Hoàn thiện pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm nhằm bảo vệ quyền lợi của tổ chức tín dụng

Pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm trong hoạt động cho vay của tổ chức

tín dụng (TCTD) là công cụ đảm bảo hài hoà lợi ích của các chủ thể tham

gia quan hệ xử lý tài sản bảo đảm. Tuy nhiên, thực tế trong hoạt động của

TCTD thời gian vừa qua cho thấy quyền lợi của TCTD bị ảnh hưởng do

những tồn tại của vấn đề xử lý tài sản bảo đảm, trong đó có nguyên nhân do

nội dung pháp luật vẫn còn thiếu; nhiều quy định về xử lý tài sản bảo đảm

hiện nay không phù hợp, không đồng bộ, mâu thuẫn với quy định liên quan

trong Bộ Luật Dân sự 2015, gây khó khăn và ảnh hưởng lớn đến quá trình

xử lý tài sản bảo đảm. Dựa trên quan điểm bảo vệ quyền lợi của TCTD, bài

viết tập trung phân tích ba vấn đề cần phải quan tâm hoàn thiện của pháp

luật về xử lý tài sản bảo đảm trong hoạt động cho vay của TCTD ở Việt

Nam hiện nay, bao gồm: i) Hoàn thiện khung pháp luật về xử lý tài sản bảo

đảm; ii) Hoàn thiện nguyên tắc xử lý tài sản bảo đảm; iii) Hoàn thiện một

số quy định cụ thể về xử lý tài sản bảo đảm.

Từ khoá: xử lý tài sản bảo đảm, bảo vệ quyền lợi của tổ chức tín dụng, hoàn

thiện pháp luật.

pdf 8 trang phuongnguyen 80
Bạn đang xem tài liệu "Hoàn thiện pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm nhằm bảo vệ quyền lợi của tổ chức tín dụng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Hoàn thiện pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm nhằm bảo vệ quyền lợi của tổ chức tín dụng

Hoàn thiện pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm nhằm bảo vệ quyền lợi của tổ chức tín dụng
14
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
Số 219- Tháng 8. 2020
© Học viện Ngân hàng
ISSN 1859 - 011X 
Hoàn thiện pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm nhằm 
bảo vệ quyền lợi của tổ chức tín dụng
Phan Đăng Hải
Khoa Luật, Học viện Ngân hàng
Ngày nhận: 30/03/2020 Ngày nhận bản sửa: 11/05/2020 Ngày duyệt đăng: 19/05/2020
Pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm trong hoạt động cho vay của tổ chức 
tín dụng (TCTD) là công cụ đảm bảo hài hoà lợi ích của các chủ thể tham 
gia quan hệ xử lý tài sản bảo đảm. Tuy nhiên, thực tế trong hoạt động của 
TCTD thời gian vừa qua cho thấy quyền lợi của TCTD bị ảnh hưởng do 
những tồn tại của vấn đề xử lý tài sản bảo đảm, trong đó có nguyên nhân do 
nội dung pháp luật vẫn còn thiếu; nhiều quy định về xử lý tài sản bảo đảm 
hiện nay không phù hợp, không đồng bộ, mâu thuẫn với quy định liên quan 
trong Bộ Luật Dân sự 2015, gây khó khăn và ảnh hưởng lớn đến quá trình 
xử lý tài sản bảo đảm. Dựa trên quan điểm bảo vệ quyền lợi của TCTD, bài 
viết tập trung phân tích ba vấn đề cần phải quan tâm hoàn thiện của pháp 
luật về xử lý tài sản bảo đảm trong hoạt động cho vay của TCTD ở Việt 
Nam hiện nay, bao gồm: i) Hoàn thiện khung pháp luật về xử lý tài sản bảo 
đảm; ii) Hoàn thiện nguyên tắc xử lý tài sản bảo đảm; iii) Hoàn thiện một 
số quy định cụ thể về xử lý tài sản bảo đảm.
Từ khoá: xử lý tài sản bảo đảm, bảo vệ quyền lợi của tổ chức tín dụng, hoàn 
thiện pháp luật.
Compelting the law on handling security assets in order to protect the interests of credit institutions 
Abstract: The law on handling security assets in lending activities of credit institutions is a tool to ensure 
the harmonization of interests of entities involved in the handling of security assets. However, the reality in 
the operation of credit institutions recently shows that the interests of credit institutions are affected due to 
the existence of the problem of handling security assets, including the lack of legal content; many current 
regulations on handling security assets are not appropriate, asynchronous, conflict with the relevant provisions 
of Civil Code 2015, causing difficulties and greatly affecting the handling of security assets. Based on the point 
of view of protecting the rights of credit institutions, the article focuses on analyzing three issues that need to 
be completed in the law on the handling of security assets in lending activities of credit institutions in VietNam 
at present, includes: i) Completing the legal framework on security property handling; ii) Completing the 
principle of handling collateral; iii) Completing some specific regulations on handling collaterals.
Keywords: handle collaterals, protect the interests of credit institutions, complete the law.
Hai Dang Phan
Email: haipd@hvnh.edu.vn
Faculty of Law, Banking Academy of Vietnam
PHAN ĐĂNG HẢI
15Số 219- Tháng 8. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
Đặt vấn đề
Đối với hoạt động tín dụng, yêu cầu tài 
sản bảo đảm là một trong các biện pháp 
giúp TCTD giảm rủi ro trong trường hợp 
người vay không có khả năng trả nợ, khi đó 
TCTD có thể thu hồi một phần hoặc toàn 
bộ gốc và lãi khi xử lý tài sản bảo đảm tiền 
vay này. Hoạt động xử lý tài sản bảo đảm 
cho vay của TCTD được hiểu đơn giản là 
việc TCTD (bên nhận bảo đảm) thực hiện 
một trong các phương thức xử lý tài sản 
bảo đảm tiền vay mà Bộ luật Dân sự và các 
văn bản pháp luật khác về giao dịch bảo 
đảm đã quy định, khi có sự vi phạm nghĩa 
vụ của bên vay (bên bảo đảm) theo những 
cam kết tại hợp đồng tín dụng hoặc hợp 
đồng bảo đảm tiền vay nhằm thu hồi nguồn 
vốn đã cho vay (Trương Thanh Đức, 2017, 
Tr.507). 
Pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm trong 
hoạt động cho vay của TCTD là công cụ 
đảm bảo hài hoà lợi ích của các chủ thể tham 
gia quan hệ xử lý tài sản bảo đảm (Đoàn 
Đức Lương, Viên Thế Giang, Võ Thị Mỹ 
Hương, 2015, Tr.204). Tuy nhiên, thực tế 
trong hoạt động của TCTD thời gian vừa 
qua cho thấy quyền lợi của TCTD bị ảnh 
hưởng do những tồn tại của vấn đề xử lý tài 
sản bảo đảm (Hồng Anh, 2016). Một phần 
nguyên nhân cho hiện trạng này là nội dung 
pháp luật vẫn còn thiếu; nhiều quy định về 
xử lý tài sản bảo đảm hiện nay không phù 
hợp, không đồng bộ, mâu thuẫn; thực tiễn 
áp dụng và thực thi các quy định pháp luật 
chưa đúng của cơ quan liên quan thi hành 
pháp luật gây khó khăn và ảnh hưởng lớn 
đến quá trình xử lý tài sản bảo đảm.
Bắt nguồn từ lý do trên, bài viết sẽ tập trung 
phân tích ba vấn đề cần phải quan tâm hoàn 
thiện pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm 
trong hoạt động cho vay của TCTD ở Việt 
Nam hiện nay, bao gồm: i) Hoàn thiện 
khung pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm; 
ii) Hoàn thiện nguyên tắc xử lý tài sản bảo 
đảm; iii) Hoàn thiện một số quy định cụ thể 
về xử lý tài sản bảo đảm.
1. Hoàn thiện khung pháp luật về xử lý tài 
sản bảo đảm tiền vay của tổ chức tín dụng
Hiện nay ở Việt Nam, khung pháp luật điều 
chỉnh trực tiếp hoạt động xử lý tài sản bảo 
đảm tiền vay của TCTD được đề cập tới 
trong các văn bản như: Bộ luật Dân sự năm 
2015, Nghị quyết 42/2017QH14 về thí điểm 
xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng, Nghị 
định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 
của Chính phủ về giao dịch bảo đảm; Nghị 
định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22/02/2012 
của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một 
số điều của Nghị định số 163/2006/NĐ-
CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về 
giao dịch bảo đảm; và Thông tư liên tịch 
số 16/2014/TTLT-BTP-BTNMT-NHNN 
ngày 06/6/2014 của Bộ Tư pháp, Bộ Tài 
nguyên & Môi trường và Ngân hàng Nhà 
nước Việt Nam (NHNN) hướng dẫn một số 
vấn đề về xử lý tài sản bảo đảm...
Trong số các văn bản pháp luật trên, Bộ 
luật Dân sự năm 2015 là văn bản Luật có 
giá trị cao nhất khi điều chỉnh về hoạt động 
xử lý tài sản bảo đảm trong hoạt động cho 
vay của TCTD. Theo đó, Điều từ 299 đến 
308 của Bộ luật Dân sự quy định về xử lý 
tài sản bảo đảm là những căn cứ quan trọng 
nhất điều chỉnh về vấn đề này. Tuy nhiên, 
để các quy định này đi vào cuộc sống cần 
có những hướng dẫn cụ thể nhằm đảm bảo 
sự thuận lợi, công bằng và hợp lý trong 
xử lý tài sản bảo đảm nói chung và trong 
trường hợp vi phạm nghĩa vụ trả nợ theo 
các hợp đồng tín dụng nói riêng. Các văn 
bản dưới Luật như Nghị định 163/2006/
NĐ-CP, Nghị định 11/2012/NĐ-CP, Thông 
Hoàn thiện pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm nhằm bảo vệ quyền lợi của tổ chức tín dụng
16 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 219- Tháng 8. 2020
tư 16/2014/TTLT-BTP-BTNMT-NHNN 
mặc dù vẫn đang được sử dụng trên thực 
tế, tuy nhiên lại được xây dựng trên nền 
tảng các quy định pháp luật về xử lý tài sản 
bảo đảm của Bộ luật Dân sự 2005. Chính vì 
vậy, việc các văn bản này không cụ thể hoá 
được những nội dung của Bộ luật Dân sự 
2015, đôi khi mâu thuẫn với Bộ luật Dân sự 
2015 là điều không thể tránh khỏi. 
Đây có thể là một trong những nguyên nhân 
trực tiếp dẫn đến việc các TCTD gặp nhiều 
khó khăn khi xử lý tài sản bảo đảm dẫn đến 
các tranh chấp giữa các bên. Nợ xấu của 
ngành Ngân hàng gia tăng trong những năm 
qua là kết quả đến từ sự hạn chế quyền xử 
lý tài sản bảo đảm của các TCTD trong các 
quy định pháp luật hiện hành. Để đảm bảo 
phù hợp với quy định tại Bộ luật Dân sự 
2015 và các văn bản liên quan nhằm thúc 
đẩy các giao dịch bảo đảm phát triển, tăng 
khả năng tiếp cận vốn tín dụng của các chủ 
thể trong nền kinh tế, qua đó thúc đẩy hoạt 
động kinh tế phát triển, việc ban hành Nghị 
định thay thế Nghị định 163/2006/NĐ-CP 
và Nghị định 11/2012/NĐ-CP là yêu cầu 
cấp thiết. Nghị định mới cần xử lý được 
bất cập, hạn chế đã nảy sinh trong quá trình 
triển khai thực hiện Nghị định 163/2006/
NĐ-CP cũng như phù hợp với các nội dung 
liên quan của Bộ luật Dân sự 2015 về giao 
dịch bảo đảm. Đây là cơ sở quan trọng để 
hoàn thiện khung pháp luật về xử lý tài sản 
bảo đảm, bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích 
hợp pháp của TCTD.
2. Hoàn thiện nguyên tắc xử lý tài sản 
bảo đảm
Căn cứ vào các quy định pháp luật hiện 
hành, trước hết, việc xử lý tài sản bảo đảm 
trong hoạt động cho vay của TCTD cần 
phải tuân thủ các nguyên tắc sau (Trường 
Đại học Luật Hà Nội, 2018, Tr.71-74):
Thứ nhất, việc xử lý tài sản bảo đảm chỉ 
được tiến hành khi xảy ra các trường hợp: i) 
Đến hạn thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm 
mà bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc 
thực hiện không đúng nghĩa vụ; ii) Bên 
có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ được 
bảo đảm trước thời hạn do vi phạm nghĩa 
vụ theo thỏa thuận hoặc theo quy định của 
luật; iii) Trường hợp khác do các bên thỏa 
thuận hoặc luật có quy định (Điều 299 Bộ 
luật Dân sự 2015).
Thứ hai, việc xử lý tài sản bảo đảm được 
thực hiện theo thỏa thuận của các bên. 
Thứ ba, việc xử lý tài sản bảo đảm phải 
được thực hiện một cách khách quan, công 
khai, minh bạch, bảo đảm quyền và lợi ích 
hợp pháp của các bên tham gia giao dịch 
bảo đảm, cá nhân, tổ chức có liên quan 
(Khoản 3 Điều 58 Nghị định 163/2006/
NĐ-CP về giao dịch bảo đảm).
Trong số các nguyên tắc trên, nguyên tắc 
tôn trọng sự thoả thuận của các bên luôn 
đóng vai trò quan trọng trong việc xây 
dựng pháp luật dân sự nói chung và pháp 
luật về xử lý tài sản bảo đảm nói riêng. 
Tuy nhiên, nguyên tắc này trong các quy 
định pháp luật hiện nay chưa được thể hiện 
một cách chi tiết, đồng thời nhiều quy định 
cứng nhắc, dẫn đến quyền lợi của TCTD 
(bên nhận bảo đảm) bị ảnh hưởng trong 
thực tế xử lý tài sản bảo đảm.
Trước hết, có thể dẫn chứng quy định về áp 
dụng phương thức xử lý tài sản bảo đảm: 
Điều 59 Nghị định 163/2006/NĐ-CP (sửa 
đổi, bổ sung bởi Nghị định 11/2012/NĐ-
CP) về giao dịch bảo đảm và Điều 10, 11, 
12 Thông tư liên tịch 16/2014/TTLT-BTP-
BTNMT-NHNN ghi nhận việc bắt buộc 
phải có sự thỏa thuận trước về các phương 
thức xử lý tài sản bảo đảm thông qua bán 
PHAN ĐĂNG HẢI
17Số 219- Tháng 8. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
đấu giá hoặc có sự đồng ý của bên bảo đảm 
trong trường hợp xử lý tài sản bảo đảm 
không thông qua bán đấu giá. Điều này 
cũng dễ hiểu khi nền tảng xây dựng các văn 
bản pháp luật này đều dựa trên quy định 
của Bộ luật Dân sự 2005, mà theo văn bản 
này tại Điều 336, 337, 355 cũng ghi nhận 
phương thức xử lý tài sản bảo đảm tương tự 
như diễn giải trên. Sang đến Bộ luật Dân sự 
2015, các nhà làm luật đã có sự thay đổi khi 
ghi nhận “Trường hợp không có thoả thuận 
về phương thức xử lý tài sản bảo đảm thì 
tài sản được bán đấu giá, trừ trường hợp 
luật có quy định khác”. Cách hành văn trên 
gây ra cách hiểu là phải có sự thoả thuận 
của các bên về tài sản, nếu không tài sản 
phải được xử lý theo phương thức bán đấu 
giá. Như vậy, trong trường hợp TCTD có 
những phương thức xử lý tài sản bảo đảm 
thuận lợi hơn thì vẫn không được tiến hành 
mà phải tiến hành theo phương thức bán 
đấu giá.
Tương tự như vậy với việc ký vào các văn 
bản, giấy tờ chuyển nhượng tài sản bảo 
đảm. Việc bên bảo đảm tự nguyện tham 
gia hỗ trợ bên nhận bảo đảm xử lý tài sản 
bảo đảm, như ký vào các văn bản, giấy 
tờ chuyển nhượng tài sản không phải lúc 
nào cũng diễn ra trên thực tế. Trong nhiều 
trường hợp, bên bảo đảm không thiện chí 
hợp tác nhằm gây khó khăn cho TCTD xử 
lý tài sản bảo đảm. Để giải quyết tình huống 
này, Khoản 2 Điều 12 Thông tư liên tịch số 
16/2014/TTLT-BTP-BTNMT-NHNN quy 
định: “bên nhận bảo đảm được quyền ký 
hợp đồng, giấy tờ, tài liệu đó nhưng trong 
hồ sơ đề nghị chuyển quyền sở hữu, quyền 
sử dụng tài sản phải bổ sung một (01) bản 
chính hợp đồng bảo đảm đã được công 
chứng, chứng thực theo quy định của pháp 
luật hoặc một (01) bản sao hợp đồng bảo 
đảm được Ủy ban nhân dân cấp xã chứng 
thực, tổ chức hành nghề công chứng cấp 
từ bản chính hoặc văn bản khác chứng 
minh có thỏa thuận về việc bên nhận bảo 
đảm được quyền ký hợp đồng, giấy tờ, tài 
liệu chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng 
tài sản bảo đảm”. Quy định này đòi hỏi 
giữa TCTD (bên nhận bảo đảm) và bên bảo 
đảm khi ký hợp đồng bảo đảm phải thoả 
thuận rõ “bên nhận bảo đảm được quyền 
ký hợp đồng, giấy tờ, tài liệu chuyển quyền 
sở hữu, quyền sử dụng tài sản bảo đảm”. 
Quy định này mặc dù có vẻ tạo thuận lợi 
cho bên nhận bảo đảm trong việc xử lý tài 
sản bảo đảm, nhưng thực chất lại hạn chế 
quyền định đoạt của bên nhận bảo đảm. Giả 
sử trong hợp đồng bảo đảm các bên không 
thoả thuận rõ về việc “bên nhận bảo đảm 
được quyền ký hợp đồng, giấy tờ, tài liệu 
chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng tài 
sản bảo đảm” và bên bảo đảm không hợp 
tác thì rõ ràng TCTD không còn cách nào 
khác là phải khởi kiện ra toà án (Hồng Anh, 
2016). 
Có thể thấy, nguyên tắc “tôn trọng sự thoả 
thuận của các bên” hiện hữu trong các quy 
định của pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm 
đang dần biến tấu thành “đòi hỏi sự thoả 
thuận của các bên”, điều này đã hạn chế 
quyền định đoạt của bên nhận bảo đảm 
trong việc xử lý tài sản bảo đảm khi xảy ra 
sự kiện phát sinh quyền xử lý tài sản bảo 
đảm. Pháp luật của Hoa Kỳ và Australia 
(quy định tại Uniform Commercial Code- 
Bộ luật Thương mại thống nhất của Hoa 
Kỳ và Personal Property Securities Act 
2009- Đạo luật về các biện pháp bảo đảm 
Australia) đều ghi nhận: nếu bên nhận 
bảo đảm và bên bảo đảm không có thoả 
thuận trong hợp đồng bảo đảm thì bên nhận 
bảo đảm có quyền chủ động và lựa chọn 
phương thức xử lý nào phù hợp nhất đối 
với từng loại tài sản, và có thể áp dụng 
đồng thời nhiều phương thức khác nhau 
đối với các loại tài sản khác nhau, không 
Hoàn thiện pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm nhằm bảo vệ quyền lợi của tổ chức tín dụng
18 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 219- Tháng 8. 2020
nhất thiết phải bán đấu giá tài sản. Hơn 
nữa, theo cách tiếp cận của lý thuyết vật 
quyền, bên nhận bảo đảm có quyền xử lý 
trực tiếp tài sản bảo đảm, không phụ thuộc 
vào ý chí của bên bảo đảm (Nguyễn Bích 
Thảo, 2018, Tr.135). Theo lẽ thông thường, 
TCTD chấp nhận việc bảo đảm thực hiện 
nghĩa vụ của bên bảo đảm vì biết rằng 
nếu bên có nghĩa vụ vi phạm nghĩa vụ thì 
TCTD có quyền định đoạt tài sản bảo đảm. 
Với cơ chế pháp lý hiện hành ở Việt Nam, 
rõ ràng quyền định đoạt có điều kiện của 
TCTD không thể tự thực hiện trên thực tế.
Xuất phát từ lý do đó, quan điểm xây dựng 
và thực thi pháp luật về xử lý tài sản bảo 
đảm hiện nay cũng cần phải được thay đổi từ 
nguyên tắc. Việc tôn trọng sự thoả thuận của 
các bên là một điều không cần bàn cãi, tuy 
nhiên, trong trường hợp không có sự thoả 
thuận của các bên, trước hết cần phải ưu tiên 
bảo vệ quyền lợi của chủ nợ thay vì con nợ, 
tức bảo vệ quyền sở hữu trọn vẹn là đồng 
tiền cho vay, thay vì bảo vệ quyền sở hữu 
hạn chế là đồng tiền đi vay hay tài sản đã 
đưa vào bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ (Nhuệ 
Mẫn, 2015). Theo ý kiến của tác giả, Chính 
phủ cần ban hành Nghị định mới thay thế 
Nghị định 163/2006/NĐ-CP và Nghị định 
11/2012/NĐ-CP theo hướng phù hợp với Bộ 
luật Dân sự 2015 với các nguyên tắc xử lý 
tài sản bảo đảm như sau:
Thứ nhất, trong trường hợp có thoả thuận 
về xử lý tài sản bảo đảm thì TCTD (bên 
nhận bảo đảm) xử lý tài sản bảo đảm theo 
đúng thoả thuận. Thoả thuận này có thể là 
một nội dung nằm trong hợp đồng tín dụng, 
hợp đồng bảo đảm hoặc là một thoả thuận 
độc lập.
Thứ hai, nếu các bên không có thoả thuận 
về xử lý tài sản bảo đảm, TCTD (bên nhận 
bảo đảm) được quyền lựa chọn bất kỳ cách 
thức xử lý tài sản bảo đảm nếu thoả mãn 
điều kiện: Tài sản bảo đảm được xử lý một 
cách công bằng, minh bạch và hợp lý về 
khía cạnh thương mại. Bên xử lý tài sản 
bảo đảm có quyền thu hồi tài sản bảo đảm 
nhưng không được sử dụng vũ lực hoặc 
xâm phạm trật tự công cộng. Hợp lý về 
khía cạnh thương mại được hiểu là bên xử 
lý tài sản bảo đảm, việc xử lý tài sản bảo 
đảm phải được thực hiện ngay trên cơ sở 
nguyên tắc thiện chí, trung thực. Giá bán 
tài sản không thấp hơn giá trị hợp lý đối với 
tài sản có thị trường giao dịch hoặc là giá trị 
được định giá bởi tổ chức định giá có thẩm 
quyền đối với tài sản không có thị trường 
giao dịch.
Thứ ba, nếu không có thoả thuận về phương 
thức xử lý tài sản bảo đảm và bên nhận bảo 
đảm không lựa chọn phương thức bảo đảm 
nào khác, tài sản sẽ được xử lý theo quy 
định của pháp luật.
3. Hoàn thiện một số các quy định cụ thể 
về xử lý tài sản bảo đảm 
Trên cơ sở hoàn thiện khung pháp luật về 
xử lý tài sản bảo đảm và cụ thể hoá các 
nguyên tắc xử lý tài sản bảo đảm, các quy 
định cụ thể về xử lý tài sản bảo đảm trong 
hoạt động cho vay của TCTD ở Việt Nam 
cần được hoàn thiện như sau:
Thứ nhất, về phương thức xử lý tài sản 
bảo đảm
Điều 303 Bộ luật Dân sự 2015 quy định các 
phương thức xử lý tài sản cầm cố, thế chấp 
bao gồm:
Thứ nhất, bán tài sản bảo đảm: TCTD có 
quyền tự bán tài sản bảo đảm cho một người 
thứ ba bất kỳ mà không cần có sự đồng ý 
của bên bảo đảm. Tiền thu được trong việc 
PHAN ĐĂNG HẢI
19Số 219- Tháng 8. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
tự bán tài sản được dùng để khấu trừ phần 
nghĩa vụ bị vi phạm. 
Thứ hai, nhận tài sản bảo đảm: Theo 
phương thức này, TCTD nhận chính tài 
sản bảo đảm để thay thế cho việc thực hiện 
nghĩa vụ của bên bảo đảm. Theo quy định 
của pháp luật thì phương thức này chỉ được 
thực hiện khi các bên đã thỏa thuận, tuy 
nhiên, thực tiễn cho thấy, hai bên rất khó 
tìm được sự đồng thuận về giá trị của tài 
sản bảo đảm dùng để khấu trừ nghĩa vụ nợ, 
đặc biệt khi giá trị tài sản bảo đảm tại thời 
điểm xử lý thấp hơn giá trị khoản vay.
Thứ ba, nhận các khoản tiền hoặc tài sản 
khác từ bên thứ ba: TCTD lập biên bản nhận 
các khoản tiền, tài sản giữa ngân hàng, bên 
bảo đảm và bên thứ ba. Nếu bên thứ ba không 
giao các khoản tiền, tài sản nói trên theo yêu 
cầu của TCTD thì TCTD có quyền yêu cầu 
cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng thủ 
tục buộc bên thứ ba phải giao tài sản hoặc 
khởi kiện ra tòa án.
Thứ tư, bán đấu giá tài sản: Trường hợp các 
bên có thỏa thuận trong giao dịch bảo đảm 
là TCTD có quyền bán đấu giá tài sản thì 
khi bên bảo đảm không thực hiện nghĩa vụ, 
TCTD có quyền ký hợp đồng bán đấu giá 
tài sản với tổ chức bán đấu giá. Trường hợp 
các bên không thỏa thuận về bán đấu giá thì 
TCTD có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước 
có thẩm quyền bán đấu giá tài sản theo quy 
định của pháp luật. Với phương thức này, 
thực tiễn thi hành pháp luật cho thấy một số 
bất cập như: chi phí tổ chức bán đấu giá tài 
sản khá cao; hiện tượng thông đồng, ép giá 
giữa những người đăng ký mua tài sản đấu 
giá cũng không loại trừ. Bên cạnh đó, do 
chủ thể bán đấu giá tài sản không có chức 
năng cưỡng chế, thu giữ tài sản thế chấp nên 
nhiều khi phiên đấu giá đã hoàn tất nhưng lại 
không thu được tiền vì bên bảo đảm không 
chịu giao tài sản cho bên mua hoặc không 
làm thủ tục chuyển nhượng quyền sở hữu tài 
sản cho người trúng đấu giá theo quy định 
(Phạm Thị Hồng Đào, 2016).
Có thể thấy, mặc dù quy định pháp luật về 
các phương thức xử lý tài sản bảo đảm Bộ 
luật Dân sự 2015 đã được đề cập cụ thể, 
tuy nhiên thì việc áp dụng quy định này 
vào thực tiễn lại gặp rất khó khăn. Vì vậy, 
tác giả kiến nghị Nghị định hướng dẫn Bộ 
luật Dân sự 2015 về giao dịch bảo đảm cần 
có những hướng dẫn chi tiết vấn đề này: i) 
Quy định ưu tiên quyền lựa chọn phương 
thức xử lý tài sản bảo đảm phù hợp cho 
TCTD khi các bên không thoả thuận trước 
về vấn đề này (nội dung đã được đề cập ở 
Mục 2); ii) Quy định chi tiết về trình tự, thủ 
tục, các yêu cầu, điều kiện cho việc áp dụng 
từng phương thức xử lý tài bảo đảm.
Thứ hai, về thời hạn thông báo về việc xử 
lý tài sản bảo đảm
Việc thông báo về việc xử lý tài sản bảo 
đảm được quy định tại Điều 300 của Bộ 
luật Dân sự 2015: “trước khi xử lý tài sản 
bảo đảm, bên nhận bảo đảm phải thông 
báo bằng văn bản trong một thời hạn hợp 
lý về việc xử lý tài sản bảo đảm cho bên 
bảo đảm và các bên cùng nhận bảo đảm 
khác”, tuy nhiên thì quy định này còn 
chung chung chưa cụ thể. Vì vậy, cần đưa 
ra các quy định cụ thể và rõ ràng liên quan 
đến “thời hạn hợp lý”, đặc biệt là đối với tài 
sản là động sản và tài sản là bất động sản 
tương ứng. Việc quy định rõ ràng và cụ thể 
sẽ giúp các TCTD chủ động hơn trong việc 
xử lý tài sản bảo đảm.
Thứ ba, về định giá tài sản bảo đảm
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 306 Bộ 
luật Dân sự 2015: “bên bảo đảm và bên 
Hoàn thiện pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm nhằm bảo vệ quyền lợi của tổ chức tín dụng
20 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 219- Tháng 8. 2020
nhận bảo đảm có quyền thoả thuận về giá 
tài sản bảo đảm hoặc định giá thông qua 
tổ chức định giá tài sản khi xử lý tài sản 
bảo đảm”. Quy định này có thể dẫn đến 
cách hiểu: khi xử lý tài sản bảo đảm, TCTD 
phải thống nhất với bên được bảo đảm, nếu 
TCTD không thống nhất được với bên bảo 
đảm thì phải thông qua tổ chức định giá tài 
sản. Trong trường hợp vi phạm xảy ra, nếu 
hợp đồng bảo đảm có thoả thuận về việc 
TCTD được quyết định giá tài sản khi xử lý 
thì TCTD có quyền quyết định không hay 
đến lúc xử lý lại phải được sự đồng ý của 
các bên bảo đảm? Đây là một nội dung cần 
phải được làm rõ trong Nghị định hướng 
dẫn. 
Ngoài ra, Điều 306 Bộ luật Dân sự 2015 
chỉ thừa nhận giá tài sản bảo đảm theo thỏa 
thuận hoặc theo định giá của tổ chức định 
giá. Điều này đã loại trừ trường hợp tự xác 
định giá theo thị trường. Đối với các tài sản 
đã có thị trường giao dịch được công nhận 
như chứng khoán thì việc đòi hỏi được định 
giá lại gây ra tốn kém cho các bên. Vì vậy, 
Điều 306 Bộ luật Dân sự 2015 cũng cần 
được hướng dẫn và giải thích theo hướng 
đối với tài sản đã có thị trường giao dịch 
được công nhận thì không cần phải định 
giá mà xác định theo giá thị trường tại thời 
điểm định xử lý tài sản bảo đảm (Lê Thị Thu 
Thủy, 2016. Tr.321).
Thứ tư, về quyền thu giữ tài sản bảo đảm 
của tổ chức tín dụng
Quyền thu giữ tài sản bảo đảm là quyền 
không thể thiếu của TCTD (bên nhận bảo 
đảm) trong quá trình xử lý tài sản bảo đảm. 
Tuy nhiên, trên thực tế, TCTD phần lớn 
không thực hiện được quyền thu giữ tài sản 
bảo đảm khi bên bảo đảm không hợp tác, 
chống đối: Không thu giữ tài sản bảo đảm 
thì TCTD không xử lý được tài sản, thậm 
chí TCTD có nguy cơ vi phạm hợp đồng 
bán tài sản trong trường hợp đã bán tài sản 
nhưng bên giữ tài sản bảo đảm không giao 
tài sản cho bên mua tài sản. Không thực 
hiện được quyền thu giữ tài sản, TCTD 
không xử lý được tài sản theo nguyên tắc 
thỏa thuận quy định tại Bộ luật Dân sự và 
thỏa thuận tại hợp đồng bảo đảm. TCTD 
buộc phải khởi kiện- thực hiện theo con 
đường tố tụng, thi hành án (Đoàn Thị Ngọc 
Hải, 2019).
Hiện nay, căn cứ pháp lý về quyền thu giữ 
tài sản bảo đảm được ghi nhận tại Điều 63 
Nghị định số 163/2006/NĐ-CP và Điều 9 
Thông tư liên tịch số 16/2014/TTLT- BTP-
BTNMT-NHNN: Người giữ tài sản bảo 
đảm phải giao tài sản đó cho người xử lý tài 
sản, hết thời hạn theo thông báo bên giữ tài 
sản không giao tài sản người xử lý tài sản 
có quyền thu giữ tài sản bảo đảm. Người 
xử lý tài sản có quyền yêu cầu Ủy ban nhân 
dân cấp xã và Cơ quan công an áp dụng các 
biện pháp để thực hiện quyền thu giữ. Một 
thay đổi là hiện nay Bộ luật Dân sự 2015 
không có quy định cụ thể về quyền thu giữ 
tài sản bảo đảm, theo đó, Điều 301 chỉ quy 
định trường hợp người đang giữ tài sản 
không giao tài sản thì bên nhận bảo đảm có 
quyền yêu cầu Tòa án giải quyết, trừ trường 
hợp luật liên quan có quy định khác. Để 
bảo đảm thực thi quyền xử lý tài sản bảo 
đảm của bên nhận bảo đảm, Bộ luật Dân 
sự 2015 đã ghi nhận quyền truy đòi tài sản 
bảo đảm để xử lý tài sản bảo đảm (Khoản 
2 Điều 297) và nghĩa vụ giao tài sản cho 
bên nhận bảo đảm để xử lý của người đang 
giữ tài sản khi có căn cứ xử lý tài sản bảo 
đảm quy định tại Điều 299 Bộ luật Dân sự 
2015. Trường hợp người giữ tài sản không 
chuyển giao để thu hồi tài sản mà phải yêu 
cầu Toà án giải quyết. Quy định này nhằm 
ngăn ngừa trường hợp bên nhận bảo đảm 
cố ý gây mất trật tự xã hội hoặc cưỡng đoạt 
PHAN ĐĂNG HẢI
21Số 219- Tháng 8. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
tài sản trái pháp luật (Nguyễn Văn Cừ, Trần 
Thị Huệ, 2017, Tr.479).
Tuy nhiên, đứng dưới góc độ bảo vệ quyền 
lợi của TCTD- chủ thể có quyền lợi thường 
xuyên bị xâm hại trong mối quan hệ xử lý 
tài sản bảo đảm, tác giả kiến nghị sửa đổi 
Điều 301 Bộ luật Dân sự 2015 cần được 
quy định lại theo hướng trao quyền thu giữ 
tài sản bảo đảm cho TCTD- bên nhận bảo 
đảm. Tất nhiên, đồng nghĩa với việc đó 
thì TCTD cũng phải bảo đảm việc thu giữ 
không vi phạm trật tự công cộng, không sử 
dụng vũ lực hoặc đe doạ sử dụng vũ lực 
hoặc có hành vi xâm phạm tính mạng, sức 
khoẻ, danh dự hoặc nhân phẩm của bên bảo 
đảm. 
Các hướng dẫn chi tiết về quyền thu giữ tài 
sản bảo đảm của TCTD phải được đề cập 
tới trong Nghị định mới về giao dịch bảo 
đảm, trong đó tập trung vào các nội dung 
như: i) Quy định cơ chế xử lý khác nhau 
đối với quyền thu giữ tài sản bảo đảm trong 
trường hợp tài sản bảo đảm là bất động sản 
và động sản; ii) Quy định chi tiết về nghĩa 
vụ hỗ trợ từ phía cơ quan công quyền đối 
với quyền thu giữ tài sản bảo đảm; iii) Quy 
định chế tài cụ thể đối với trường hợp bên 
bảo đảm chống đối, không hợp tác ■
Tài liệu tham khảo
1. Bộ Tư pháp, Bộ Tài nguyên & Môi trường và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2014), Thông tư liên tịch số 16/2014/
TTLT-BTP-BTNMT-NHNN ngày 06/6/2014 của Bộ Tư pháp, Bộ Tài nguyên & Môi trường và Ngân hàng Nhà nước Việt 
Nam hướng dẫn một số vấn đề về xử lý tài sản bảo đảm.
2. Chính phủ (2006), Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm.
3. Chính phủ (2012), Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22/02/2012 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của 
Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm.
4. Đoàn Đức Lương, Viên Thế Giang, Võ Thị Mỹ Hương (2015), Pháp luật về giao dịch bảo đảm trong hoạt động cấp tín 
dụng ở Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
5. Đoàn Thị Ngọc Hải (2019), Hoàn thiện pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm ở nước ta hiện nay, truy cập 20/4/2020, từ 
.
6. Hồng Anh (2016), Nhiều vướng mắc trong xử lý tài sản bảo đảm, truy cập 20/4/2020, từ <https://www.nhandan.com.
vn/kinhte/item/31475602-nhieu-vuong-mac-trong-xu-ly-tai-san-bao-dam.html>
7. Lê Thị Thu Thủy – Chủ biên (2016), Pháp luật về các biện pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động cho vay của tổ chức 
tín dụng ở Việt Nam và một số nước trên thế giới, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
8. Nguyễn Bích Thảo (2018), Giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng theo pháp luật Việt Nam, NXB Tư pháp, Hà Nội. 
9. Nguyễn Văn Cừ, Trần Thị Huệ - Đồng Chủ biên (2017), Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự năm 2015 của nước 
CHXHCN Việt Nam, NXB Công an Nhân dân, Hà Nội.
10. Nhuệ Mẫn (2015), Tài sản bảo đảm là “cục máu đông” của nợ xấu, truy cập 20/4/2020, từ <https://
tinnhanhchungkhoan.vn/tien-te/tai-san-bao-dam-la-cuc-mau-dong-cua-no-xau-132908.html>
11. Parliamnet of Australia (2009), Personal Property Securities Act 2009.
12. Phạm Thị Hồng Đào (2016), Xử lý tài sản bảo đảm tiền vay tại ngân hàng, truy cập 20/4/2020, từ <https://moj.gov.vn/
qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=2054>
13. Quốc hội (2015), Bộ luật Dân sự năm 2015 (Luật số 91/2015 ngày 24/11/2015).
14. Quốc hội (2017), Nghị quyết 42/2017QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng.
15. The American Law Institute and the National Conference of Commissioners on Uniform State (2005), Uniform 
Commercial Code.
16. Trương Thanh Đức (2017), 9 biện pháp bảo đảm nghĩa vụ hợp đồng, NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội.
17. Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam - Tập 2, NXB Công an Nhân dân, Hà Nội.

File đính kèm:

  • pdfhoan_thien_phap_luat_ve_xu_ly_tai_san_bao_dam_nham_bao_ve_qu.pdf