Hở van 3 lá nặng mới xuất hiện sau thay van 2 lá nhân tạo: Yếu tố nguy cơ và ý nghĩa tiên lượng
Mục tiêu nghiên cứu: Xác định tần suất, thời điểm xuất hiện và yếu tố nguy cơ của hở van 3 lá nặng sau thay van 2 lá nhân tạo và ảnh hưởng của hở van 3 lá nặng trên tiên lượng của bệnh nhân.
Bệnh nhân và phương pháp: Nghiên cứu đoàn hệ trên những người bệnh van tim hậu thấp được thay van 2 lá nhân tạo không kèm sửa van 3 lá tại Viện Tim trong các năm 1995-2005, không có hở van 3 lá nặng trước mổ và được theo dõi sau mổ ít nhất 1 năm. Ước tính tỉ lệ còn sống không bị hở van 3 lá nặng bằng phương pháp Kaplan-Meier. Xác định các yếu tố nguy cơ độc lập của hở van 3 lá nặng mới xuất hiện sau mổ bằng phân tích đa biến với hồi qui Cox
Bạn đang xem tài liệu "Hở van 3 lá nặng mới xuất hiện sau thay van 2 lá nhân tạo: Yếu tố nguy cơ và ý nghĩa tiên lượng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Hở van 3 lá nặng mới xuất hiện sau thay van 2 lá nhân tạo: Yếu tố nguy cơ và ý nghĩa tiên lượng
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 80.201724 Hở van 3 lá nặng mới xuất hiện sau thay van 2 lá nhân tạo: Yếu tố nguy cơ và ý nghĩa tiên lượng Hồ Huỳnh Quang Trí*, Phạm Nguyễn Vinh** Viện Tim TP. Hồ Chí Minh* Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch** TÓM TẮT Mục tiêu nghiên cứu: Xác định tần suất, thời điểm xuất hiện và yếu tố nguy cơ của hở van 3 lá nặng sau thay van 2 lá nhân tạo và ảnh hưởng của hở van 3 lá nặng trên tiên lượng của bệnh nhân. Bệnh nhân và phương pháp: Nghiên cứu đoàn hệ trên những người bệnh van tim hậu thấp được thay van 2 lá nhân tạo không kèm sửa van 3 lá tại Viện Tim trong các năm 1995-2005, không có hở van 3 lá nặng trước mổ và được theo dõi sau mổ ít nhất 1 năm. Ước tính tỉ lệ còn sống không bị hở van 3 lá nặng bằng phương pháp Kaplan-Meier. Xác định các yếu tố nguy cơ độc lập của hở van 3 lá nặng mới xuất hiện sau mổ bằng phân tích đa biến với hồi qui Cox. Kết quả: 413 bệnh nhân (177 nam, tuổi trung bình 40,9 ± 9,2) được tuyển vào nghiên cứu. Thời gian theo dõi trung vị là 13 năm. 46 bệnh nhân (11,1%) bị hở van 3 lá nặng mới xuất hiện sau mổ. Tỉ lệ còn sống không bị hở van 3 lá nặng là 88,0% ± 1,7% sau 10 năm. Kể từ năm thứ 10 sau mổ không có trường hợp hở van 3 lá nặng mới xuất hiện. Hai yếu tố nguy cơ độc lập của hở van 3 lá nặng mới xuất hiện sau mổ là rung nhĩ (HR 2,0) và hở van 3 lá vừa- nặng trước mổ (HR 2,4). Ở lần tái khám gần nhất, tỉ lệ dùng furosemide để điều trị suy tim ở nhóm hở van 3 lá nặng mới xuất hiện sau mổ là 23,9% và ở nhóm không hở van 3 lá nặng là 7,3% (P = 0,001). Kết luận: Ở người bệnh van tim hậu thấp được thay van 2 lá nhân tạo, 11,1% bị hở van 3 lá nặng mới xuất hiện trong 10 năm đầu sau mổ. Hai yếu tố nguy cơ độc lập của hở van 3 lá nặng mới xuất hiện sau mổ là rung nhĩ và hở van 3 lá vừa-nặng trước mổ. Hở van 3 lá nặng mới xuất hiện sau thay van 2 lá nhân tạo có liên quan với tăng nhu cầu dùng thuốc lợi tiểu để điều trị suy tim. Từ khóa: Hở van 3 lá; Thay van 2 lá nhân tạo. ĐẶT VẤN ĐỀ Ngay từ cuối thập niên 1990 đã có nhiều nghiên cứu cho thấy sau phẫu thuật sửa hoặc thay van 2 lá, hở van 3 lá nặng có thể xuất hiện ở một số bệnh nhân [1-3]. Hở van 3 lá nặng mới xuất hiện sau phẫu thuật van 2 lá có ảnh hưởng xấu trên tiên lượng của người bệnh [4]. Năm 2010 chúng tôi đã công bố nghiên cứu về tiến triển của hở van 3 lá sau phẫu thuật van 2 lá ở người bệnh van tim hậu thấp [5]. Trong bài báo dưới đây, chúng tôi báo cáo kết quả theo dõi tiếp cho đến hết năm 2016 của nhóm bệnh nhân được thay van 2 lá nhân tạo. Mục tiêu NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 80.2017 25 của nghiên cứu là xác định tần suất, thời điểm xuất hiện và yếu tố nguy cơ của hở van 3 lá nặng sau thay van 2 lá nhân tạo và ảnh hưởng của hở van 3 lá nặng trên tiên lượng của bệnh nhân. BỆNH NHÂN VÀ PHƯƠNG PHÁP Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu đoàn hệ. Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân: Dân số nghiên cứu là những người bệnh van tim hậu thấp được thay van 2 lá nhân tạo không kèm sửa van 3 lá tại Viện Tim TP. HCM trong các năm 1995-2005. Tổn thương van 2 lá hậu thấp được xác định bởi siêu âm tim trước mổ và biên bản phẫu thuật. Bệnh nhân được chọn vào nghiên cứu nếu không có hở van 3 lá nặng trước mổ và được theo dõi sau mổ ít nhất 1 năm. Qui trình theo dõi và chăm sóc sau mổ: Tất cả bệnh nhân được điều trị chống đông bằng acenocoumarol uống và được kiểm tra INR (International Normalized Ratio) định kỳ mỗi tháng. Phòng thấp thứ cấp được thực hiện với phenoxymethylpenicillin uống 1 triệu đơn vị/ngày. Các thuốc ức chế men chuyển và lợi tiểu được dùng tùy theo tình trạng lâm sàng của bệnh nhân khi tái khám. Siêu âm tim sau mổ được thực hiện mỗi 6 tháng một lần. Thu thập số liệu: Các số liệu trước mổ được thu thập ở mỗi bệnh nhân gồm số liệu nhân trắc, dạng tổn thương van 2 lá (hẹp đơn thuẩn/chủ yếu hay hở đơn thuần/chủ yếu), tổn thương tim kèm theo, phân độ suy tim theo NYHA, nhịp tim trước mổ (nhịp xoang hay rung nhĩ), kích thước thất phải đo bằng siêu âm tim ở mặt cắt cạnh ức trục dọc, kích thước vòng van 3 lá đo bằng siêu âm tim ở mặt cắt 4 buồng từ mỏm, áp lực động mạch phổi tâm thu đo bằng siêu âm Doppler và mức độ hở van 3 lá trên siêu âm tim. Hở van 3 lá trên siêu âm tim được phân độ dựa vào mức lan của dòng phụt ngược thì tâm thu từ thất phải vào nhĩ phải trên Doppler màu xem ở nhiều mặt cắt khác nhau (lấy theo mặt cắt có mức lan nhiều nhất): nhẹ nếu dòng phụt ngược chiếm < 20% diện tích nhĩ phải, vừa nếu dòng phụt ngược chiếm 20-40% diện tích nhĩ phải, vừa-nặng nếu dòng phụt ngược chiếm >40-50% diện tích nhĩ phải và nặng nếu dòng phụt ngược chiếm > 50% diện tích nhĩ phải. Các số liệu trong mổ được thu thập gồm loại van nhân tạo được thay và phẫu thuật kèm theo. Các số liệu sau mổ được thu thập gồm mức độ hở van 3 lá trên siêu âm tim, thuốc tim mạch (ức chế men chuyển, lợi tiểu) được dùng, chết và biến chứng liên quan với van nhân tạo (rối loạn hoạt động van, huyết khối tắc van). Thời điểm khóa sổ nghiên cứu là ngày 31/12/2016. Phương pháp thống kê: Biến liên tục được biểu diễn ở dạng trung bình ± độ lệch chuẩn. So sánh biến liên tục bằng phép kiểm t. So sánh tỉ lệ bằng phép kiểm chi bình phương hoặc phép kiểm chính xác Fisher. Tỉ lệ còn sống không bị hở van 3 lá nặng được ước tính bằng phương pháp Kaplan-Meier. Xác định các yếu tố nguy cơ độc lập của hở van 3 lá nặng mới xuất hiện sau mổ bằng phân tích đa biến với hồi qui Cox. Trong tất cả các phép kiểm thống kê ngưỡng có ý nghĩa được chọn là p<0,05. Phân tích thống kê được thực hiện với phần mềm SPSS v20. KẾT QUẢ Trong các năm 1995-2005 tại Viện Tim có 440 người bệnh van tim hậu thấp được thay van 2 lá nhân tạo không kèm sửa van 3 lá, không có hở van 3 lá nặng trước mổ và được theo dõi sau mổ ít nhất 1 năm. Trong quá trình theo dõi có 27 bệnh nhân bị rối loạn hoạt động van nhân tạo hoặc huyết khối tắc van. Sau khi loại trừ 27 bệnh nhân này, 413 người còn lại là đối tượng nghiên cứu. 413 bệnh nhân gồm 177 nam và 236 nữ, tuổi trung bình 40,9 ± 9,2 (nhỏ nhất 14 tuổi, lớn nhất 71 tuổi). 59 người (14,3%) được thay van cơ học Allcarbon, 337 (81,6%) người được thay van cơ học Bicarbon và 17 người (4,1%) được thay các loại van NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 80.201726 2 lá nhân tạo khác. Thời gian theo dõi trung vị là 13 năm, ngắn nhất 1,5 năm và dài nhất 17,5 năm. Tổng số bệnh nhân-năm theo dõi là 4982,5. Có 46 bệnh nhân (11,1%) bị hở van 3 lá nặng mới xuất hiện sau mổ. Tỉ lệ còn sống không bị hở van 3 lá nặng tính theo phương pháp Kaplan-Meier là 98,1% ± 0,7% sau 1 năm, 96,1% ± 1,0% sau 2 năm, Hình 1. Tỉ lệ còn sống không bị hở van 3 lá nặng của bệnh nhân trong nghiên cứu So với bệnh nhân không hở van 3 lá nặng, bệnh nhân hở van 3 lá nặng mới xuất hiện sau mổ thường bị rung nhĩ trước mổ hơn, thường có tổn thương van 2 lá dạng hở đơn thuần hoặc hở chủ yếu hơn và thường có hở van 3 lá mức độ vừa-nặng hơn (bảng 1). Để xác định các yếu tố nguy cơ độc lập của hở van 3 lá nặng mới xuất hiện sau mổ, chúng tôi đưa vào mô hình hồi qui Cox 4 biến là nhịp tim trước mổ (rung nhĩ so với nhịp xoang), dạng tổn thương van 2 lá trước mổ (hở đơn thuần/chủ yếu so với hẹp đơn thuần/chủ yếu), mức độ hở van 3 lá trước mổ (mức vừa-nặng so với mức nhẹ hoặc vừa) và kích thước vòng van 3 lá đo bằng siêu âm tim. Kết quả phân tích cho thấy có 2 yếu tố nguy cơ độc lập của hở van 3 lá nặng mới xuất hiện sau mổ là rung nhĩ và hở van 3 lá mức độ vừa-nặng trước mổ (bảng 2). Trong quá trình theo dõi có 2 ca chết, 1 ca do viêm phổi và 1 ca do tai nạn giao thông. Ở lần tái khám gần nhất, tỉ lệ dùng thuốc lợi tiểu furosemide để điều trị suy tim ở nhóm hở van 3 lá nặng mới xuất hiện sau mổ cao hơn có ý nghĩa so với tỉ lệ này ở nhóm không hở van 3 lá nặng (23,9% so với 7,3%; P = 0,001). 95,6% ± 1,0% sau 3 năm, 93,6% ± 1,2% sau 4 năm, 92,5% ± 1,3% sau 5 năm, 91,1% ± 1,4% sau 6 năm, 90,0% ± 1,5% sau 7 năm, 88,9% ± 1,6% sau 8 năm và 88,0% ± 1,7% sau 10 năm. Kể từ năm thứ 10 sau mổ không có trường hợp hở van 3 lá nặng mới xuất hiện. Trên hình 1 là đường Kaplan-Meier biểu diễn tỉ lệ còn sống không bị hở van 3 lá nặng. Tỷ lệ cò n số ng kh ôn g b ị h ở va n 3 lá nặ ng Số bệnh nhân được theo dõi NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 80.2017 27 Bảng 1. So sánh 2 nhóm có và không có hở van 3 lá nặng mới xuất hiện sau mổ Hở van 3 lá nặng (n = 46) Không hở van 3 lá nặng (n 367) P Tuổi (năm) Trung bình ± độ lệch chuẩn Nhỏ nhất – lớn nhất 43,2 ± 10,3 17 – 71 40,6 ± 9,0 14 – 69 0,077 Giới nam 15 (32,6%) 162 (44,1%) 0,151 Phân độ NYHA trước mổ I II III IV 0 42 4 0 7 335 25 0 0,583 Nhịp tim trước mổ Nhịp xoang Rung nhĩ 15 (32,6%) 31 (67,4%) 202 (55,0%) 165 (45,0%) 0,005 Tổn thương van 2 lá Hở đơn thuần hoặc chủ yếu Hẹp đơn thuần hoặc chủ yếu 22 (47,8%) 24 (52,2%) 112 (30,5%) 255 (69,5%) 0,029 Kích thước vòng van 3 lá (mm) 31,2 ± 4,1 30,0 ± 4,1 0,070 Kích thước thất phải (mm) 17,2 ± 2,9 17,2 ± 3,8 0,990 Mức độ hở van 3 lá trước mổ Nhẹ hoặc vừa Vừa-nặng 33 (71,7%) 13 (28,3%) 324 (88,3%) 43 (11,7%) 0,005 ALĐMP tâm thu trước mổ (mm Hg) 52,6 ± 12,9 52,2 ± 17,3 0,328 Thay van động mạch chủ kèm theo 22 (47,8%) 141 (38,4%) 0,219 Ghi chú: ALĐMP = áp lực động mạch phổi. Bảng 2. Kết quả phân tích đa biến bằng hồi qui Cox tìm yếu tố nguy cơ độc lập của hở van 3 lá nặng mới xuất hiện sau mổ. Biến HR (khoảng tin cậy 95%) P Rung nhĩ (vs nhịp xoang) 2,064 (1,100 – 3,875) 0,024 Hở van 3 lá mức độ vừa-nặng (vs hở van 3 lá nhẹ hoặc vừa) 2,382 (1,243 – 4,566) 0,009 Hở van 2 lá đơn thuần/chủ yếu (vs hẹp van 2 lá đơn thuần/chủ yếu) 1,714 (0,953 – 3,083) 0,072 Kích thước vòng van 3 lá (mỗi mm) 1,028 (0,962 – 1,097) 0,413 NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 80.201728 BÀN LUẬN Nghiên cứu của chúng tôi công bố năm 2010 trên những người bệnh van tim hậu thấp được sửa hoặc thay van 2 lá không kèm sửa van 3 lá cho thấy hở van 3 lá nặng mới xuất hiện sau mổ có liên quan với tăng nhu cầu dùng thuốc tim mạch, đặc biệt là thuốc lợi tiểu, và có 2 yếu tố dự báo một cách độc lập hở van 3 lá nặng mới xuất hiện sau mổ là rung nhĩ và hở van 3 lá vừa-nặng trước mổ [5]. Kết quả theo dõi thêm gần 8 năm của riêng nhóm bệnh nhân được thay van 2 lá nhân tạo đã tái xác nhận những điều vừa nêu. Tần suất hở van 3 lá nặng mới xuất hiện sau mổ 11,1% trong nghiên cứu của chúng tôi cũng tương tự tần suất được các tác giả Izumi và Matsuyama báo cáo [2,3]. Về ảnh hưởng trên tiên lượng, một số tác giả nhận thấy hở van 3 lá mới xuất hiện sau mổ có liên quan với tăng tử vong trễ [4,6- 8]. Trong nghiên cứu này tử vong trễ rất thấp (2 ca). Có thể lý giải sự khác biệt này là do bệnh nhân của chúng tôi là những người trẻ bị tổn thương van tim nguyên phát, không có tổn thương mạch vành hay bệnh cơ tim kèm theo. Về yếu tố nguy cơ của hở van 3 lá nặng mới xuất hiện sau mổ, Matsuyama báo cáo có hở van 3 lá vừa và rung nhĩ trước mổ [3]. Các tác giả Shiran, Song và Ariyoshi cũng đều nhận thấy rung nhĩ trước mổ là yếu tố dự báo hở van 3 lá nặng sau mổ [7-9]. Theo Kim và cộng sự, rung nhĩ có thể gây hở van 3 lá tăng nặng sau mổ qua cơ chế như sau: Rung nhĩ gây ứ đọng máu trong nhĩ trái và tăng áp lực nhĩ trái khiến cho thành phần hậu mao mạch của tăng áp động mạch phổi được duy trì, hậu quả là sự dãn thất phải và dãn vòng van 3 lá tiếp tục tiến triển sau mổ [10]. Một cơ chế nữa được đề cập là rung nhĩ đáp ứng thất nhanh về lâu dài có thể gây “bệnh cơ tim do rung nhĩ” (atrial fibrillation-induced cardiomyopathy) với hậu quả là sự tái định dạng các tâm thất dẫn đến hở các van nhĩ thất tăng nặng [11]. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi có ý nghĩa quan trọng về mặt thực hành. Hướng dẫn 2014 của Trường Môn Tim và Hiệp hội Tim Hoa Kỳ về xử trí bệnh van tim khuyến cáo sửa van 3 lá kèm theo khi phẫu thuật van 2 lá trong các trường hợp sau: Hở van 3 lá nặng (class I), bệnh nhân có dãn vòng van 3 lá hoặc đã từng bị suy tim phải (class IIa), bệnh nhân có hở van 3 lá cơ năng mức độ vừa và tăng áp động mạch phổi (class IIb) [12]. Dựa vào kết quả nghiên cứu này, chúng tôi cho rằng nên xem xét sửa van 3 lá kèm theo khi thay van 2 lá nhân tạo cho người bệnh van tim hậu thấp có hở van 3 lá mức độ vừa-nặng và rung nhĩ. KẾT LUẬN Ở người bệnh van tim hậu thấp được thay van 2 lá nhân tạo tại Viện Tim trong các năm 1995- 2005, có 11,1% bị hở van 3 lá nặng mới xuất hiện trong 10 năm đầu sau mổ. Tỉ lệ còn sống không bị hở van 3 lá nặng là 92,5% ± 1,3% sau 5 năm và 88,0% ± 1,7% sau 10 năm. Hai yếu tố nguy cơ độc lập của hở van 3 lá nặng mới xuất hiện sau mổ là rung nhĩ và hở van 3 lá vừa-nặng trước mổ. Hở van 3 lá nặng mới xuất hiện sau thay van 2 lá nhân tạo có liên quan với tăng nhu cầu dùng thuốc lợi tiểu để điều trị suy tim. ABSTRACT New severe tricuspid regurgitation (TR) after mitral valve replacement (MVR): Risk factors and prognostic impact Aim of the study: To define the incidence, the time of development, the risk factors, and the prognostic impact of new severe TR after MVR. Patients and method: Cohort study in patients with rheumatic valve disease undergoing MVR without concomitant tricuspid valve repair at the Heart Institute in 1995-2005, who did not have preoperative severe NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 80.2017 29 TR and were followed for at least 1 year. Survival without severe TR was estimated by the Kaplan- Meier method. Independent risk factors for new severe TR were identified by multiple Cox regression analysis. Results: 413 patients (177 men, mean age 40,9 ± 9,2 years) were included. Median follow-up was 13 years. 46 patients (11,1%) had new severe TR. Survival without severe TR was 88,0% ± 1,7% at 10 years. There was no new severe TR after the 10th year of follow-up. Independent risk factors for new severe TR were atrial fibrillation (HR 2,0) and preoperative moderate-to-severe TR (HR 2,4). At the most recent follow-up, furosemide use was 23,9% in patients with new severe TR and 7,3% in patient without new severe TR (P = 0,001). Conclusions: In patients with rheumatic valve disease undergoing MVR, the incidence of new severe TR was 11,1% in the first 10 years after the operation. Independent risk factors for new severe TR were atrial fibrillation and preoperative moderate-to-severe TR. New severe TR increases the need for diuretic use for the treatment of heart failure. Key words: Tricuspid regurgitation; Mitral valve replacement. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Porter A, Shapira Y, Wurzel M, et al. Tricuspid regurgitation late after mitral valve replacement: Clinical and echocardiographic evaluation. J Heart Valve Dis 1999;8:57-62. 2. Izumi C, Iga K, Konishi T. Progression of isolated tricuspid regurgitation late after mitral valve surgery for rheumatic mitral valve disease. J Heart Valve Dis 2002;11:353-356. 3. Matsuyama K, Matsumoto M, Sugita T, et al. Predictors of tricuspid regurgitation after mitral valve surgery. Ann Thorac Surg 2003;75:1826-1828. 4. Ruel M, Rubens FD, Masters RG, et al. Late incidence and predictors of persistent or recurrent heart failure in patients with mitral prosthetic valves. J Thorac Cardiovasc Surg 2004;128:278-283. 5. Hồ Huỳnh Quang Trí. Nghiên cứu tiến triển của hở van 3 lá sau phẫu thuật van 2 lá ở người bệnh van tim hậu thấp. Luận án Tiến sĩ Y học. Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh, 2010. 6. Chan V, Price J, Burwash I, et al. Uncorrected moderate tricuspid regurgitation impacts late survival in patients undergoing mitral valve replacement. Circulation 2007;116(suppl II):II-447. 7. Shiran A, Najjar R, Adawi, Aronson D. Risk factors for progression of functional tricuspid regurgitation. Am J Cardiol 2014;113:995-1000. 8. Song H, Kim MJ, Chung CH, et al. Factors associated with development of late significant tricuspid regurgitation after successful left-sided valve surgery. Heart 2009;95:931-936. 9. Ariyoshi T, Hashizume K, Taniguchi S, et al. Which type of secondary tricuspid regurgitation accompanying mitral valve disease should be surgically treated? Ann Thorac Cardiovasc Surg 2013;19:428-434. 10. Kim HK, Kim YJ, Kim KI, et al. Impact of the Maze operation combined with left-sided valve surgery on the change in tricuspid regurgitation over time. Circulation 2005;112(suppl I):I-14–I-19. 11. Cha YM, Redfield MM, Shen WK, et al. Atrial fibrillation and ventricular dysfunction: A vicious electromechanical cycle. Circulation 2004;109:2839-2843. 12. Nishimura RA, Otto CM, Bonow RO, et al. 2014 AHA/ACC Guideline for the management of patients with valvular heart disease: A report of the American College of Cardiology/American Heart Association Task Force on Practice Guidelines. J Am Coll Cardiol 2014;63:e57-e185.
File đính kèm:
ho_van_3_la_nang_moi_xuat_hien_sau_thay_van_2_la_nhan_tao_ye.pdf

