Hoàn thiện pháp luật tài chính, tầm nhìn đến năm 2030

Pháp luật tài chính Việt Nam trong từng bước được hoàn thiện, đảm bảo cho hệ thống tài chính ngân

sách được vận hành thông suốt, góp phần cải thiện môi trường đầu tư, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế,

tăng cường hội nhập quốc tế. Mặc dù vậy, tình hình kinh tế, chính trị, xã hội trong nước và thế giới từ

nay đến năm 2030 dự báo còn nhiều biến động, cho nên hệ thống pháp luật tài chính cần tiếp tục được

nghiên cứu và hoàn thiện. Bài viết đánh giá tổng quát tình hình soạn thảo, ban hành văn bản quy

phạm pháp luật đã được Bộ Tài chính thực hiện trong những năm qua và đề xuất một số giải pháp giúp

triển khai hiệu quả những định hướng hoàn thiện pháp luật tài chính đến năm 2030.

pdf 4 trang phuongnguyen 480
Bạn đang xem tài liệu "Hoàn thiện pháp luật tài chính, tầm nhìn đến năm 2030", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Hoàn thiện pháp luật tài chính, tầm nhìn đến năm 2030

Hoàn thiện pháp luật tài chính, tầm nhìn đến năm 2030
59
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân là một trong 
những mục tiêu, định hướng góp phần đưa nước 
ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại 
vào năm 2020. Một trong những bộ phận thể chế 
cấu thành quan trọng đảm bảo cho nền kinh tế thị 
trường định hướng XHCN được vận hành đầy đủ, 
đồng bộ là hệ thống pháp luật tài chính.
Nhận thức được ý nghĩa, tầm quan trọng của 
hoạt động hoàn thiện thể chế, thời gian qua, Bộ Tài 
chính thường xuyên quan tâm, đôn đốc, chỉ đạo và 
tổ chức thực hiện nghiêm túc các quy định về đề 
xuất, lập chương trình xây dựng pháp luật; nghiên 
cứu, xây dựng, đánh giá tác động chính sách; soạn 
thảo, lấy ý kiến của các chủ thể chịu sự tác động trực 
tiếp của văn bản quy phạm pháp luật.
Căn cứ Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp năm 
2013, trên cơ sở chủ trương, định hướng của Đảng 
tại các Nghị quyết, các văn kiện của Đảng, Quốc 
hội, Chính phủ, Chiến lược tài chính đến năm 2020 
và yêu cầu quản lý nhà nước trong từng thời kỳ, với 
chức năng là một bộ đa ngành, đa lĩnh vực, Bộ Tài 
chính đã chủ trì soạn thảo, trình Chính phủ, Thủ 
tướng Chính phủ, trình Quốc hội xem xét, ban hành 
hoặc ban hành theo thẩm quyền rất nhiều văn bản 
quy phạm pháp luật.
Theo đó, từ năm 2010 đến hết tháng 10/2018, Bộ 
Tài chính đã trình Chính phủ, trình Quốc hội ban 
hành và ban hành theo thẩm quyền 2.291 văn bản 
quy phạm pháp luật, bao gồm: 23 Luật, 09 Nghị 
quyết của Quốc hội, 08 Nghị quyết và 01 Pháp lệnh 
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, 230 Nghị định của 
Chính phủ, 158 Quyết định của Thủ tướng Chính 
phủ và ban hành theo thẩm quyền 11.862 Thông 
Pháp luật tài chính liên tục được kiện toàn, 
đáp ứng yêu cầu phát triển 
Xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị 
trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), xây 
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của 
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TÀI CHÍNH, 
TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2030
ThS. TRƯƠNG HUỲNH THẮNG - Vụ Pháp chế (Bộ Tài chính) *
Pháp luật tài chính Việt Nam trong từng bước được hoàn thiện, đảm bảo cho hệ thống tài chính ngân 
sách được vận hành thông suốt, góp phần cải thiện môi trường đầu tư, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, 
tăng cường hội nhập quốc tế. Mặc dù vậy, tình hình kinh tế, chính trị, xã hội trong nước và thế giới từ 
nay đến năm 2030 dự báo còn nhiều biến động, cho nên hệ thống pháp luật tài chính cần tiếp tục được 
nghiên cứu và hoàn thiện. Bài viết đánh giá tổng quát tình hình soạn thảo, ban hành văn bản quy 
phạm pháp luật đã được Bộ Tài chính thực hiện trong những năm qua và đề xuất một số giải pháp giúp 
triển khai hiệu quả những định hướng hoàn thiện pháp luật tài chính đến năm 2030. 
Từ khóa: Pháp luật tài chính, tài chính ngân sách, hội nhập quốc tế, khoa học và kỹ thuật
IMPROVING LEGAL FRAMEWORK FOR FINANCE WITH 
VISION TO 2030
Truong Huynh Thang - Department of Legal Affairs 
(Ministry of Finance)
In recent years, Vietnam’s laws on finance have 
been gradually improved, ensuring smooth and 
effective operation of financial and budgetary 
system, contributing to improving the 
investment environment, promoting economic 
growth and enhancing international integration. 
However, the local and global political, social 
and economic situations until 2030 are forecast 
to fluctuate, so the financial legal system needs 
to be studied and improved. The article provides 
a general assessment of the drafting and 
promulgating legal documents of the Ministry 
of Finance in recent years and proposed 
measures to improve the implementation of legal 
framework for finance until 2030.
Keywords: Financial law, budget and finance, international 
integration, science and technology
Ngày nhận bài: 8/1/2019
Ngày hoàn thiện biên tập: 11/2/2019 
Ngày duyệt đăng: 15/2/2019
*Email: truonghuynhthang@mof.gov.vn
TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG
60
TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG
tư, Thông tư liên tịch. Các luật về chính sách thuế, 
phí, lệ phí và quản lý thuế được sửa đổi, bổ sung 
nhiều nhất trong thời gian này. Cụ thể, Luật Thuế 
Giá trị gia tăng (GTGT) sửa đổi, bổ sung 03 lần vào 
các năm 2013, năm 2014, năm 2016; Luật Thuế tiêu 
thụ đặc biệt (TTĐB) sửa đổi, bổ sung 02 lần vào các 
năm 2014, năm 2016; Luật Thuế Tài nguyên sửa đổi, 
bổ sung 01 lần vào năm 2014; Luật Thuế Thu nhập 
doanh nghiệp (TNDN) sửa đổi, bổ sung 02 lần vào 
các năm 2013, năm 2014; Luật Thuế Thu nhập cá 
nhân (TNCN) sửa đổi, bổ sung 02 lần vào các năm 
2012, năm 2014; Luật Quản lý thuế sửa đổi, bổ sung 
2 lần vào các năm năm 2012, năm 2014.
Riêng năm 2018, Bộ Tài chính đã trình Chính phủ 
trình Quốc hội cho ý kiến 01 Luật (Luật Quản lý 
thuế); ban hành 02 Nghị quyết của Ủy ban Thường 
vụ Quốc hội, 29 Nghị định của Chính phủ, 7 Quyết 
định của Thủ tướng Chính phủ và ban hành theo 
thẩm quyền 114 Thông tư. 
Về tổng thể, pháp luật tài chính đã được hoàn 
thiện theo những nhóm nội dung trọng tâm sau:
Thứ nhất, bổ sung những quy định mới nhằm 
thể chế hóa, quy phạm hóa chủ trương, định hướng 
của Đảng; đáp ứng yêu cầu quản lý trong tình hình 
mới và phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã 
hội (KT-XH).
Thứ hai, kịp thời sửa đổi những quy định còn bất 
cập, hạn chế so với thực tiễn, đặc biệt là sửa đổi, bãi 
bỏ những quy định về thủ tục hành chính, không 
còn cần thiết hoặc còn tiêu tốn nhiều thời gian, chi 
phí tuân thủ.
Thứ ba, bổ sung, cập nhập những quy định mới 
cho phù hợp với thông lệ và các Điều ước quốc tế.
Thứ tư, xử lý, giải quyết những quy định còn 
mâu thuẫn, chồng chéo, chưa thống nhất giữa văn 
bản tài chính với luật, nghị định trong lĩnh vực đầu 
tư, thương mại và các lĩnh vực khác có liên quan. 
Góp phần cải thiện môi trường đầu tư, 
duy trì, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Có thể khẳng định, những năm qua, hoạt động 
hoàn thiện khung khổ pháp luật tài chính đã góp 
phần hình thành và hoàn thiện thể chế kinh tế thị 
trường, định hướng XHCN, đáp ứng kịp thời quá 
trình phát triển và hội nhập quốc tế; Hỗ trợ, đảm 
bảo quản lý ngân sách nhà nước (NSNN) chặt chẽ, 
hiệu quả; góp phần đẩy mạnh chống thất thu, chống 
chuyển giá, xử lý nợ đọng thuế; Tháo gỡ khó khăn, 
thúc đẩy sản xuất kinh doanh, đáp ứng yêu cầu hội 
nhập; Huy động kịp thời các nguồn lực cho đầu tư 
phát triển, nhất là những công trình quan trọng, cấp 
bách và đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn; 
Cơ cấu lại nợ công, nợ nước ngoài của quốc gia 
trong giới hạn theo quy định của pháp luật; quản 
lý hiệu quả tài sản công; Tăng cường quản lý thị 
trường, giá cả, bảo đảm cân đối cung - cầu các mặt 
hàng thiết yếu và đẩy mạnh phòng, chống buôn lậu, 
gian lận thương mại... 
Những kết quả tích cực về hoàn thiện pháp 
luật tài chính đã góp phần quan trọng vào thực 
hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra trong 
năm 2018: Tăng trưởng GDP năm 2018 đạt 7,08%, 
vượt chỉ tiêu Quốc hội đề ra (6,7%); bình quân 3 
năm (2016 – 2018) tăng trưởng GDP đạt 6,57%. 
Thị trường chứng khoán tiếp tục phát triển, trở 
thành kênh huy động vốn quan trọng cho nền 
kinh tế.
Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu năm 2018, đạt 
482,2 tỷ USD, tăng 13,8% so với năm 2017; xuất siêu 
đạt 7,2 tỷ USD, vượt xa mục tiêu Quốc hội đề ra. Cơ 
cấu kinh tế chuyển dịch tích cực theo hướng giảm 
xuất khẩu thô, tăng tỷ trọng hàng chế biến, nông sản 
và tăng nhập khẩu máy móc thiết bị, nguyên vật liệu 
phục vụ sản xuất. 
Thu NSNN ước cả năm 2018 vượt 3% dự toán; 
cơ cấu thu bền vững hơn; tỷ trọng thu từ xuất 
nhập khẩu, dầu thô giảm; thu nội địa tăng, chiếm 
gần 82% tổng thu cân đối NSNN. Tỷ trọng thu 
nội địa ước 2018 tăng lên gần 82% so với 75,1% 
của năm 2015; tỷ trọng thu dầu thô giảm từ 6,8% 
năm 2015 xuống còn 4% năm 2018, tỷ trọng thu từ 
xuất nhập khẩu giảm từ 17% năm 2015 xuống còn 
13,9% năm 2018.
Công tác kiểm tra, thanh tra, chống thất thu, nợ 
đọng thuế, chuyển giá được Bộ Tài chính chú trọng 
triển khai đạt nhiều kết quả tích cực. Chi NSNN 
được kiểm soát chặt chẽ, tiết kiệm, hiệu quả hơn. 
Tỷ trọng chi đầu tư phát triển đạt 26,8%, cao hơn 
giai đoạn trước. Nợ công khoảng 61,4% GDP, giảm 
mạnh so với mức 63,7% năm 2016. 
HÌNH 1: SỐ LƯỢNG VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT 
DO BỘ TÀI CHÍNH SOẠN THẢO, TRÌNH CẤP CÓ THẨM QUYỀN 
BAN HÀNH HOẶC BAN HÀNH THEO THẨM QUYỀN
Nguồn: Bộ Tài chính
TÀI CHÍNH - Tháng 02/2019
61
Chiến lược phát triển KT-XH giai đoạn 2011 – 2020 
và định hướng đến năm 2030, Hiến pháp năm 2013 
và các nghị quyết của Đảng với chủ trương đẩy 
mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; bảo 
đảm ổn định kinh tế vĩ mô, phát triển kinh tế nhanh, 
bền vững; nâng cao đời sống vật chất và tinh thần 
của nhân dân; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, 
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; nâng 
cao vị thế và uy tín của Việt Nam trong khu vực 
và trên thế giới. Đây cũng là giai đoạn Việt Nam 
thực hiện đầy đủ các cam kết trong Cộng đồng Kinh 
tế ASEAN và Tổ chức Thương mại thế giới, tham 
gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, hội 
nhập quốc tế sâu rộng hơn nhiều so với giai đoạn 
trước. Do vậy, việc tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện 
pháp luật tài chính để phù hợp với điều kiện KT-XH 
trong giai đoạn mới, đáp ứng quá trình hội nhập 
quốc tế và đảm bảo thống nhất, đồng bộ với pháp 
luật có liên quan là một tất yếu khách quan.
Định hướng và giải pháp hoàn thiện 
pháp luật tài chính đến 2030
Với vai trò là công cụ để pháp lý hóa chủ 
trương, đường lối của Đảng về phát triển kinh tế, 
từ nay đến năm 2030, pháp luật tài chính sẽ được 
hoàn thiện hướng đến thể chế hóa sâu sắc, đầy đủ, 
toàn diện mục tiêu, yêu cầu, quan điểm chỉ đạo 
của Đảng. Trước mắt là tiếp tục thể chế hóa Nghị 
quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII; Nghị 
quyết số 07-NQ/TW ngày 18/11/2016 của Bộ Chính 
trị về chủ trương, giải pháp cơ cấu lại NSNN, quản 
lý nợ công để bảo đảm nền tài chính quốc gia an 
toàn, bền vững; Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 
24/5/2005 và Kết luận số 01-KL/TW ngày 04/4/2016 
của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn 
thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, 
định hướng đến năm 2020. Đồng thời, pháp luật tài 
chính cần tiếp tục cụ thể hóa các quy định tại Hiến 
pháp năm 2013, Nghị quyết số 25/2016/QH14 ngày 
09/11/2016 về kế hoạch tài chính 5 năm quốc gia 
Qua đó, môi trường đầu tư kinh doanh tại Việt Nam 
tiếp tục được cải thiện và được quốc tế đánh giá thuộc 
nhóm 10 quốc gia cam kết mạnh mẽ nhất về cải cách 
chính sách thuế. Việt Nam được FTSE Russell đưa vào 
danh sách theo dõi nâng hạng lên thị trường mới nổi.
Hoàn thiện pháp luật tài chính trong bối cảnh 
kinh tế - xã hội đến 2030
Mặc dù đã đạt được những kết quả tích cực, 
nhưng từ nay đến năm 2030, tình hình KT-XH trong 
nước và thế giới dự báo còn nhiều diễn biến phức 
tạp và tác động mạnh đến hệ thống pháp luật Việt 
Nam, trong đó có pháp luật tài chính, cụ thể:
Một là, tăng trưởng kinh tế toàn cầu được thúc đẩy 
bởi tăng trưởng dân số, tiến bộ công nghệ, tự do hóa 
thương mại giữa các nước và quá trình đô thị hóa. Việc 
cắt giảm thuế quan theo lộ trình thực hiện các cam kết 
quốc tế tại các hiệp định thương mại tự do và giá dầu 
diễn biến phức tạp đang đặt ra sức ép đối với công tác 
thu NSNN năm 2019 và các năm tiếp theo. 
Hai là, xu thế cải cách, hiện đại hóa hành chính, 
tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, 
thuận lợi cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của 
doanh nghiệp để thu hút đầu tư vẫn là xu thế chủ 
đạo của các quốc gia, trong đó có Việt Nam.
Ba là, mặc dù vấn đề toàn cầu hóa có diễn biến 
phức tạp nhưng tiếp tục phát triển. Các hình thức 
hội nhập kinh tế khác như hội nhập tiểu vùng và 
hội nhập xuyên biên giới cũng diễn ra song song. 
Việc tự do di chuyển vốn, con người, hàng hóa sẽ 
sớm trở thành hiện thực, cùng với đó là các vấn đề 
doanh nghiệp đa quốc gia, chuyển giá và giao dịch 
xuyên biên giới.
Bốn là, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 với 
xu hướng phát triển dựa trên nền tảng tích hợp cao 
độ của hệ thống kết nối số hóa - vật lý - sinh học với 
sự đột phá của internet vạn vật và trí tuệ nhân tạo 
đang làm thay đổi căn bản nền sản xuất của thế giới. 
Nếu không bắt kịp nhịp độ phát triển của thế giới và 
khu vực, Việt Nam sẽ phải đối mặt với những thách 
thức, tác động tiêu cực như suy giảm sản xuất kinh 
doanh, dư thừa lao động... 
Năm là, Việt Nam tiếp tục triển khai thực hiện 
HÌNH 1: TỶ LỆ LOẠI VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT 
ĐƯỢC SOẠN THẢO BAN HÀNH NĂM 2018
Nguồn: Tác giả tổng hợp
Năm 2018, Bộ Tài chính đã trình Chính phủ 
trình Quốc hội cho ý kiến 01 Luật (Luật Quản 
lý thuế); ban hành 02 Nghị quyết của Ủy ban 
Thường vụ Quốc hội, 29 Nghị định của Chính 
phủ, 7 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ và 
ban hành theo thẩm quyền 114 Thông tư.
62
TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG
giai đoạn 2016-2020 và Chiến lược ngành Tài chính 
đến năm 2020. 
Với lĩnh vực đa dạng, số lượng văn bản nhiều, 
để đảm bảo tính khả thi, đảm bảo đồng thuận của 
xã hội, việc hoàn thiện pháp luật tài chính cần có 
trọng tâm, trọng điểm và có thứ tự ưu tiên trong 
từng giai đoạn, hoàn cảnh cụ thể. Theo đó, thời gian 
tới, pháp luật tài chính cần tập trung ưu tiên vào 
những nhóm, văn bản quy phạm pháp luật sau:
Thứ nhất, nghiên cứu hoàn thiện các Luật về thuế 
như: Luật Thuế GTGT, Luật Thuế TTĐB, Luật Thuế 
TNDN... theo hướng bao quát toàn bộ các nguồn 
thu, mở rộng cơ sở thu, nhất là các nguồn thu mới, 
phù hợp với thông lệ quốc tế; rà soát, bãi bỏ những 
chính sách miễn, giảm thuế được duy trì lâu, không 
còn phát huy tác dụng; rà soát, bãi bỏ những chính 
sách giãn, nợ thuế không còn phù hợp với thực 
tiễn... Qua đó, đảm bảo duy trì và nâng tỷ lệ động 
viên vào NSNN, nhất là động viên vào ngân sách 
Trung ương những khoản thu lớn, ổn định; tăng tỷ 
trọng thu nội địa, bảo đảm tỷ trọng hợp lý giữa thuế 
gián thu (thuế GTGT; thuế TTĐB; thuế xuất khẩu, 
thuế nhập khẩu; thuế bảo vệ môi trường...) và thuế 
trực thu (thuế TNDN, thuế TNCN).
Thứ hai, hoàn thiện các quy định của pháp luật 
NSNN, trước hết là nghiên cứu, hoàn thiện Nghị 
định quy định chi tiết và Thông tư hướng dẫn thi 
hành Luật NSNN theo hướng tăng cường đối với 
nguồn thu ổn định, tập trung đối với nguồn thu lớn 
vào ngân sách trung ương; tăng mức hợp lý tỷ trọng 
chi đầu tư, ưu tiên tập trung đầu tư phát triển cơ 
sở hạ tầng kinh tế - kỹ thuật thiết yếu, giảm dần tỷ 
trọng chi thường xuyên, không sử dụng khoản vay 
bù đắp bội chi NSNN cho chi thường xuyên. 
Thứ ba, nghiên cứu sớm ban hành các nghị định 
quy định chi tiết Luật Quản lý nợ công và các thông 
tư hướng dẫn thi hành, cụ thể hóa các chính sách; 
xây dựng tiêu chí, công cụ, bộ máy quản lý nợ công 
để kiểm soát toàn diện rủi ro và hiệu quả nợ công. 
Thứ tư, khẩn trương rà soát, đề xuất sửa đổi các 
Luật cho phù hợp với các Điều ước quốc tế. Trước 
mắt, ưu tiên rà soát, đề xuất sửa đổi Luật Chứng 
khoán, Luật Kinh doanh bảo hiểm; tham mưu đề 
xuất các biểu thuế nhập khẩu cho phù hợp với các 
cam kết quốc tế.
Để hiện thực hóa các định hướng nêu trên theo 
đúng lộ trình, thời gian tới cần triển khai một số giải 
pháp cụ thể sau: 
Thứ nhất, thường xuyên tổ chức tổng kết, đánh 
giá việc thi hành quy định hoặc chính sách được 
quy định tại các Luật, Pháp lệnh, cụ thể như: Tổng 
kết, đánh giá việc thi hành quy định hoặc chính sách 
được quy định tại các Luật, Pháp lệnh, nhằm đánh 
giá những kết quả đạt được từ thực tiễn so với mục 
tiêu ban đầu; Tổng kết, đánh giá tình hình và kết 
quả tổ chức, thực hiện từ công tác tuyên truyền, phổ 
biến pháp luật đến việc áp dụng pháp luật, qua đó, 
nhận diện, phân loại các vướng mắc phát sinh. 
Thứ hai, để hỗ trợ tích cực cho quá trình hoàn 
thiện pháp luật tài chính thì hoạt động truyền thông 
về mục tiêu, yêu cầu, nội dung chính sách, tác động 
chính sách... ngày càng phải được tăng cường hơn 
và chuyên nghiệp hơn. 
Thứ ba, ưu tiên bố trí nguồn nhân lực đáp ứng 
yêu cầu hoàn thiện pháp luật: Quan tâm hơn nữa 
và chuẩn bị sẵn sàng về chất lượng, số lượng nguồn 
nhân lực cho công tác hoàn thiện thể chế theo đúng 
quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm 
pháp luật, trong đó cần chú trọng đào tạo đội ngũ 
cán bộ, công chức làm công tác pháp chế; Thường 
xuyên bồi dưỡng kỹ năng về xây dựng chính sách, 
về lập chương trình Luật, về soạn thảo văn bản.
Thứ tư, củng cố hệ thống hạ tầng kỹ thuật công 
nghệ thông tin thông suốt, thường xuyên, liên tục bảo 
đảm yêu cầu quản lý. Đẩy mạnh phát triển và ứng 
dụng công nghệ thông tin phục vụ yêu cầu quản lý 
nhanh hơn, chính xác hơn và đầy đủ hơn, góp phần 
tháo gỡ nhiều khó khăn, vướng mắc, tạo thuận lợi cho 
người dân và doanh nghiệp, tiết kiệm chi phí tuân thủ, 
nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. 
Nhiều năm qua, hạ tầng công nghệ thông tin đã 
được Bộ Tài chính quan tâm đầu tư, xây dựng, phát 
triển với nhiều hệ thống ứng dụng phục vụ công tác 
quản lý, điều hành như: Hệ thống thông quan hàng 
hóa tự động; Hệ thống thông tin quản lý ngân sách và 
kho bạc; Hệ thống ứng dụng quản lý thuế tập trung; 
Hệ thống lưu ký, đăng ký và thanh toán bù trừ chứng 
khoán Tuy nhiên, để đáp ứng yêu cầu trong tình 
hình mới, hệ thống hạ tầng công nghệ thông tin trong 
ngành Tài chính cần tiếp tục được hoàn thiện để có thể 
tăng cường kết nối, chia sẻ và hình thành những tính 
năng, ứng dụng mới, đảm bảo, hỗ trợ tốt hơn nữa cho 
công tác quản lý và những quy định mới được ban 
hành trong giai đoạn tới. 
Tài liệu tham khảo:
1. Hiến pháp năm 1992; Hiến pháp năm 2013;
2. Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nghị quyết Đại hội Đại 
biểu toàn quốc lần thứ XII;
3. Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và 
hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020; 
4. Quyết định số 40/QĐ-TTg ngày 07/01/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt 
Chiến lược tổng thể hội nhập quốc tế đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030;
5. Báo cáo chính trị trình Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII.

File đính kèm:

  • pdfhoan_thien_phap_luat_tai_chinh_tam_nhin_den_nam_2030.pdf