Hóa chất tổng hợp gây ô nhiễm nước: một thách thức thường bị bỏ qua trong phát triển cộng đồng bền vững quốc tế

Ô nhiễm nguồn nước uống do các hợp chất hữu cơ tổng hợp (SOC – synthetic organic

compounds) có hại như thuốc trừ sâu là một vấn đề lớn trên toàn thế giới. Ô nhiễm thuốc

trừ sâu hai lần đứng trong tốp mười của Báo cáo các vấn đề ô nhiễm chất độc tồi tệ nhất của

thế giới năm 2011 của Viện Blacksmith, và đã được chỉ ra trong báo cáo hàng năm kể từ ấn

bản đầu tiên vào năm 2006. Tuy nhiên, vẫn còn thiếu các kỹ thuật hiệu quả, giá rẻ và có thể

triển khai trên diện rộng để loại bỏ SOC có thể tiếp cận tới cộng đồng các nước đang phát

triển hoặc ở vùng sâu vùng xa của các nước phát triển.

pdf 18 trang phuongnguyen 6020
Bạn đang xem tài liệu "Hóa chất tổng hợp gây ô nhiễm nước: một thách thức thường bị bỏ qua trong phát triển cộng đồng bền vững quốc tế", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Hóa chất tổng hợp gây ô nhiễm nước: một thách thức thường bị bỏ qua trong phát triển cộng đồng bền vững quốc tế

Hóa chất tổng hợp gây ô nhiễm nước: một thách thức thường bị bỏ qua trong phát triển cộng đồng bền vững quốc tế
Xử lý nước bền vững và phân tán cho vùng nông thôn và các cộng đồng đang phát 
triển dùng than sinh học tự tạo tại chỗ 
Bởi Thạc Sĩ Josh Kearns 
Hóa chất tổng hợp gây ô nhiễm nước: một thách thức thường bị bỏ qua trong phát 
triển cộng đồng bền vững quốc tế 
Ô nhiễm nguồn nước uống do các hợp chất hữu cơ tổng hợp (SOC – synthetic organic 
compounds) có hại như thuốc trừ sâu là một vấn đề lớn trên toàn thế giới. Ô nhiễm thuốc 
trừ sâu hai lần đứng trong tốp mười của Báo cáo các vấn đề ô nhiễm chất độc tồi tệ nhất của 
thế giới năm 2011 của Viện Blacksmith, và đã được chỉ ra trong báo cáo hàng năm kể từ ấn 
bản đầu tiên vào năm 2006. Tuy nhiên, vẫn còn thiếu các kỹ thuật hiệu quả, giá rẻ và có thể 
triển khai trên diện rộng để loại bỏ SOC có thể tiếp cận tới cộng đồng các nước đang phát 
triển hoặc ở vùng sâu vùng xa của các nước phát triển. 
Một đánh giá gần đây trong tạp chí Khoa Học chỉ ra rằng 300 triệu tấn SOCs sản xuất hàng 
năm, trong đó có năm triệu tấn thuốc trừ sâu, tạo nên một sự hư hại lớn đến chất lượng 
nước trên quy mô toàn cầu. Bản báo cáo nhấn mạnh những thách thức đặc biệt ở các nước 
đang phát triển bao gồm việc lạm dụng thuốc trừ sâu, sự thiếu hiểu biết thường thấy về của 
các mối nguy cơ với sức khỏe và môi trường liên quan và việc sử dụng trái phép tràn lan 
các hóa chất thị trường chợ đen. Tại Thái Lan, ví dụ, 75 phần trăm thuốc trừ sâu được sử 
dụng đã bị cấm hoặc bị hạn chế nghiêm ngặt ở phương Tây do ảnh hưởng tới sức khỏe con 
người và làm hư hại hệ sinh thái. Các tác giả của tạp chí Khoa Học cho rằng "kỹ thuật lọc quy 
mô nhỏ, cho hộ gia đình, thường là chiến lược phòng tránh duy nhất do thiếu một cơ sở hạ 
tầng tập trung", và kêu gọi sự phát triển của "những hệ thống đáng tin cậy, giá cả phải 
chăng, và đơn giản mà cư dân địa phương có thể sử dụng với chút ít đào tạo”. 
Thật không may, SOC chưa 'trên sóng radar' của các tác nhân chính trong ngành lọc - vệ 
sinh nước (water-sanitation-hygiene WASH) của việc nghiên cứu phát triển quốc tế. Ví dụ, 
các mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ của Liên Hợp Quốc chỉ quan tâm đến việc giảm thiểu 
các tác nhân sinh học của bệnh tật lây lan qua đường nước. Gần đây tôi đã tham dự một hội 
nghị quốc tế về nước và sức khỏe trong các cộng đồng đang phát triển trên toàn cầu. v iBài 
thuyết trình của tôi là bài duy nhất quan tâm có SOC trong nước uống và trình bày một công 
nghệ lọc tiềm năng. vi Mầm bệnh vi khuẩn thường là những mối đe dọa trực tiếp nhất đối với 
sức khỏe con người (ví dụ tiêu chảy) và do đó tập trung vào các tác nhân gây bệnh là xác 
đáng. Tuy nhiên, chúng ta không thể bỏ qua các mối đe dọa của chất độc hóa học tích lũy 
sinh học như thuốc trừ sâu. Sự cấp thiết và quy mô của vấn đề này được nhấn mạnh bằng 
cách, ví dụ, một cuộc khảo sát của phụ nữ bộ tộc Hmong sống trong làng Mae Sa Mai, Tỉnh 
Chiang Mai, Thái Lan, đã báo cáo phát hiện thấy DDT trong 100 phần trăm mẫu sữa mẹ. Một 
số chất diệt khuẩn khác cũng thường được phát hiện, và trẻ sơ sinh bị tiếp xúc với lượng 
'vượt lên đến 20 lần so với lượng hấp thụ được chấp nhận hàng ngày theo khuyến cáo của 
Liên Hợp Quốc-FAO và WHO. 
Phương pháp lọc bằng than củi/than sinh học: một lựa chọn phù hợp, chi phí thấp và 
bền vững cho xử lý nước phân cấp? 
Phương pháp lọc bằng than củi đã được sử dụng để xử lý nước uống trong hàng ngàn năm, 
và vẫn được áp dụng rộng rãi ngày nay - đặc biệt là ở khu vực nông thôn của các nước sản 
xuất than lớn như Brazil, Ấn Độ, Trung Quốc, Thái Lan và khắp Đông Nam Á.ix Phương pháp 
lọc than củi được quản lý cục bộ có thể đại diện cho hàng rào bảo vệ hiệu quả chống tiếp 
xúc với SOC cho các hộ gia đình và các cộng đồng ở vùng xa và nghèo trên thế giới, vì than 
củi có thể biểu hiện tính chất tương tự như than hoạt tính. Tuy nhiên cho đến nay chưa có 
nghiên cứu định lượng than củi xử lý nước hiệu quả như thế nào. 
Hình 1 : Kính hiển vi điện tử quét (SEM) cho hình ảnh than củi gỗ nhãn và than hoạt 
tính thương mại cho thấy sự tương đồng về hình thái. (hình ảnh SEM than củi được 
cung cấp bởi Carl Saquing, Đại học bang Bắc Carolina.) 
Tóm tắt và thảo luận về các kết quả nghiên cứu thực địa và trong phòng thí nghiệm 
Phần này phác thảo các kết quả của nghiên cứu thực địa gần đây và các thí nghiệm trong 
phòng thí nghiệm điều tra hiệu quả tiềm năng của lò than truyền thống và lò than khí hóa 
cho xử lý nước. Để làm rõ: các hệ thống lò nung truyền thống được sử dụng để sản xuất 
than củi từ nguyên liệu gỗ thường được sử dụng làm nhiên liệu nấu ăn. Quá trình nung 
thường gây ô nhiễm cao, tốn năng lượng và thời gian và lao động với cường độ lớn. Các lò 
khí hóa đốt sạch và hiệu suất cao thường được sử dụng để nấu ăn và sưởi ấm tạo ra một 
lượng than còn sót lại, vận hành dễ dàng và thoải mái hơn và tận dụng được một phạm vi 
lớn các nguyên liệu sinh khối, bao gồm cả chất thải nông nghiệp, lâm nghiệp và các sản 
phẩm phụ. Chi tiết thêm về khái niệm căn bản của sinh khối khí hóa để sản xuất than được 
đưa ra ở www.aqsolutions.org. 
Than được sản xuất từ hệ thống lò nung truyền thống 
Thí nghiệm sơ bộ cho thấy rằng một số loại than củi được sản xuất từ các lò tại làng truyền 
thống ở châu Á (ví dụ thùng phi 200 lít phương ngangxii và gạch và bùn dạng tổ ong) thể 
hiện khả năng hấp thụ đáng kể thuốc diệt cỏ. Tuy nhiên, các nghiên cứu cho thấy sự biến 
thiên rộng về độ hấp thụ SOC trong than củi sản xuất bằng công nghệ truyền thống. xiii 
Mặc dùn những kết quả ban đầu này là hứa hẹn, các hệ thống sản xuất than củi truyền 
thống hao phí năng lượng và gây ô nhiễm cao, góp phần đáng kể vào khí thải nhà kính, và 
thường sử dụng những nguyên liệu thức ăn gia súc thu hoạch không bền vững, và đôi khi 
bất hợp pháp. 
Hình 2. HỆ THỐNG TẠO THAN CỦI (LÒ) TRUYỀN THỐNG, ĐÔNG NAM Á 
Hình 3 Độ loại bỏ thuốc trừ cỏ bằng một loạt đại diện các than lò truyền thống mô 
phỏng. 
Khi nói đến việc xử lý nước, không phải tất cả than củi truyền thống đều như nhau. Chúng 
tôi đã theo dõi sản xuất than củi truyền thống trong thùng phi thép 200 lít / lò nung và lò tổ 
ong từ gạch và bùn, qua việc hợp tác với nông dân và dân làng ở miền bắc Thái Lan và 
Trung tâm Nghiên cứu Năng lượng Gỗ Bộ Lâm nghiệp Hoàng gia Thái Lan tại tỉnh Saraburi. 
Những quan sát này cung cấp những mô phỏng về khoảng nhiệt độ đỉnh điểm thường thấy 
và thời gian đun nóng đặc thù của các hệ thống sản xuất than củi truyền thống bằng một 
thiết bị đốt lò lập trình được của phòng thí nghiệm để tạo ra than thử nghiệm. Hình 3 chỉ ra 
sự biến đổi lớn về khả năng hấp thu thuốc diệt cỏ của than được sản xuất dưới một khoảng 
đại diện các điều kiện. Các loại than củi cho thấy từ cơ bản không có hấp thụ cho tới lọc bỏ 
~80% dưới các điều kiện thí nghiệm. (Phương pháp thực nghiệm và dữ liệu bổ sung được 
trình bày và thảo luận dưới đây.) Do đó, các điều kiện sản xuất và kết quả chất lượng của 
sản phẩm than có ảnh hưởng mạnh mẽ về hiệu quả tiềm năng của việc xử lý nước. 
Than sản xuất từ lò khí hóa sinh khối 
Việc sản xuất than có tính hấp thụ cao một cách chắc chắn với hiệu suất cao, bền vững với 
môi trường và dễ nhân rộng có thể được thực hiện bằng lò khí hóa sinh khối. Bếp sinh khối 
khí hóa đang được phổ biến nhanh chóng cho việc nấu ăn trong gia đình ở các cộng đồng 
đang phát triển bởi chúng cho khả năng đốt cháy hiệu quả với giảm lượng khí thải, và sản 
xuất số lượng than nhỏ từ nhiên liệu phụ phẩm của nông nghiệp và lâm nghiệp trong sử 
dụng hàng ngày. xix,xx Hệ thống khí hóa quy mô trung bình và lớn cũng đang được triển khai 
trên toàn thế giới để sản xuất than sinh học như là một chất điều chỉnh đất nông nghiệp để 
tăng năng suất cây trồng và hấp thụ carbon. xxi,xxii,xxiii Việc sản xuất than khí hóa được ủng 
hộ dưới góc nhìn năng lượng và môi trường so với sản xuất than truyền thống, vì khí nhiệt 
phân được đốt bên trong thiết bị chứ không bị thải ra như chất ô nhiễm, xxiv,xxv qua đó cung 
cấp năng lượng thúc đẩy sự nhiệt phân và giảm nhu cầu nguồn năng lượng nhiệt bên ngoài. 
Ngoài ra, thiết bị khí hóa sinh khối có thể dễ dàng kết hợp với các thiết bị xử lý khác để thu 
thập nhiên liệu sinh hoạt và tận dụng nhiệt thải. 
Hình 4 . Thiết bị sản xuất than sinh khối khí hóa quy mô bếp lò. Xem Anderson và các 
cộng sự năm 2007, xxvii Anderson 2010 và McLaughlin năm 2010xxiv và 2011xxx về 
lý thuyết và các ghi chú chi tiết xây dựng. (Que nhiệt kế này là cho mục đích nghiên 
cứu và có thể bỏ qua) 
Hình 5 . Thiết bị sản xuất than sinh khối khí hóa quy mô trang trại 200 lít (55-gal). 
Hình 6 và 7. Hệ thống sản xuất than sinh học làm từ hai thùng phi 200 lít (55-gal) và 
kim loại phế liệu. (Ảnh: Lyse Kong.) 
Các nghiên cứu cho đến nay cho thấy than khí hóa, đặc biệt là khi hoạt động theo phương 
thức gió lò cao (ví dụ, bằng gia tăng luồng không khí khi cần bởi một chiếc quạt hoặc máy 
thổi), luôn phát triển các đặc tính lý hóa tăng cường như diện tích bề mặt cao, độ xốp vi mô 
và công suất hấp thu thuốc diệt cỏ so với than lò truyền thống. xxxi,xxxii Lò than khí hóa có thể 
do đó là một lựa chọn tối ưu cho hấp phụ thuốc trừ sâu, các hợp chất công nghiệp và nhiên 
liệu, dược phẩm người và gia súc, và các SOC khác có liên quan đến mối lo ngại ngày càng 
tăng về chất lượng nước. 
Hình 8 và 9. đồ thị cho thấy diện tích bề mặt Giải hấp phụ N2 (trên) và độ xốp (thấp 
hơn) của than được tạo ra (1) từ những khúc gỗ thông tách ra trong thùng phi thép 
truyền thống 200 lít và lò gạch, (2) từ những thanh gỗ thông đồng nhất trong một 
phòng thí nghiệm với thiết bị đun có thể lập trình để sản xuất than trong điều kiện 
nhiệt độ và áp suất kiểm soát được, và (3) từ một thiết bị khí hóa TLUD quy mô bếp 
ăn sử dụng gỗ thông dạng viên. (Diện tích bề mặt và máy đo độ xốp của David 
Rutherford, USGS). 
Hình 10. Sơ đồ cho thấy sự loại bỏ thuốc diệt cỏ phổ biến 2,4-D (2,4- 
dichlorophenoxyacetic acid) khỏi hỗn hợp bằng các loại than khác nhau trong các 
đợt thí nghiệm. 
2,4-D được chọn làm hợp chất thử nghiệm bởi sự liên quan của nó đến môi trường là một 
trong các chất diệt cỏ sử dụng rộng rãi nhất trên toàn thế giới và là một trong các loại thuốc 
trừ sâu thường được phát hiện nhiều nhất trong môi trường nước, xxxiii cũng như những tác 
động đến sức khỏe con người của nó như là một chất có tiềm năng gây ung thư và bị nghi 
ngờ gây rối loạn nội tiết. xxxiv Tính chất hóa học của nó khiến nó là một hợp chất khó loại bỏ 
bằng việc lọc - vì vậy nếu 2,4-D được hấp thụ bởi một loại than thì khả năng là hầu hết các 
loại thuốc trừ sâu khác cũng sẽ được loại bỏ một cách hiệu quả. 
Các đợt thí nghiệm dùng 100 mg/L than nghiền bằng cối chày rồi lọc qua lưới lọc mắt 200 
theo tiêu chuẩn Mỹ, và đưa tới các hợp chất ban đầu có chứa 100 mg/L 2,4-D (Cơ quan Bảo 
vệ Môi trường Mỹ cho mức nhiễm bẩn cực đại MCL 70 mg / L; Tài liệu hướng dẫn của WHO 
là 30 μg/L), và thành phần hữu cơ làm nền với tổng nồng độ carbon hữu cơ 4 mg/L (để mô 
phỏng các vùng nước tự nhiên). Những chai thí nghiệm bị rung lắc trong hai tuần để đạt 
được trạng thái cân bằng. Dữ liệu lò nung truyền thống là tính trung bình của ba loại than 
được làm từ gỗ tre, bạch đàn và thông được đốt thành than trong một lò nung/thùng phi 
thép 200 L. Các dữ liệu đốt trong phòng thí nghiệm được hiển thị là giá trị trung bình của 
bốn loại than từ gỗ tre, bạch đàn, nhãn và thông được cắt thành các thanh có kích thước 
thống nhất (15 cm x 10 cm x 1 cm) và được đốt dưới điều kiện nhiệt độ và không khí kiểm 
soát. Các dữ liệu lò khí hóa nấu ăn được hiển thị là giá trị trung bình từ một số lô than gỗ 
thông dạng viên thực hiện trong một lò TLUD 1-gal dưới điều kiện gió tự nhiên (ND) và gió 
tác động lực (FD, với quạt điện). Than từ lò khí hóa bếp nấu-FD và lò khí hóa 55-gal (200L) 
-ND loại bỏ 2,4-D dưới giới hạn phát hiện (2 mg/L), do đó "~ 100 phần trăm". 
Các kết luận hiện tại từ phòng thí nghiệm và nghiên cứu thực địa 
Tóm lại, so với sản xuất than truyền thống, sản xuất than khí hóa dùng năng lượng hiệu quả 
hơn và thải ra ít nguồn ô nhiễm không khí hơn nhiều. Hơn nữa, lò khí hóa có thể được vận 
hành với chất thải nông nghiệp, lâm nghiệp và các phế phẩm, rất lý tưởng cho nhiên liệu 
sinh khối dạng hạt, miếng vụn hoặc viên. Lò khí hóa có thể dễ dàng được liên kết với các 
quá trình và các ứng dụng khác để hấp thu và sử dụng nhiệt thải. Nghiên cứu cho thấy cả lò 
đốt quy mô nhỏ (bếp nấu ăn) và trung bình (thùng phi 200 L/55-gal) luôn đạt được nhiệt 
độ cao (650-950 ° C / 1,202-1,742 ° F) cần thiết cho sự phát triển đầy đủ của diện tích bề 
mặt và độ xốp trong sản phẩm than, điều đi đôi với việc tăng cường hiệu năng hấp thu 
thuốc diệt cỏ trong các đợt thí nghiệm. Do đó, than khí hóa sinh học là một công nghệ phù 
hợp, chi phí thấp và bền vững đầy hứa hẹn để xử lý nước phân tán với giá cả phải chăng ở 
nông thôn và các cộng đồng đang phát triển. 
Hơn nữa, việc sử dụng than sinh học để xử lý nước không loại trừ ứng dụng sau cùng của nó 
là một chất điều chỉnh đất nông nghiệp có lợi và cho chiến lược hấp thụ carbon. Trong thực 
tế, chúng tôi đề nghị dùng ủ phân và bón cho đất là những cách ưu tiên để xử lý than lọc đã 
sử dụng. Chiến lược tốt nhất cho cộng đồng nông thôn và hộ nhỏ để xử lý than đã dùng chỉ 
đơn giản là cho phép có đủ thời gian và điều kiện thuận lợi cho các vi sinh vật môi trường 
phân hủy bất kì chất bẩn đã hấp thụ nào. Điều kiện nhiệt độ cao có được trong quá trình ủ 
chất thải hữu cơ, ví dụ như ủ trong nhà vệ sinh, đẩy nhanh quá trình hoạt động và phân hủy 
sinh học của vi sinh vật. Hơn nữa, dựa trên những nghiên cứu gần đây với các chất hấp phụ 
carbon, chúng tôi không nghĩ sẽ có lượng chất ô nhiễm đáng kể được thải ra đất hay cây rỉ 
ra từ than đã sử dụng.việc thải chất gây ô nhiễm đáng kể cho đất và cây trồng bằng cách rửa 
trôi từ than lọc.Một phương pháp thận trọng cho việc bón than đã sử dụng cho đất có thể 
được sử dụng, dùng tỉ lệ kết hợp thấp khoảng 100kg cho mỗi ha. 
Nghiên cứu các trường hợp tích hợp lọc than sinh học vào chuỗi xử lý nước đa lớp 
lọc cho các hệ thống phân tán 
Hình 11 là một hệ thống xử lý nước đa lớp lọc dòng nước thụ động quy mô trung bình (lên 
đến 3000 lít/ngày) sử dụng một chuỗi lọc gồm sỏi, cát sinh học và than hoạt tính. Hệ thống 
này có chi phí ít hơn 500 đô (USD, ở chi phí lao động và vật liệu địa phương) để xây dựng và 
phục vụ trong nhiều năm với bảo trì định kỳ các bộ lọc cát sinh học và cải tạo than sau mỗi 
2-3 năm. Hệ thống này được cài đặt vào tháng 2 năm 2008 và phục vụ cộng đồng nông trại 
ở miền bắc Thái Lan với dân số thay đổi theo mùa 10-100 người (trung bình 40 người) và 
xử lý tất cả số nước được trang trại dùng để uống, và dùng trong bếp và nhà hàng (để chế 
biến thức ăn và nước uống, và để rửa bát) 
Hình 11. HỆ THỐNG XỬ LÝ NƯỚC ‘NGOÀI LƯỚI ĐIỆN’ ĐA LƯỚI LỌC 3000 LÍT/NGÀY 
Đối với các hộ gia đình và cộng đồng khu vực rất xa xôi, xử lý nước phân cấp chi phí thấp 
nhằm loại bỏ các chất gây ô nhiễm sinh học và hóa học có thể được thực hiện bằng cách sử 
dụng phương tiện lọc được tạo ra/mua tại địa phương. HÌNH 12 VÀ 13 MÔ TẢ một máy xử 
lý nước uống chảy thụ động có thể di động cung cấp lên đến 300 lít/ngày (đủ để đáp ứng 
nhu cầu nước uống hàng ngày tối thiểu cho 100 người) sử dụng một chuỗi các màng lọc 
gồm sỏi, cát sinh học và than. 
Bình chứa được dùng là bốn thùng phi 200 lít không có chất BPA có mật độ polyethylene 
cao (HDPE). Các thùng phi khi rỗng nặng dưới 10 kg (22.04 pounds) và có thể được khuân 
đến các cộng đồng ở xa bằng chân, kết nối với nhau bằng một ít các phụ kiện PVC, và được 
đổ đầy các vật liệu lọc được tạo ra tại chỗ và mua gần đó. Xây dựng hệ thống này mất 
khoảng 125 đô la, có thể được lắp ráp với các dụng cụ cầm tay tối thiểu (ví dụ như một công 
cụ đa năng Leatherman) và phục vụ được nhiều năm với bảo trì định kỳ cát sinh học và thay 
than hàng năm. Hệ thống được chụp TRÊN HÌNH 12 phục vụ một trường nội trú cho trẻ em 
dân tộc Karen/ tị nạn ở biên giới Thái-Miến Điện. 
[Hình 12 và 13] Hình ảnh và biểu đồ cho thấy cấu hình của vật liệu trong một hệ 
thống di động để xử lý nước uống đa lớp lọc 300 lít/ngày. Sơ đồ thiết kế bởi Nathan 
Reents. 
Sổ tay hướng dẫn và video nguồn mở mô tả chi tiết thiết kế, cách xây dựng và vận hành của 
các hệ thống xử lý nước và các thiết bị đốt khí hóa chi phí thấp để sản xuất than sinh học cải 
tiến để lọc nước từ sinh khối dư thừa của địa phương có thể truy cập từ trang web Giải 
Pháp Nước - Aqueous Solutions (www.aqsolutions.org ). 
Giới thiệu về tác giả 
Josh Kearns là người Đồng Sáng Lập và Giám đốc Khoa học tại Aqueous Solutions, và là một 
sinh viên tiến sĩ về kỹ thuật môi trường cho các cộng đồng đang phát triển tại Đại học 
Colorado-Boulder. Ông có bằng Thạc sĩ sinh-địa-hóa môi trường từ UC-Berkeley, một bằng 
cử nhân hóa học từ Clemson, và có sáu năm kinh nghiệm làm việc cho phát triển nông thôn 
bền vững ở Đông Nam Á. Thông tin về Kearns có thể tiếp cận qua số (720) 989 3959 hoặc 
josh@aqsolutions.org, joshua.kearns@colorado.edu, và trên Skype ("josh Kearns"). 
Giới thiệu về Công ty 
Aqueous Solutions (www.aqsolutions.org) là một tổ chức phi lợi nhuận tình nguyện của các 
nhà khoa học nghiên cứu, các kỹ sư thực địa, và nhà thiết kế sinh thái làm việc để thúc đẩy 
an ninh sinh kế, môi trường và kinh tế bền vững, và tự chủ địa phương thông qua thiết kế 
hệ sinh thái và công nghệ phù hợp cho nước, làm sạch, và giữ vệ sinh (WASH). Chúng tôi 
tiến hành nghiên cứu thực địa và trong phòng thí nghiệm trên các hệ thống làm sạch môi 
trường và xử lý nước phân tán quy mô nhỏ. Chúng tôi cũng cung cấp các dịch vụ tư vấn và 
quản lý dự án để phát triển cơ sở hạ tầng WASH bền vững trong hợp tác với các cộng đồng 
thiệt thòi về kinh tế và chính trị, vùng bản địa xa xôi/nông thôn ở Đông Nam Á. Nghiên cứu 
của chúng tôi nhằm mục đích để chứng minh khả năng áp dụng than được tạo ra tại địa 
phương xử lý nước phân tán trong cộng đồng nhỏ và hộ gia đình ở những cộng đồng đang 
phát triển. Công việc này một lợi ích ba phương cho sức khỏe con người, bền vững môi 
trường, và nền kinh tế địa phương: (1) cung cấp phương pháp xử lý nước có yêu cầu công 
nghệ và kinh tế chấp nhận được ở nơi hiện không có; (2) để thay thế việc sản xuất than gây 
ô nhiễm và không hiệu quả năng lượng bằng công nghệ khí hóa bảo vệ môi trường; và (3) 
để hỗ trợ những doanh nghiệp siêu nhỏ cấp làng trong sản xuất các chất lọc tốt hơn.Thông 
qua quan hệ đối tác với các chính phủ, các doanh nghiệp nhỏ, và các tổ chức địa phương và 
phi lợi nhuận quốc tế, chúng tôi phổ biến các kết quả nghiên cứu trong việc triển khai các 
công nghệ phù hợp có ích cho đời sống con người cũng như môi trường. 
i.
 Harris J and McCartor A. Báo cáo các vấn đề ô nhiễm và độc hại tồi tệ nhất của thế giới năm 2011: Tốp mườ 
trong hai mươi chất độc hại. Viện Blacksmith, 2011. ( 
ii.
 Schwarzenbach RP, BI Escher, Fenner K, Hofstetter TB, Annette Johnson CA, von Gunten U, Wehrli B. 2006. 
Thách thức của các chất ô nhiễm vi mô trong hệ thống thủy sản, Khoa Học, quyển 313, p. 1072. 
iii.
 PAN-NA. Sử dụng thuốc trừ sâu ở Thái Lan. Dịch vụ cập nhật thông tin Mạng lưới Hành động Bắc Mĩ với 
Thuốc trừ sâu (PANUPS). Thông tin về thuốc trừ sâu, Tháng 3 năm 1997. Truy cập trên mạng 03/21/07. 
iv.
iv
 Tổ chứ Y tế Thế giới và Quỹ Nhi đồng UNICEF 2010, Những tiến bộ về Nước uống và Vệ sinh môi trường, 
cập nhật năm 2010 
v.
vi.
 Kearns JP, Nyer B, Mansfield E, McLaughlin H, Rutherford D, Knappe DRU, Summers RS. Bếp lò Than sinh 
học đốt trên – khí kéo lên (Top-Lit Up-Draft - TLUD): Công nghệ phù hợp cho năng lượng sạch hộ gia đình chi 
phí thấp và bền vững, xử lý nước, Cải tiến Nông học, và phân tán hấp thụ CO2. trình bày poster tại Hội nghị 
Nước và Sức khỏe, Đại học Bắc Carolina, Chapel Hill, NC tháng 10 năm 2011. 
vii.
 Stuetz W, Prapamontol T, Erhardt JG, Classen HG. Dư lượng thuốc trừ sâu Organochlorine trong sữa mẹ của bộ 
lạc Hmong sống ở vùng núi miền Bắc Thái Lan. Khoa học Về Môi Trường Toàn Diện 273, 2001. p. 53. 
viii.
 “Tốt nhất là giữ nước trong các đồ chứa bằng đồng, để tiếp xúc với ánh sáng mặt trời, và lọc qua than củi.” 
Dịch bởi FE điểm xuất phát của Sanskrit Ousruta Sanghita, được viết vào c.a. 2000 B.C. 
ix.
 Dữ liệu Thống kê Năng lượng Liên Hợp Quốc, Ban Thống kê Liên Hợp Quốc, 
 accessed 11/5/2011. 
x.
 Chen J, Zhu D, Sun C. 2007. Ảnh hưởng của kim loại nặng trong việc hấp phụ của các hợp chất hữu cơ kỵ nước 
vào than củi. Khoa học & Công nghệ Môi trường, 41(7), 2536–2541. 
xi.
 Như vậy đây là mục tiêu chính trong nghiên cứu của chúng tôi về Dung dịch Nước (www.aqsolutions.org) và 
chủ đề cho Luận án Tiến sĩ của Josh Kcuarch về Kỹ thuật Môi trường/kỹ thuật cho các cộng đồng đang phát 
triển tại Đại học Colorado-Boulder. 
xii.
 Burnette R. Sản xuất than củi trong những lò nung thùng phi nằm ngang 200 lít. Ghi chú ECHO Châu Á số 7, 
tháng 10 năm 2010. Hugill, B. Than Sinh học– Một ngôi nhà hữu cơ cho vi sinh vật đất. Ghi chú ECHO Châu Á 
số 9, tháng 4 năm 2011. 
xiii.
 Kearns JP, Wellborn LS, Summers RS, Knappe DRU. Loại bỏ thuốc diệt cỏ 2,4-D khỏi nguồn nước bằng các 
nguyên tử carbon trong than củi vùng bản địa (than sinh học). Gửi tới Tạp chí về Nước và Sức khỏe (trong bài 
phê bình). 
xiv.
 Smith, K. R., Pennise, D. M., Khummongkol, P., Chaiwong, V., Ritgeen, K., Zhang, J., Panyathanya, W., 
Rasmussen, R. A., & Khalil, M. A. K. 1999 Khí Nhà kính từ các thiết bị đốt trong quy mô nhỏ ở các nước đang 
phát triển: Lò làm than củi ở Thái Lan; Báo cáo của EPA-600/R-99-109; Phòng Không khí và Bức xạ và Ban 
Thẩm định Chính sách và Chương trình, Cơ quan Bảo vệ Môi trường Hoa Kì: Washington, DC. 
xv.
 Foley, G. 1986 Làm than củi ở các nước đang phát triển. Earthscan: London. 
xvi.
 UNDP, UNEP. 2009. UNDP, UNEP. 2009. Những cơ hội về than sinh học ở Đông và Nam Phi: Khai thác 
Nguồn Tài chính từ carbon để thúc đẩy bền vững trong lâm nghiệp, nông-lâm nghiệp và Năng lượng Sinh học. 
xvii.
 Grieshop AP, Marshall JD, Kandlikar M. 2011. Lợi ích cho sức khỏe và khí hậu của việc lựa chọn thay thế bếp 
nấu ăn.Chính sách Năng lượng, 2011. 
xviii.
 Johnson M, Lam N, Brant S, Gray C, Pennise D. 2011. Lập mô hình ô nhiễm không khí trong nhà từ khí thải bếp 
nấu ăn ở các nước đang phát triển sử dụng một mô hình hộp Monte Carlo. Môi trường không khí, Tập 45, Số 19, 
trang 3237. 
xix.
 Khởi xướng Than sinh học Quốc tế, 2011.  , accessed 
11/5/2011. 
xx.
 Công ty Lợi ích xã hội Inyenyeri Rwanda,  accessed 11/5/2011. 
xxi.
 Lehmann, J., Gaunt, J., Rondon, M., 2006. Hấp phụ than sinh học ở các hệ sinh thái trên cạn – Một bài phê bình. 
Các chiến lược thích ứng và giảm thiểu biến đổi khí hậu toàn cầu 11, 395–419. 
xxii.
 Bracmort KS (2009) Than sinh học: Nghiên cứu một khái niệm đang nổi lên giúp giảm thiểu biến đổi khí hậu. 
Nghiên cứu Quốc hội. 7-5700, Báo cáo CRS R40186. Truy cập: 
xxiii.
 UNDP, UNEP 2009, trong tác phẩm đã dẫn 
xxiv.
 UNDP, UNEP trong tác phẩm đã dẫn. 
xxv.
 Grieshop và các cộng sự 2011, trong tác phẩm đã dẫn 
xxvi.
 Than sinh học cho quản lý môi trường: Khoa học và Công nghệ. 2009. Lehmann J và Joseph S, eds. Earthscan, 
Anh và Hoa Kì. 
xxvii.
 Anderson PS, Reed TB, Wever PW. Khí hoá cỡ nhỏ: Là gì và tại sao nó hoạt động được. Boiling Point, số 
53, Mạng Năng lượng HEDON, 2007. [] 
xxviii.
 Anderson P. Làm than sinh học trong lò khí hóa và máy sưởi cỡ nhỏ. Chương 11trong Cuộc Cách mạng Than 
sinh học: Làm biến đổi Nông nghiệp & Môi trường, P. Taylor ed. 2010. 
xxix.
 McLaughlin H. 1G Chim Toucan cho Thanóinh học – Tháng 1 2010. Danh mục Than Sinh học truy cập tại web 
[] 
xxx.
 McLaughlin H. Làm thế nào để làm cho than sinh học hấp phụ cao và thấp dùng các nghiên cứu nhỏ. Danh mục 
Năng lượng sinh học truy cập web [
adsorption-biochars] 
xxxi.
 Kearns JP, Shimabuku K, Wellborn LS, Knappe DRU, Summers RS. Sản xuất than sinh học dùng làm các chất 
hấp phụ chi phí thấp: Các ứng dụng trong xử lý nước uống phục vụ cộng đồng đang phát triển. Thuyết trình 
trong hội nghị quốc gia số 242 của Xã hội Hóa học Hoa Kỳ, Denver, CO, tháng 8 năm 2011. 
xxxii.
 Kearns JP, Nyer B, Mansfield E, McLaughlin H, Rutherford D, Knappe D, Summers RS. Than sinh học cho 
bếp nấu ăn đốt ở trên, khí từ dưới lên (top-lit up-draft TULD): công nghệ phù hợp cho năng lượng sạch bền vững 
trong gia đình với chi phí thấp, xử lý nước, cải tiến nông học, và hấp thụ khí CO2 bị phát tán. Bài thuyết trình 
bằng poster: Hội nghị Y tế và Nước toàn cầu, trường Đại học Bắc Carolina, Chapel Hill, NC, tháng 10 năm 
2011. 
xxxiii.
 Gilliom RJ, Barbash JE, Crawford CG, Hamilton PA, Martin JD, Nakagaki N, Nowell LH, Scott J C, 
Stackelberg PE, Thelin GP, and Wolock DM. 2006. Chất lượng nước của nước ta : thuốc trừ sâu trong các 
mạch nước ngầm và sông suối quốc gia. Thông tư Khảo sát Địa chất Hoa Kì 1291. 
xxxiv.
 Dữ liệu Thuốc trừ sâu PAN (www.pesticideinfo.org). Dữ liệu thông tin các loại thuốc trừ sâu trên mạng, Mạng 
lưới Hành động đối phó với thuốc trừ sâu, truy cập ngày 11/4/10 
xxxv.
 Corwin CJ and Summers RS. 2011. Sự hấp phụ và giải hấp của các chất ô nhiễm hữu cơ vi lượng từ các chất 
hấp phụ carbon hoạt tính dạng hạt sau khi tải liên tục và trong suốt chu kỳ nước xoáy ngược. Nghiên cứu nước 
45, 417-426. 

File đính kèm:

  • pdfhoa_chat_tong_hop_gay_o_nhiem_nuoc_mot_thach_thuc_thuong_bi.pdf