Hiểu và điều trị đúng rối loạn lo âu (Correct understanding andtreatment of anxiety disorders)

Trong cuộc sống, ai cũng có những lúc phải cảm thấy lo lắng hồi hộp trước một sự việc quan trọng. Ðó là những lo lắng mang tính chất bình thường và là một sự đáp ứng tự nhiên của cơ thể. Trong xã hội ngày nay, stress và lo lắng đã trở thành những vấn đề thường gặp của cuộc sống khi chúng ta phải đương đầu với những rắc rối tài chính, cái chết của một người yêu mến hay bạn bè, sự đòi hỏi của công việc, những mối quan hệ căng thẳng hay những tình huống khó khăn khác. Đôi khi những cảm xúc như thế có thể giúp ích vì chúng hướng cho chúng ta có được sự nỗ lực lớn nhất hay phản ứng trong những tình huống khẩn cấp.

Nhưng khi sự việc đó không còn, mà sự lo lắng vẫn tồn tại và làm ảnh hưởng đến mối quan hệ trong cuộc sống hàng ngày, những hoạt động về công việc, học tập, giao tiếp thì có thể đã chuyển sang một trạng thái lo âu bệnh lý. Rối loạn lo âu (RLLA) có thể tác động đến mọi lứa tuổi nhưng chủ yếu từ tuổi vị thành niên trở lên và thường thấy ở nữ hơn là nam. Người bị RLLA thường sống với tâm lý cho rằng có điều gì xấu sắp xảy ra và thường tin nó là bệnh tật trong khi thực tế lại không phải vậy

pdf 5 trang phuongnguyen 160
Bạn đang xem tài liệu "Hiểu và điều trị đúng rối loạn lo âu (Correct understanding andtreatment of anxiety disorders)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Hiểu và điều trị đúng rối loạn lo âu (Correct understanding andtreatment of anxiety disorders)

Hiểu và điều trị đúng rối loạn lo âu (Correct understanding andtreatment of anxiety disorders)
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 7 - 9/2016
97
MỞ ĐẦU
Trong cuộc sống, ai cũng có những 
lúc phải cảm thấy lo lắng hồi hộp trước 
một sự việc quan trọng. Ðó là những lo 
lắng mang tính chất bình thường và là một 
sự đáp ứng tự nhiên của cơ thể. Trong xã 
hội ngày nay, stress và lo lắng đã trở thành 
những vấn đề thường gặp của cuộc sống 
khi chúng ta phải đương đầu với những rắc 
rối tài chính, cái chết của một người yêu 
mến hay bạn bè, sự đòi hỏi của công việc, 
những mối quan hệ căng thẳng hay những 
tình huống khó khăn khác. Đôi khi những 
cảm xúc như thế có thể giúp ích vì chúng 
hướng cho chúng ta có được sự nỗ lực lớn 
nhất hay phản ứng trong những tình huống 
khẩn cấp. 
Nhưng khi sự việc đó không còn, mà 
sự lo lắng vẫn tồn tại và làm ảnh hưởng 
đến mối quan hệ trong cuộc sống hàng 
ngày, những hoạt động về công việc, học 
tập, giao tiếp thì có thể đã chuyển sang 
một trạng thái lo âu bệnh lý.
Rối loạn lo âu (RLLA) có thể tác động 
đến mọi lứa tuổi nhưng chủ yếu từ tuổi vị 
thành niên trở lên và thường thấy ở nữ hơn 
là nam. Người bị RLLA thường sống với 
tâm lý cho rằng có điều gì xấu sắp xảy ra 
và thường tin nó là bệnh tật trong khi thực 
tế lại không phải vậy. 
Mặc dù rất phổ biến, nhưng rối loạn 
lo âu thường bị coi là sự lo lắng đơn thuần 
thay vì là căn bệnh có thể gây suy nhược 
hay tàn phế, cần hiểu đúng và điều trị đúng. 
Rối loạn lo âu là bệnh lý thường gặp 
với tỷ lệ mắc bệnh chung trong 1 năm 
khoảng 3%, và tỷ lệ bệnh chung suốt đời là 
5%. Phụ nữ mắc bệnh này nhiều gấp 2 lần 
nam giới, tuổi khởi bệnh thường khó xác 
định, nhưng bệnh nhân hay đi khám bệnh 
trong độ tuổi từ 20–30. Tuy nhiên, chỉ có 
1/3 đến khám và điều trị chuyên khoa tâm 
HIỂU VÀ ĐIỀU TRỊ ĐÚNG RỐI LOẠN LO ÂU
(Correct understanding andtreatment of anxiety disorders)
Nguyễn Văn Ca1
1 Bệnh viện Quân Y 175
Người phản hồi (Corresponding): Nguyễn Văn Ca (Email: [email protected])
Ngày nhận bài: 21/8/2016. Ngày phản biện đánh giá bài báo: 14/9/2016
Ngày bài báo được đăng: 30/9/2016
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 7 - 9/2016
98
thần, số còn lại điều trị tại các bác sĩ đa 
khoa, tim mạch, hô hấp, tiêu hóa
NGUYÊN NHÂN
Chưa được biết rõ, có những giả thiết 
có thể liên quan đến chất chuyển hoá trong 
não, chẳng hạn như dopamine, serotonin 
và norepinephrine. Ngoài ra tình trạng này 
có thể do nguyên nhân di truyền học, nhân 
cách và kinh nghiệm sống.
Các yếu tố nguy cơ:
- Chấn thương thời thơ ấu. Những trẻ 
em đã phải chịu đựng sự lạm dụng hoặc 
chấn thương, bao gồm cả chứng kiến sự 
kiện chấn thương, có nguy cơ cao phát 
triển rối loạn lo âu tổng quát tại một số 
thời điểm trong cuộc sống. Trên toàn cầu, 
tỷ lệ những người có tiền sử bị lạm dụng 
tình dục báo cáo lo âu là từ 2% tới 82%.
- Bệnh mãn tính hay bệnh tật nghiêm 
trọng, chẳng hạn như ung thư, có thể dẫn 
đến nỗi lo thường trực về tương lai, điều 
trị và tài chính. Khoảng 2% tới 49% những 
người bị suy tim sung huyết có các triệu 
chứng lo âu. Từ 10% tới 50% những người 
bị bệnh động mạch vành có rối loạn hoảng 
sợ.
Trong khi đó, tỷ lệ lo âu ở bệnh nhân 
ung thư từ 15% tới 23%.
- Căng thẳng. Một sự kiện lớn hoặc 
một số tình huống căng thẳng nhỏ hơn có 
thể gây ra lo lắng quá mức.
- Nhân cách một số người dễ bị rối 
loạn lo âu hơn những người khác. Ngoài 
ra, một số rối loạn nhân cách, chẳng hạn 
như rối loạn nhân cách ranh giới, cũng có 
thể được liên kết đến rối loạn lo âu tổng 
quát.
- Lạm dụng lạm dụng ma túy hoặc 
rượu, nghiện internet có thể làm trầm trọng 
thêm rối loạn lo âu tổng quát. Trên toàn 
thế giới, 37% con bạc bệnh lý báo cáo bị 
rối loạn lo âu, trong khi các nghiên cứu về 
nghiện internet (chủ yếu ở các nước châu 
Á) thấy rằng tỷ lệ mắc lo âu cao hơn gấp 
2 lần ở những người nghiện internet so vo 
với nhóm không nghiện.
PHÂN LOẠI
Theo ICD-10 (International 
Classification of Diseases – 10)
Mục F40-F48: các rối loạn bệnh tâm 
căn có liên quan đến stress và dạng cơ thể:
F40: Các rối loạn lo âu ám ảnh sợ:
F40.0: ám ảnh sợ khoảng trống.
F40.00: ám ảnh sợ khoảng trống 
không có rối loạn hoảng sợ.
F40.01: ám ảnh sợ khoảng trống có 
rối loạn hoảng sợ.
F40.1: ám ảnh sợ xã hội.
F40.2: ám ảnh sợ đặc hiệu (riêng lẻ).
F40.8: Các rối loạn lo âu ám ảnh sợ 
khác.
F40.9: Rối loạn lo âu ám ảnh sợ không 
biệt định.
F41: Các rối loạn lo âu khác.
F41.0: Rối loạn hoảng sợ.
F41.1: Rối loạn lo âu lan toả.
F41.2: Rối loạn hỗn hợp lo âu và trầm 
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 7 - 9/2016
99
cảm.
F41.3: Các rối loạn lo âu hỗn hợp 
khác.
F41.8: Các rối loạn lo âu biệt định 
khác.
F41.9: Rối loạn lo âu không biệt định.
F42: Rối loạn ám ảnh nghi thức.
F42.0: ý nghĩ hoặc nghiền ngẫm ám 
ảnh chiếm ưu thế.
F42.1: Hành vi nghi thức chiếm ưu 
thế.
F42.2: Các ý nghĩ và hành vi ám ảnh 
hỗn hợp.
F42.8: Các rối loạn ám ảnh nghi thức 
khác.
F42.9: Rối loạn ám ảnh nghi thức 
không biệt định.
TRIỆU CHỨNG LÂM SÀNG.
Đặc điểm lâm sàng chung của rối loạn 
lo âu.
Theo quan điểm của Tổ chức Y tế Thế 
giới.
Các rối loạn lo âu ám ảnh sợ thì lo âu 
xuất hiện hoặc duy nhất hoặc chủ yếu do 
những hoàn cảnh hay những đối tượng bên 
ngoài chủ thể và thực tế không nguy hiểm. 
Kết quả đặc trưng là người bệnh hoặc né 
tránh hoàn cảnh hoặc chịu đựng với nỗi 
khiếp sợ.
Thường không phân biệt được lo âu 
ám ảnh sợ với các loại lo âu khác về mặt 
chủ quan và mức độ trầm trọng. Sự lo lắng 
của chủ thể có thể là các triệu chứng chủ 
quan như đánh trống ngực, ngất xỉu, sợ 
chết, sợ bị điên và sợ mất tự tin.
Lo âu tăng lên khi biết người khác 
không coi hoàn cảnh mà người bệnh từng 
né tránh là sự đe doạ và nguy hiểm. Chỉ 
xoay quanh suy nghĩ về hoàn cảnh gây ra 
ám ảnh sợ đã đủ để làm cho một trạng thái 
lo âu xuất hiện.
Lo âu ám ảnh sợ thường kết hợp với 
trầm cảm và nặng lên khi có một giai đoạn 
trầm cảm xen vào. Một số giai đoạn trầm 
cảm kèm theo lo âu ám ảnh sợ nhất thời 
hoặc ám ảnh sợ khoảng trống cũng có khí 
sắc trầm. Các chẩn đoán bao gồm cả hai 
hoặc chỉ một nếu rối loạn nào nổi bật hơn. 
Nếu rối loạn trầm cảm xuất hiện trước thì 
được ưu tiên cho chẩn đoán rối loạn trầm 
cảm. Ám ảnh sợ gặp ở nữ giới nhiều hơn.
Các rối loạn lo âu khác là những triệu 
chứng chính của rối loạn không khu trú 
vào bất kỳ hoàn cảnh đặc biệt nào và ít khi 
nghiêm trọng.
Rối loạn ám ảnh nghi thức là nét chủ 
yếu trong các ý tưởng ám ảnh hoặc động 
tác nghi thức tái diễn. Ý tưởng ám ảnh là 
những ý nghĩ, những hình ảnh hay xung 
động vào não người bệnh lặp đi lặp lại 
một cách định hình. Chúng làm cho người 
bệnh luôn đau khổ vì tính thô bạo, tà dâm 
hoặc tri giác vô nghĩa mà người bệnh phải 
luôn cưỡng lại một cách vô hiệu. Chúng là 
ý nghĩ riêng của người bệnh, mặc dù xuất 
hiện ngoài ý muốn, ghê tởm và không thú 
vị gì. Trong trường hợp quá kéo dài, sự 
kháng cự là thứ yếu và xuất hiện rối loạn 
thần kinh thực vật, cảm giác đau khổ hoặc 
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 7 - 9/2016
100
căng thẳng tâm thần. Rối loạn trầm cảm tái 
diễn làm tăng mức độ trầm trọng của rối 
loạn ám ảnh. Rối loạn ám ảnh nghi thức 
phổ biến đều cả nam giới lẫn nữ giới. Bệnh 
bắt đầu ở tuổi trẻ con và vị thành niên, tiến 
triển mạn tính và ít có triệu chứng trầm 
cảm.
* Để đơn giản hãy trả lời những câu 
hỏi dưới đây. Nếu có ít nhất 4 câu trả lời 
“có” thì chẩn đoán rối loạn lo âu:
1. Có thường xuyên thấy căng thẳng, 
lo lắng hoặc dễ cáu kỉnh, bực mình không?
2. Sự lo lắng có ảnh hưởng đến công 
việc, học tập hoặc nhiệm vụ của bạn trong 
gia đình không?
3. Có cảm thấy sợ hãi mà biết là mình 
sợ rất vô lý nhưng không thể kiểm soát 
được điều đó không?
4. Có tin rằng có một điều gì xấu sẽ 
xảy ra nếu có một số việc không được làm 
theo cách mà bạn nghĩ không?
5. Có né tránh những tình huống hoặc 
những hoạt động nhất định nào đó bởi vì 
nó gây cho lo lắng không?
6. Có bị những cơn nhịp tim đập 
nhanh mà thường cho là mình bị bệnh lý 
về tim mạch và đi khám thì không có bệnh 
lý gì về tim mạch không?
7. Có cảm giác như là có điều gì nguy 
hiểm và thảm họa gì đó sắp xảy ra đối với 
mình không? Biểu hiện thế nào?
ĐIỀU TRỊ
1. Điều trị bằng tâm lý.
- Tư vấn giúp bệnh nhân, gia đình 
bệnh nhân hiểu được bản chất của rối loạn 
lo âu (nguyên nhân, lâm sàng, tiến triển).
- Chiến lược kiểm soát lo âu và giảm 
stress:
• Liệu pháp nhận thức hành vi
• Tập thư giãn, tập thở, tập khí công, 
tập yoga.
• Tham gia các hoạt động vui chơi giải 
trí, các hoạt động thể lực (để thư giãn hoặc 
lôi cuốn bệnh nhân).
2. Điều trị bằng thuốc.
- Nhóm Benzodiazepine (BZ).
 Tác dụng yên dịu, giải lo âu, gây 
ngủ.
- Thuốc giải lo âu Buspirone.
 Ưu thế hơn BZ.
 Không có triệu chứng cai.
- Nhóm chống trầm cảm SSRI.
 Cơ chế tác động nên hệ serotonin.
- Nhóm chống trầm cảm SNRI.
- Nhóm chống trầm cảm 3 vòng.
- Các thuốc chống loạn thần.
 Chống loạn thần liều thấp có thể thay 
thế BZ và chống trầm cảm trong điều trị 
các rối loạn dạng cơ thể. Ít tác dụng phụ, 
không gây lệ thuộc thuốc.
 DỰ PHÒNG
 Dưới đây là một vài điều có thể làm:
- Tập thể dục hàng ngày. Tập thể dục 
làm giảm căng thẳng mạnh mẽ, có thể cải 
thiện tâm trạng và có thể giữ cho khỏe 
mạnh. Tốt nhất nếu phát triển một thói 
quen thường xuyên và làm việc hầu hết 
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 7 - 9/2016
101
các ngày trong tuần. Bắt đầu chậm và dần 
dần tăng số lượng và cường độ tập thể dục.
- Ăn một chế độ ăn uống lành mạnh. 
Tránh béo, thức ăn có nhiều đường và chế 
biến sẵn. 
Ăn các loại thực phẩm giàu axit béo 
omega-3 và các vitamin nhóm B.
- Tránh uống rượu, bia và các chất 
kích thích khác. Có thể làm trầm trọng 
thêm sự lo lắng.
- Sử dụng kỹ thuật thư giãn. Kỹ thuật 
trực quan, thiền và yoga.
- Ngủ đủ giấc và bảo đảm có chất 
lượng giấc ngủ tốt. 
- Vitamin B và acid folic. Các dưỡng 
chất này có thể làm giảm lo lắng bằng cách 
ảnh hưởng đến việc sản xuất các hóa chất 
cần thiết cho bộ não hoạt động.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chẩn đoán và điều trị rối loạn lo âu 
(Tháng 10/2015). PGS.TS. Cao Tiến Đức 
- CNBM Tâm thần.
2. Y học Cộng đồng tháng 11/2016.
3. Lo âu và triệu chứng cơ thể: hình 
thành một hội chứng mới ? Bs Phạm Văn 
Trụ. Bv TT Tp HCM.
4. Roger MP, White K, Warshaw 
MG, et al. Prevalence of medical illness 
in patients with anxiety disorders. Int J 
psychiatry Med 1994;24:83-96.
5. The ICD-10, Classiíỉcation of 
Mental and Behavioural Disorders (1992), 
World Health Organisation Geneva, pp. 
141

File đính kèm:

  • pdfhieu_va_dieu_tri_dung_roi_loan_lo_au_correct_understanding_a.pdf