài sản thì bên nhận bảo đảm có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết, trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác. Để bảo đảm thực thi quyền xử lý tài sản bảo đảm của bên nhận bảo đảm, Bộ luật Dân sự 2015 đã ghi nhận quyền truy đòi tài sản bảo đảm để xử lý tài sản bảo đảm (Khoản 2 Điều 297) và nghĩa vụ giao tài sản cho bên nhận bảo đảm để xử lý của người đang giữ tài sản khi có căn cứ xử lý tài sản bảo đảm quy định tại Điều 299 Bộ luật Dân sự 2015. Trường hợp người giữ tài sản không chuyển giao để thu hồi tài sản mà phải yêu cầu Toà án giải quyết. Quy định này nhằm ngăn ngừa trường hợp bên nhận bảo đảm cố ý gây mất trật tự xã hội hoặc cưỡng đoạt PHAN ĐĂNG HẢI 21Số 219- Tháng 8. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng tài sản trái pháp luật (Nguyễn Văn Cừ, Trần Thị Huệ, 2017, Tr.479). Tuy nhiên, đứng dưới góc độ bảo vệ quyền lợi của TCTD- chủ thể có quyền lợi thường xuyên bị xâm hại trong mối quan hệ xử lý tài sản bảo đảm, tác giả kiến nghị sửa đổi Điều 301 Bộ luật Dân sự 2015 cần được quy định lại theo hướng trao quyền thu giữ tài sản bảo đảm cho TCTD- bên nhận bảo đảm. Tất nhiên, đồng nghĩa với việc đó thì TCTD cũng phải bảo đảm việc thu giữ không vi phạm trật tự công cộng, không sử dụng vũ lực hoặc đe doạ sử dụng vũ lực hoặc có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự hoặc nhân phẩm của bên bảo đảm. Các hướng dẫn chi tiết về quyền thu giữ tài sản bảo đảm của TCTD phải được đề cập tới trong Nghị định mới về giao dịch bảo đảm, trong đó tập trung vào các nội dung như: i) Quy định cơ chế xử lý khác nhau đối với quyền thu giữ tài sản bảo đảm trong trường hợp tài sản bảo đảm là bất động sản và động sản; ii) Quy định chi tiết về nghĩa vụ hỗ trợ từ phía cơ quan công quyền đối với quyền thu giữ tài sản bảo đảm; iii) Quy định chế tài cụ thể đối với trường hợp bên bảo đảm chống đối, không hợp tác ■ Tài liệu tham khảo 1. Bộ Tư pháp, Bộ Tài nguyên & Môi trường và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2014), Thông tư liên tịch số 16/2014/ TTLT-BTP-BTNMT-NHNN ngày 06/6/2014 của Bộ Tư pháp, Bộ Tài nguyên & Môi trường và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn một số vấn đề về xử lý tài sản bảo đảm. 2. Chính phủ (2006), Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm. 3. Chính phủ (2012), Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22/02/2012 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm. 4. Đoàn Đức Lương, Viên Thế Giang, Võ Thị Mỹ Hương (2015), Pháp luật về giao dịch bảo đảm trong hoạt động cấp tín dụng ở Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 5. Đoàn Thị Ngọc Hải (2019), Hoàn thiện pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm ở nước ta hiện nay, truy cập 20/4/2020, từ . 6. Hồng Anh (2016), Nhiều vướng mắc trong xử lý tài sản bảo đảm, truy cập 20/4/2020, từ <https://www.nhandan.com. vn/kinhte/item/31475602-nhieu-vuong-mac-trong-xu-ly-tai-san-bao-dam.html> 7. Lê Thị Thu Thủy – Chủ biên (2016), Pháp luật về các biện pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng ở Việt Nam và một số nước trên thế giới, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 8. Nguyễn Bích Thảo (2018), Giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng theo pháp luật Việt Nam, NXB Tư pháp, Hà Nội. 9. Nguyễn Văn Cừ, Trần Thị Huệ - Đồng Chủ biên (2017), Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự năm 2015 của nước CHXHCN Việt Nam, NXB Công an Nhân dân, Hà Nội. 10. Nhuệ Mẫn (2015), Tài sản bảo đảm là “cục máu đông” của nợ xấu, truy cập 20/4/2020, từ <https:// tinnhanhchungkhoan.vn/tien-te/tai-san-bao-dam-la-cuc-mau-dong-cua-no-xau-132908.html> 11. Parliamnet of Australia (2009), Personal Property Securities Act 2009. 12. Phạm Thị Hồng Đào (2016), Xử lý tài sản bảo đảm tiền vay tại ngân hàng, truy cập 20/4/2020, từ <https://moj.gov.vn/ qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=2054> 13. Quốc hội (2015), Bộ luật Dân sự năm 2015 (Luật số 91/2015 ngày 24/11/2015). 14. Quốc hội (2017), Nghị quyết 42/2017QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng. 15. The American Law Institute and the National Conference of Commissioners on Uniform State (2005), Uniform Commercial Code. 16. Trương Thanh Đức (2017), 9 biện pháp bảo đảm nghĩa vụ hợp đồng, NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội. 17. Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam - Tập 2, NXB Công an Nhân dân, Hà Nội.
File đính kèm:
- hoan_thien_phap_luat_ve_xu_ly_tai_san_bao_dam_nham_bao_ve_qu.pdf